Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Bản án, quyết định của Tòa án môn Tố tụng dân sự và hôn nhân gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.77 KB, 101 trang )

CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA
ÁN


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
CỘNG HÒA XÃ
NGHĨA VIỆT NAM
TÒA DÂN SỰ
Độc
– Tự do – Hạnh phúc
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 20/2007/DS-GĐT
Ngày: 9/7/2007
Vụ án: Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản

CHỦ
lập

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa:
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tham gia


phiên tòa:
Họp phiên tòa ngày 9/7/2007, tại trụ sở Toà án nhân
tối cao để xét xử giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “tranh
về hợp đồng vay tài sản” giữa:

dân
chấp

1. Nguyên đơn: Công ty du lịch Phú Yên có trụ sở
nhà số 149X/B25 Tô Hiến Thành, phường 13, quận 10,
phố Hồ Chí Minh, do ông Lê Quang Bính đại diện theo
uỷ quyền ngày 19/11/1999.

tại
thành
giấy

2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương
Thịnh Phúc có trụ sở tại nhà số 153 Nguyễn Thông,
phường 9, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, do ông Vưu Út
Giám đốc đại diện (sau đó đã bỏ trốn).

mại


3. Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

2



Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

- Ông Mạc Hữu Mẫn sinh năm 1940;
- Bà Lê Thị Phấn sinh năm 1938;
- Ông Mẫn và Phấn cùng cư trú tại nhà số 62 Dạ Nam, phường 2, quận 8, thành
phố Hồ Chí Minh.
NHẬN THẤY
Tại đơn khởi kiện ngày 6/4/1998 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án,
Công ty Du lịch Phú Yên trình bày:
Ngày 10/8/1995, Công ty Du lịch Phú Yên (sau đây gọi tắt là Công ty Phú Yên)
ký hợp đồng nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá số 29/HĐUT của Công ty Trách nhiệm
hữu hạn thương mại Thịnh Phúc (sau đây gọi là Công ty Thịnh Phúc) nhập khẩu 11 xe
ô tô tải chuyên dùng (đã qua sử dụng) với giá 90.000 USD. Công ty Phú Yên đã nhập
về 06 xe ô tô do Hàn Quốc sản xuất, trị giá 50.000 USD và giao cho Công ty Thịnh
Phúc, Công ty Thịnh Phúc đã ký quỹ trước 5.000 USD. Số tiền còn lại là 45.000 USD
sẽ phải thanh toán trong thời hạn 180 ngày.
Ngày 27/11/1995, tại Phòng công chứng số 2 thành phố Hồ Chí Minh, ông Mạc
Hữu Mẫn và bà Lê Thị Phấn ký cam kết thế chấp căn nhà số 62 Dạ Nam, phường 2,
quận 8, thành phố Hồ Chí Minh (thuộc quyền sở hữu của ông Mẫn, bà Phấn) để bảo
lãnh cho Công ty Thịnh Phúc do ông Vưu Út đại diện, thực hiện hợp đồng uỷ thác
nhập khẩu số 29/HĐUT nêu trên. Ông Út (bên được bảo lãnh) với ông Mẫn và bà Phấn
(người thế chấp) cam kết: “Trường hợp đáo hạn mà Công ty Thịnh Phúc không trả đủ
nợ, lãi cho Công ty Phú Yên để thanh lý hợ đồng trên, chúng tôi đồng ý cho Công ty
Phú Yên phát mãi nhà nói trên để trừ nợ, lãi và chi phí liên quan đến lô hàng mà không
tranh chấp, khiếu nại gì.”
Tại “Biên bản đối chiếu và xác nhận công nợ” ngày 31/1/1998 giữa Công ty Phú
Yên với Công ty Thịnh Phúc, Công ty Thịnh Phúc xác nhận đến ngày 31/1/1998 còn

nợ Công ty Phú Yên tổng số tiền là 1.015.814.000 đồng (bao gồm 45.000 USD nợ của
hợp đồng uỷ thác số 29/HĐUT ngày 10/8/1998, lãi của tiền nợ do chậm trả từ tháng
4/1996 đến tháng 1/1998 là 14.850 USD và nợ tiền hàng cũ là 238.841.300 đồng) và
đồng ý để Công ty Phú Yên tiến hành lập thủ tục phát mãi nhà số 62 Dạ Nam để thu
hồi nợ.
Ngày 6/4/1998, Công ty Phú Yên khởi kiện Toà án kinh tê nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh yêu cầu Công ty Thịnh Phúc thanh toán số nợ và lãi theo biên bản xác
nhận công nợ nêu trên, tổng cộng là 1.015.814.000 đồng; trường hợp Công ty Thịnh
Phúc không có khả năng thanh toán số nợ trên thì đề nghị Toà án phát mãi căn nhà số
62 Dạ Nam để thanh toán nợ gốc và lãi theo quy định.
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

3


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

Bị đơn là Công ty Thịnh Phúc do ông Vưu Út – Giám đốc có lời khai duy nhất tại
Toà án ngày 20/5/1998 xác nhận: Công ty Thịnh Phúc còn nợ Công ty Phú Yên 45.000
USD từ ngày 1/4/1996 đến nay chưa thanh toán, Công ty Phú Yên áp dụng mức lãi
suất quá cao, đề nghị thương lượng lại. Hợp đồng số 29/HĐUT ngày 10/8/1998 được
bảo đảm bằng tài sản là nhà số 62 Dạ Nam, phường 2, quận 8, thành phố Hồ Chí
Minh; cam kết thanh toán trong hạn 3 tháng, quá hạn không trả được thì phát mãi nhà
số 62 Dạ Nam. Ngoài ra, Công ty Thịnh Phúc còn nợ Công ty Phú Yên 238.841.300
đồng (số nợ này không có bảo đảm), Cong ty Thịnh Phúc sẽ thanh toán trong hạn 18
tháng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Phấn trình bày: vợ chồng bà
có bảo lãnh cho ông Út thực hiện hợp đồng uỷ thác số 29/HĐUT ngày 10/8/1998 để

nhập 6 chiếc xe ô tô chứ không bảo lãnh các việc khác; vợ chồng bà không nợ Công ty
Phú Yên nên koong có trách nhiệm gì với số nợ của ông Út đối với Công ty Phú Yên.
Tại quyết định chuyển vụ án số 14/CH-KT ngày 26/8/1999, Toà án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh xác định thoả thuận ngày 31/1/1998 giữa hai bên ký kết với
nhau nhằm xác định công nợ, mang tính dân sự, không phải là tranh chấp hợp đồng
kinh tế mà là tranh chấp dân sự và được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 1588/DSST ngày 21/8/2001 Toà án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Du lịch tỉnh Phú Yên.
Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại Thịnh Phúc. Do ông Vưu Út làm
Giám đốc, trả cho Công ty Du lịch tỉnh Phú Yên số nợ còn thiếu của hợp đồng uỷ thác
số 29/HĐUT ngày 10/8/1995 là 989.086.247 đồng (chín trăm tám mươi chín triệu, tám
mươi sáu ngàn, hai trăm bốn mươi bảy đồng) ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
2. Kê biên căn nhà số 62 Dạ Nam, phường 2, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh
thuộc sở hữu của ông Mạc Hữu Mẫn và bà Lê Thị Phấn, là tài sản thế chấp, để đảm
bảo thi hành số tiền ở Điều 1 ở trên. Số tiền còn lại trong quá trình phát mãi nhà thì
ông Mẫn và bà Phấn được nhận.
Nếu ông Mạc Hữu Mẫn và bà Lê Thị Phấn trả nợ cho Công ty Du lịch Phú Yên ,
thay Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại Thịnh Phúc, số tiền 989.086.247 đồng
theo Điều 1 ở trên thì Công ty Du lịch Phú Yên phải trả giấy tờ nhà 62 Dạ Nam,
phường 2, quận 8 cho ông Mẫn – bà Phấn, các giấy tờ bản chính gồm:
- Giấy phép mua bán, chuyển dịch nhà cửa số 172/GP-UB ngày 1/3/1989.
- Bản vẽ hiện trạng nhà.
- Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước bạ ngày 18/3/1993.
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

4


Bộ môn LTTDS&HNGĐ


Học kỳ I_Năm học 2017-2018

- Biên lại thu lệ phí trước bạ số 004777 ngày 25/3/1993.
3. Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại Thịnh Phúc phải trả cho Công ty Du
lịch Phú Yên số tiền 238.841.300 đồng (hai trăm ba mươi tám triệu, tám trăm bốn
mươi mốt ngàn, ba trăm đồng chẵn) ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, điều kiện thi hành án và
tuyên quyền kháng cáo.
Ngày 27/8/2001, bà Phấn kháng cáo đề nghị xem xét, giải quyết lại vụ án và yêu
cầu xét xử phải có bị đơn mà Công ty Thịnh Phúc vì ông Vưu Út bỏ trốn thì còn các
thành viên khác; Công ty Phú Yên phải đòi nợ họ, để vợ chồng bà không bị thiệt thòi.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 91/DSPT ngày 31/3/2003, Toà án phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
1. Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 1588/DSST ngày 21/8/2001 của Toà án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh
2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại từ
đầu theo thủ tục chung.
Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Tại Quyết định tạm đình chỉ giải quyết sơ thẩm vụ án sô 32/2005/QĐ-TĐCDS
ngày 20/4/2005, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
1. Tạm đình chỉ xét xử sơ thẩm vụ án đã thụ lý số 1249/DSST ngày 4/7/2003 của
Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc “Đòi nợ” giữa:
Nguyên đơn: Công ty Du lịch Phú Yên
Địa chỉ: 149X/B25 Tô Hiến Thành, phường 13, quận 10
Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại Thịnh Phúc
Địa chỉ: 153 Nguyễn Thông, phường 9, quận 3
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Mạc Hữu Mẫn sinh năm 1940;
- Bà Lê Thị Phấn sinh năm 1938;

Trú tại: 62 Dạ Nam, phường 2, quận 8.
2. Toà án sẽ tiếp tục giải quyết vụ kiện và tính án phí khi lý do tạm đình chỉ
không còn.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo.

Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

5


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

Ngày 5/9/2005, bà Phấn kháng cáo cho rằng Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh không xét xử mà ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết sơ thẩm vụ án à không
thoả đáng, là thiệt thòi cho vợ chồng bà.
Tại Quyết định phúc thẩm số 506/2005/DSPT ngày 31/12/2005, Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
1. Huỷ quyết định tạm đình chỉ giải quyết sơ thẩm vụ án số 32/2005/QĐ-TĐCDS
ngày 20/4/2005 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giữa:
Nguyên đơn: Công ty Du lịch tỉnh Phú Yên
Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại Thịnh Phúc
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Mạc Hữu Mẫn sinh năm 1940
- Bà Lê Thị Phấn sinh năm 1938
2. Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết vụ án theo
trình tự sơ thẩm và theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Tại Công văn số 363/CV-TDS ngày 27/2/2006, Toà án nhân dân thành phố Hồ

Chí Minh đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định phúc thẩm
số 506/2005/DSPT nên trên.
Tại Quyết định kháng nghị số 95/2007/KN-DS ngày 25/5/2007, Chánh án Toà án
nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định phúc thẩm số 506/2005/DSPT ngày
30/12/2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm Toà án
nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật với nhận định:
Ngày 21/8/2001, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử sơ thẩm
(Bản án dân sự sơ thẩm số 1588/DSST ngày 21/8/2001). Ngày 27/8/2001, bà Phấn có
đơn kháng cáo đối với toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại Bản án phúc thẩm số 91/PTDS
ngày 31/3/2003, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã
quyết định huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 1588/DSST ngày 21/8/2001 của Toà án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo thủ tục chung (tham gia Hội đồng xét
xử phúc thẩm có Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Hồ Trung Hiếu).
Tại Quyết định số 32/2005/QĐ-TĐCDS ngày 20/4/2005, Toà án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, với nhận định là nguyên
đơn không cung cấp được địa chỉ của bị đơn. Ngày 5/9/2005, bà Phấn, ông Mẫn kháng
cáo. Tại Quyết định phúc thẩm số 506/2005/DSPT ngày 30/12/2005 Toà phúc thẩm
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

6


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định huỷ Quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án số 32/2005/QĐ-TĐCDS ngày 20/4/2005 của Toà án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải

quyết vụ án theo quy định của pháp luật (tham gia Hội đồng xét xử phúc thẩm có
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Hồ Trung Hiếu).
Như vậy, Thẩm phán Hồ Trung Hiếu đã tham gia Hội đồng xét xử phúc thẩm để
xét xử vụ án vào ngày 31/3/2003; sau đó Thẩm phán Hồ Trung Hiếu lại tham gia Hội
đồng xét xử lại vụ vào ngày 30/12/2005, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, theo
quy định tại khoản 3, Điều 47 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên toà Giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị
Hội đồng Thẩm phán Toá án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà
án nhân dân tối cao.
XÉT THẤY
Theo quy định tại khoản 3, Điều 47 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Thẩm phán, Hội
thẩ nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ đã tham gia xét xử
sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án đó.
Thảm phán Hồ Trung Hiếu đã tham gia xét xử phúc thẩm vụ án vào ngày
31/3/2003 và ngày 30/12/2005 lại tham gia xét xử phúc thẩm về cùng một vụ án tranh
chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn là Công ty Du lịch Phú Yên với bị đơn là
Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại Thịnh Phúc, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là ông Mạc Hữu Mẫn và bà Lê Thị Phấn, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng.
Vì lẽ trên, căn cứ vào khoản 3, Điều 297; khoản 3 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
QUYẾT ĐỊNH
1. Huỷ Quyết định phúc thẩm số 506/2005/DSPT ngày 30/12/2005 của Toà án
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp hợp
đồng vay tài sản giữa nguyên đơn là Công ty Du lịch Phú Yên với bị đơn là Công ty
Trách nhiệm hữu hạn thương mại Thịnh Phúc.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố
Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại; theo đúng quy định của pháp luật.

Nơi nhận:

- VKSNDTC (V5)
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

TM. HỘI ĐỒNG GIÁM ĐỐC THẨM

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
7


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

- TAND huyện, tỉnh (kèm hồ sơ)
-.TAND tỉnh
- VKSND
- VKSND
- Chi cục THADS huyện, tỉnh
- Các đương sự
- Lưu hồ sơ, VP.

Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

8


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018


TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TÒA PHÚC THẨM TẠI HÀ NỘI
_________
Bản án số: 45/2014/DSPT

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Ngày 17/3/2014

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA PHÚC THẨM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán TAND tối cao - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Ngọc Việt;
Các Thẩm phán TAND tối cao: Ông Lê Thanh Bình;
Ông Đặng Bảo Vĩnh.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Tú, cán bộ Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị
Thanh Tâm, Kiểm sát viên.
Trong c¸c ngày 14 và 17 tháng 3 năm 2014 tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số
48/2013/DS-TLPT ngày 12 tháng 11 năm 2013 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tiền.
Do bản án Dân sự sơ thẩm số 02/2013/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2013 của Tòa án
nhân dân thành phố Hải Phòng bị cáo kháng cáo. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử
số 455/2014/QĐ-PT ngày 6 tháng 3 năm 2014 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:

- Ông Lê Văn Hòa, sinh năm 1956;
Địa chỉ: số 295 Tô Hiệu, phường Hồ Nam, quận Lê Chân, thành phố Hải
Phòng; vắng mặt đã ủy quyền.

Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

9


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

- Bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, sinh năm 1960; hiện trú tại: 40 Saltash St,
Yagoona, NSW 2199, Australia, hộ chiếu Australia số M2934069, cấp ngày
11/05/2005, nơi cấp Sydney, Australia; vắng mặt đã ủy quyền.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ninh, luật sư - Giám
đốc Công ty luật TNHH một thành viên Nguyễn Thị Ninh thuộc đoàn luật sư thành phố
Hải Phòng (theo hợp đồng ủy quyền ngày 03/9/2013); có mặt.
2. Bị đơn: Công ty TNHH Tân Thành Yến;
Địa chỉ: số 36 Lê Lợi, phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải
Phòng;
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Yến - Giám đốc Công ty; vắng
mặt đã ủy quyền.
Người đại diện theo ủy quyền: bà Trần Thị Thùy Liên, trú tại: 16A/119 Trung
Hành 7, phường Đằng Lâm, quận Hải An, thành phố Hải Phòng; có mặt.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Ngân hàng
TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VP Bank);
Địa chỉ: số 72 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
* Người đại diện theo ủy quyền:

- Ông Phạm Tuấn Anh, Trưởng phòng xử lý nợ hội sở; vắng mặt.
- Ông Nguyễn Lê Huy, Nhân viên phòng xử lý nợ hội sở; có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt.
- Ông Mai Xuân Trọng, Chuyên viên phòng xử lý nợ hội sở; có mặt.
- Bà Tăng Thị Liên, Trưởng nhóm cao cấp khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ
chi nhánh Hải Phòng; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NHẬN THẤY
Theo bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
* Theo đơn khởi kiện và trình bày của đại diện nguyên đơn là ông Lê Văn Hòa
cùng vợ là bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt đã cho Công ty TNHH Tân Thành Yến (sau
đây gọi tắt là Công ty Tân Thành Yến) vay từ năm 2009 đến nay tổng cộng số tiền đã
vay là 18.000.000.000 đ (mười tám tỷ đồng chẵn) để mua xe ô tô kinh doanh taxi.
Theo hợp đồng thì Công ty Tân Thành Yến phải trả hết cả gốc và lãi trong thời hạn
36 (ba mươi sáu) tháng, kể từ ngày 15/11/2009. Nhưng đến nay đã quá thời hạn trả
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

10


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

nợ theo cam kết, Công ty Tân Thành Yến không thực hiện nghĩa vụ trả nợ và còn
trốn tránh trách nhiệm trả nợ.
Số tiền Công ty Tân Thành Yến vay được cam kết trả nợ bằng toàn bộ số xe ô
tô mà Công ty Tân Thành Yến đang thế chấp tại chi nhánh Ngân hàng MHB Hải
Phòng. Ngày 02/5/2012 Công ty Tân Thành Yến ký hợp đồng ủy quyền cho ông Lê
Văn Hòa hoàn thành việc thanh toán tiền vay ngân hàng và nhận lại bản chính các

giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản (ô tô) tại chi nhánh VPBank Hải Phòng.
Tuy nhiên, ngày 07/5/2013 Công ty Tân Thành Yến đã vi phạm cam kết, trả tiền ngân
hàng, nhận lại bản chính các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của 32 chiếc xe ô tô
và đã bán ngay số xe này, không thông báo cho vợ chồng ông Hòa và không trả nợ
cho vợ chồng ông Hòa. Đây là hành vi bội ước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông Hòa.
Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc Công ty Tân Thành
Yến phải trả nợ vợ chồng ông Lê Văn Hòa, bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt
18.000.000.000 đồng. Trường hợp Công ty Tân Thành Yến không trả được, đề nghị Tòa
án quyết định cho vợ chồng ông Lê Văn Hòa trả VPBank khoản nợ của Công ty Tân
Thành Yến và nhận lại toàn bộ giấy tờ gốc 42 chiếc xe ô tô Công ty Tân Thành Yến
đang thế chấp tại VPBank khoản nợ của Công ty Tân Thành Yến đang thế chấp tại
VPBank, nhận lại, quản lý và định đoạt toàn bộ số xe ô tô trên xe theo nội dung hợp
đồng ủy quyền đã quy định. Tại phiên tòa phúc thẩm, vợ chồng ông Lê Văn Hòa vẫn giữ
nguyên yêu cầu trên.
Ngày 30/5/2013 Ngân hàng VPBank có đơn yêu cầu được tham gia tố tụng vụ án
dân sự sơ thẩm thụ lý số 08/2013/TLST-DS ngày 14/5/2013 của Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng, với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập. Với nội dung: chi nhánh Công ty Tân Thành Yến vay của VPBank số tiền
5.700.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số LD 1019700080 ngày 16/7/2010 (phụ
lục ngày 23/8/2011) số tiền vay 2.900.000.000 đồng, thời hạn 36 tháng, mục đích vay
thanh toán tiền mua 22 xe ô tô con nhãn hiệu GM Chevrolet Spark LT.
Lãi suất cho vay trong thời hạn tại thời điểm giải ngân đầu tiên là 17%/năm. Lãi
suất cho vay điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần, mức điều chỉnh bằng lãi suất tiết kiệm
kỳ hạn 12 tháng bậc thang thấp nhất của ngân hàng tại thời điểm điều chỉnh (+) biên
độ 7%/năm.
Lãi suất trong hạn từ ngày 23/8/2011 là 21%/năm, mức điều chỉnh bằng lãi suất
tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng bậc thang thấp nhất của ngân hàng tại thời điểm điều chỉnh
(+) biên độ 5,92%/năm.
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự


11


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Khoản nợ lãi quá hạn sẽ phải
chịu tiền phạt chậm trả bằng 150% lãi suất trong hạn tính trên số tiền lãi chậm trả.
Bắt đầu tính từ thời điểm quá hạn cho đến khi bên vay thanh toán nợ lãi quá hạn.
Các kỳ trả nợ gốc: bên vay phải trả gốc cho bên ngân hàng theo định kỳ 01
tháng/lần vào ngày 15, kỳ trả nợ gốc đầu tiên vào ngày 15/8/2010, tổng cộng 36 kỳ, mỗi
kỳ trả 80.000.000 đồng, kỳ cuối cùng trả 100.000.000 đồng.
Các kỳ trả nợ lãi: bên vay phải trả lãi cho ngân hàng theo định kỳ 01 tháng/lần
vào ngày 15 hàng tháng, kỳ trả lãi đầu tiên vào ngày 15/8/2010.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay là 22 xe ô tô hình thành từ món vay của
VPBank có hợp đồng thế chấp tài sản riêng.
Hợp đồng tín dụng số LD 1123500034 ngày 23/8/2011, số tiền vay
2.800.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng, mục đích vay thanh toán tiền mua 20 xe
ô tô con nhãn hiệu GM Chevrolet Spark LT.
Lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm giải ngân đầu tiên là 23%/năm. Lãi suất
cho vay điều chỉnh 03 tháng/lần, mức điều chỉnh bằng lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 12
tháng bậc thang thấp nhất của ngân hàng tại thời điểm điều chỉnh (+) biên độ
10%/năm. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Khoản nợ lãi quá hạn sẽ
phải chịu phạt chậm trả bằng 150% lãi suất trong hạn tính trên số tiền chậm trả và số
ngày chậm trả. Bắt đầu từ thời điểm quá hạn cho đến khi bên vay thanh toán hết nợ
lãi quá hạn.
Bên vay phải trả lãi cho ngân hàng theo định kỳ 01 tháng/lần vào các ngày 15,
kỳ hạn trả nợ gốc đầu tiên vào ngày 15/9/2011, tổng cộng 36 kỳ, số tiền gốc bên vay

phải trả mỗi kỳ là 78.000.000 đồng, riêng kỳ cuối là 70.000.000 đồng.
Bên vay phải trả tiền lãi cho ngân hàng theo định kỳ 01 tháng/lần vào các ngày
15, kỳ hạn trả lãi đầu tiên vào ngày 15/9/2011.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay này là 20 xe ô tô hình thành từ vốn vay của
VPBank, có tài sản thế chấp kèm theo.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty Tân Thành Yến đã vi phạm nghĩa
vụ trả nợ nên các hợp đồng tín dụng trên đã bị chuyển nợ quá hạn từ ngày 28/8/2012
và phải chịu mức lãi suất quá hạn. Tính đến ngày 27/5/2013 ngày VPBank gửi đơn
khởi kiện Công ty Tân Thành Yến còn nợ ngân hàng 1.130.755.591 đồng trong đó nợ
gốc là 1.122.630.806 đồng và nợ lãi là 8.124.785 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện VPBank trình bày: trong thời gian vừa qua Công
ty Tân Thành Yến đã trả nợ tiếp được 177.809.257 đồng. Trong đó trả nợ gốc là
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

12


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

122.124.139 đồng và trả nợ lãi được 55.685.118 đồng. Khoản tiền trên được trả tính
trả cho hợp đồng tín dụng số LD 1123500034 ngày 16/7/2010 (phụ lục ngày
23/8/2011) số tiền vay là 2.900.000.000 đồng. Đến nay Công ty Tân Thành Yến chỉ còn
nợ hợp đồng dụng số LD 1123500034 ngày 23/8/2011 là 1.006.692.166 đồng, trong đó
nợ gốc là 1.000.506.667 đồng và nợ lãi là 6.185.499 đồng. VPBank yêu cầu Công ty
Tân Thành Yến phải thực hiện việc trả nợ cho VPBank nếu không sẽ đề nghị Tòa án
tuyên kê biên phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho VPBank.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Công ty Tân Thành Yến vắng mặt. Tại bản tự khai
ngày 28/6 dụng số LD 1123500034/2013 và những lời trình bày của đại diện Công ty

Tân Thành Yến: Công ty Tân Thành Yến xác nhận có vay và còn nợ tiền vợ chồng ông
Lê Văn Hòa và bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt. Cụ thể 04 lần vay như sau: lần thứ nhất
vay 200.000 USD tương đương 4.000.000.000 VNĐ vào tháng 3/2010. Lần thứ hai vay
500.000.000 đồng khoảng tháng 3/2011. Lần thứ ba vay 100.000 AUD tương đương
2.100.000.000 VNĐ. Lần thứ 4 vay 4.400.000.000 đồng là tiền ông Hòa bà Nguyệt bán
đất cho vay vào tháng 4/2012. Cộng tất cả Công ty Tân Thành Yến vay của vợ chồng
ông Hòa bà Nguyệt là 11.000.000.000 đồng. Kể từ khi vay tiền của ông Hòa bà Nguyệt,
Công ty Tân Thành Yến đã nhiều lần trả nợ, hàng tháng kế toán công ty đều trả vào
tài khoản 10922224602068 của ông Hòa tại ngân hàng Techcombank chi nhánh Hải
Phòng mỗi tháng 40-50 triệu đồng, ngoài ra mỗi lần bà Nguyệt về nước Công ty còn trả
trực tiếp cho bà Nguyệt để mua quà cáp tặng người thân. Tổng cộng Công ty đã trả 4 - 5
tỷ đồng, đến nay Công ty chỉ còn nợ vợ chồng ông Hòa khoảng 5 - 6 tỷ đồng. Do chứng
từ bị mất nên phía bị đơn không thể cung cấp cho Tòa án được.
Hợp đồng vay tiền do ông Hòa, bà Nguyệt lập sau ngày hai bên đã cho nhau
vay tiền. Lúc đó Công ty đang trong tình trạng khó khăn, nhiều chủ nợ truy đòi, tinh
thần tôi bị hoảng loạn, ông Hòa bà Nguyệt ép buộc tôi phải ký trên xe ô tô ở khu vực
Bến Bính, tôi không đọc nội dung hợp đồng, không biết số tiền ghi trên hợp đồng là
bao nhiêu, nay được biết số tiền trên hợp đồng là 18.000.000.000 đồng tôi không
chấp nhận khoản nợ này.
Đối với khoản nợ của VPBank: Công ty Tân Thành Yến xác nhận có ký hai hợp
đồng vay tiền của VPBank chi nhánh Hải Phòng. Tuy nhiên, theo hợp đồng tín dụng
ký giữa Công ty với VPBank thì các khoản vay đến thời điểm VPBank khởi kiện đều
chưa đến hạn. Thời hạn vay của hai hợp đồng đều là 36 tháng, thời hạn của hợp đồng
tín dụng LD 1019700080 ngày 16/7/2010 đến ngày 16/7/2013 mới đến hạn, còn hợp
đồng tín dụng LD 1123500034 ngày 23/8/2011 đến ngày 23/8/2014 mới đến hạn.
Trước đó, có lúc có khoản vay đã bị chuyển nợ quá hạn nhưng Công ty đã lần lượt
thanh toán hết nợ quá hạn. Đến nay Công ty không còn nợ quá hạn nên không chấp
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

13



Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

nhận yêu cầu khởi kiện của VPBank, đồng thời đề nghị VPBank tạo điều kiện thuận
lợi để Công ty tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Ngày 19/8/2013 Công ty Tân Thành Yến có đơn xin miễn giảm một phần án
phí.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2013/DS-ST ngày 27/8/2013 của Tòa án nhân
dân thành phố Hải Phòng đã quyết định:
- Căn cứ vào các Điều 471, 472, 473, 474, 315 Bộ luật dân sự;
- Căn cứ Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với
khách hàng.
- Căn cứ Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm.
- Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án của ủy ban thường vụ Quốc hội số
10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009; xử:
1. Công ty TNHH Tân Thành Yến còn nợ và có nghĩa vụ phải trả cho ông
Lê Văn Hòa và vợ là bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt 17.165.670.000đ (mười bảy tỷ,
một trăm sáu mươi lăm triệu, sáu trăm bảy mươi nghìn đồng).
Kể từ tháng thứ 2 trở đi tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu Công ty
TNHH Tân Thành Yến không trả xong khoản nợ trên cho vợ chồng ông Lê Văn Hòa
thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản lãi suất của số tiền chậm trả theo lãi suất cơ
bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
2. Công ty TNHH Tân Thành Yến phải trả cho Ngân hàng TMCP Việt Nam
Thịnh Vượng - tại chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch Quang Trung
1.006.692.166đ (một tỷ, không trăm không sáu triệu sáu trăm chín mươi hai nghìn

một trăm sáu mươi sáu đồng). Trong đó nợ gốc là 1.000.506.667 đồng và nợ lãi là
6.185.499 đồng là khoản nợ còn lại của hợp đồng tín dụng số LD 1123500034 ngày
23/8/2011, Công ty TNHH Tân Thành Yến phải chịu các khoản lãi suất được quy
định trong các hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ.
3. Chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông Lê Văn Hòa được thanh toán khoản nợ
còn lại của Công ty TNHH Tân Thành Yến với Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh
Vượng - chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch Quang Trung. Sau khi hoàn thành
nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thạnh Vượng - Chi nhánh Hải Phòng Phòng giao dịch Quang Trung có trách nhiệm bàn giao cho ông Lê Văn Hòa toàn bộ
giấy tờ gốc chứng minh quyền sở hữu đối với 42 chiếc xe ô tô con là tài sản thế chấp
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

14


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

tại ngân hàng (có danh sách kèm theo). Ông Lê Văn Hòa trở thành chủ sở hữu đối
với 42 chiếc xe ô tô nói trên, Công ty TNHH Tân Thành Yến có nghĩa vụ bàn giao 42
chiếc xe ô tô nói trên cho vợ chồng ông Lê Văn Hòa để đối trừ nợ.
4. Tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
653/2013/QĐ-BPKCTT ngày 10/5/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
để đảm bảo cho việc thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng còn quyết định về án phí và
tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/9/2013 bị đơn là Công ty TNHH Tân Thành Yến có đơn kháng cáo với nội
dung hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 09/9/2013 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng TMCP
Việt Nam Thịnh Vượng có đơn kháng cáo với nội dung sửa bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án. Đại diện cho nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và cho
rằng quyết định của bản án sơ thẩm đã giải quyết là đúng pháp luật. Đề nghị không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn và kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
- Đại diện của bị đơn là Công ty TNHH Tân Thành Yến giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án kinh doanh
thương mại sơ thẩm vì có những vi phạm nghiêm trong về thủ tục tố tụng như: bà
Nguyễn Thị Ninh là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trước đây có nhiều năm
công tác ở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng nên có mối quan hệ thân thiết với
ông Trần Văn Nhiên chủ tọa phiên tòa, vì vậy việc giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm
không được vô tư, khách quan.
Về giấy ủy quyền của ông Lê Văn Hòa cho bà Nguyễn Thị Ninh là không hợp
pháp vì không có công chứng, chứng thực; việc xác định Ngân hàng VP Bank là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không đúng pháp luật vì khoản
vay của Công ty TNHH Tân Thành Yến và ông Hòa, bà Nguyệt không liên quan đến
Ngân hàng. Mặt khác Công ty TNHH Tân Thành Yến không vay của ông Hòa, bà
Nguyệt số tiền 18 tỷ như cấp sơ thẩm xác định. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời là không đúng quy định vì 42 chiếc ô tô này không phải là tài sản bảo đảm cho
khoản vay của Công ty đối với vợ chồng ông Hòa.
- Đại diện cho Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng giữ nguyên kháng cáo
đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời; tuyên thêm nội dung trong trường hợp Công ty TNHH Tân Thành
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

15


Bộ môn LTTDS&HNGĐ


Học kỳ I_Năm học 2017-2018

Yến hoặc ông Lê Văn Hòa, bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt không trả nợ thay cho Ngân
hàng toàn bộ số tiền gốc, lãi phát sinh thì Ngân hàng VP Bank có quyền đề nghị Cơ
quan thi hành án kê biên, phát mại tài sản thế chấp là 42 xe ô tô theo các hợp đồng
thế chấp tài sản đã ký để thu hồi nợ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu ý kiến về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án như sau: Về thủ tục tố tụng, Tòa án cấp sơ
thẩm và phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ và đúng các quy định của pháp luật trong quá
trình giải quyết vụ án.
Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm,
nội dung đơn kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm với lý
do sau: Việc ban hành quyết định áp dụng biện pháp tạm thời số
653/2013/QĐBPKCTT ngày 10/5/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
chưa tuân thủ các quy định của pháp luật. Việc Tòa án cấp sơ thẩm đưa Ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng tham gia vụ kiện với tư cách người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công
khai tại phiên tòa; lời trình bày, tranh luận của các đương sự và quan điểm giải quyết
vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
XÉT THẤY
Xét kháng cáo của Công ty TNHH Tân Thành Yên và kháng cáo của Ngân
hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng với nội dung trờn, Hội đồng xét xử thấy: Đối
với nội dung kháng cáo của bị đơn cho rằng giấy ủy quyền của vợ chồng ông Lê
Văn Hòa cho bà Nguyễn Thị Ninh không có công chứng, chứng thực là không hợp
pháp. Theo quy định tại Điều 142 Bộ Luật dân sự thì: Đại diện theo ủy quyền là đại
diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện,
hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận trừ trường hợp pháp luật có quy định ủy
quyền phải lập thành văn bản. Việc ủy quyền của vợ chồng ông Lê Văn Hòa cho bà
Nguyễn Thị Ninh đã được thực hiện bằng văn bản và tại phiên tòa sơ thẩm ông Lê

Văn Hòa bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt đều xác nhận họ đã ủy quyền cho bà Ninh
thực hiện việc khởi kiện Công ty TNHH Tân Thành Yến và thực hiện các quyền tố
tụng dân sự khác thể hiện trong giấy ủy quyền ngày 09/5/2013, khẳng định và thể
hiện rõ ý chí của họ là có việc ủy quyền. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định việc
ủy quyền của vợ chồng ông Lê Văn Hòa cho bà Nguyễn Thị Ninh là hợp pháp là
đúng theo quy định pháp luật.

Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

16


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

Đối với nội dung kháng cáo của Công ty TNHH Tân Thành Yến cho rằng bản
án sơ thẩm căn cứ vào lời khai của ông Hòa, bà Nguyệt và Hợp đồng vay tài sản để
xác định Công ty vay của vợ chồng ông Hòa, bà Nguyệt 18.000.000.000 đồng là
không đúng vì khi ký hợp đồng vay người đại diện theo pháp luật của Công ty ký
trong tình trạng không minh mẫn, bà Yến không đọc hợp đồng và được ký trên xe ô
tô ở khu vực Bến Bính.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa sơ thẩm ông
Lê Văn Hòa khai: vợ chồng ông đã cho Công ty TNHH Tân Thành Yến vay nhiều
lần từ năm 2009 đến năm 2012 với tổng số tiền là 18.000.000.000 đồng, các lần vay
đều không có chứng từ, tuy nhiên đến ngày 27/4/2012 hai bên lập hợp đồng vay tiền
để xác nhận khoản nợ trên, hợp đồng có đầy đủ chữ ký của các bên và được công
chứng tại Phòng công chứng số 3 thành phố Hải Phòng.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các
bên đương sự, Hội đồng xét xử thấy: Hợp đồng vay tiền giữa ông Lê Văn Hòa, bà

Nguyễn Thị Minh Nguyệt với Công ty TNHH Tân Thành Yến được hai bên thỏa
thuận, ký kết tại phòng công chứng số 3 thành phố Hải Phòng vào ngày 27/4/2012
do Công chứng viên Nguyễn Nhật Quang chứng nhận. Chủ thể tham gia ký kết hợp
đồng vay tiền này là những người có đủ năng lực trách nhiệm dân sự và nội dung
của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trong quá trình giải quyết vụ
án, Tòa án cấp sơ thẩm đã lấy lời khai của công chứng viên Nguyễn Nhật Quang,
ông Quang cũng khẳng định việc công chứng hợp đồng trên được thực hiện tại
Phòng công chứng số 3 thành phố Hải Phòng là hợp pháp đúng quy định của pháp
luật.
Mặt khác, ngoài hợp đồng vay tiền thể hiện khoản vay 18.000.000.000 đồng của
Công ty TNHH Tân Thành Yến, thì còn nhiều các tài liệu khác như: Biên bản họp
hội đồng thành viên ngày 25/4/2012 của Công ty TNHH Tân Thành Yến thống nhất
vay của ông Lê Văn Hòa, bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt số tiền 18.000.000.000 đồng;
và tại Biên bản giữa Công ty TNHH Tân Thành Yến và ông Lê Văn Hòa ngày
24/4/2012 trong đó có nội dung: “Công ty TNHH Tân Thành Yến có vay của ông Lê
Văn Hòa số tiền 18.000.000.000 đồng. Nay do điều kiện khó khăn không có điều
kiện trả nợ đúng hạn cho anh Hòa, vì vậy bằng biên bản này Công ty nhất trí gán nợ
cho anh Hòa 72 xe ô tô đang thế chấp tại Ngân hàng VP Bank”.
Với các căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở xác định Công ty
TNHH Tân Thành Yến đã vay của vợ chồng ông Lê Văn Hòa, bà Nguyễn Thị Minh
Nguyệt số tiền 18.000.000.000 đồng như Tòa án cấp sơ thẩm xác định là có căn cứ
pháp luật.
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

17


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018


Về khoản tiền Công ty TNHH Tân Thành Yến đã trả nợ cho vợ chồng ông Lê
Văn Hòa đến nay hai bên khai cũng không thống nhất. Ông Lê Văn Hòa cho rằng
Công ty TNHH Tân Thành Yến mới trả 219.000.000 đồng tiền lãi. Còn bà Nguyễn Thị
Yến khai hợp đồng vay tiền không có quy định lãi suất, Công ty đã trả nhiều lần, trả
vào tài khoản của ông Hòa tại Ngân hàng Techcombank chi nhánh Hải Phòng và trả
trực tiếp cho vợ chồng ông Hòa mỗi lần về nước nhưng không nhớ là bao nhiêu, do
bị mất chứng từ, chỉ biết đến nay còn nợ vợ chồng ông Hòa khoảng 4 đến 5 tỷ đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã ra quyết định yêu cầu Ngân
hàng Techcombank chi nhánh Hải Phòng sao kê các lần Công ty TNHH Tân Thành
Yến trả nợ vào tài khoản của ông Lê Văn Hòa. Theo kết quả sao kê thì từ ngày
14/8/2010 đến ngày 21/9/2012 Công ty TNHH Tân Thành Yến đã 31 lần trả nợ cho
vợ chồng ông Lê Văn Hòa qua tài khoản với tổng số tiền đã trả là 834.330.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm vợ chồng ông Lê Văn Hòa và tại phiên tòa phúc thẩm đại diện
theo ủy quyền của ông Hòa, bà Yến đều chấp nhận số tiền này. Đối với khoản tiền
khác bà Nguyễn Thị Yến khai đã trả trực tiếp cho vợ chồng ông Hòa nhưng không
có chứng cứ chứng minh và vợ chồng ông Hòa cũng không thừa nhận, nên không có
căn cứ chấp nhận đề nghị của Công ty trách nhiệm hữu hạn Tân Thành Yến.
Theo khoản 2 Điều 2 của Hợp đồng vay tiền có thỏa thuận về lãi suất: Lãi suất
tiền vay, lãi suất quá hạn, kỳ hạn trả gốc + lãi do hai bên thỏa thuận tại văn bản khác.
Cho đến nay cả hai bên đều không xuất trình được văn bản quy định về lãi suất. Do
đó coi như hợp đồng vay tiền không có lãi suất. Nên khoản tiền 834.330.000 đồng
mà Công ty TNHH Tân Thành Yến đã trả cho ông Lê Văn Hòa được trừ vào khoản
nợ gốc. Nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định tính đến ngày xét xử sơ thẩm bị đơn là
Công ty TNHH Tân Thành Yến còn nợ vợ chồng ông Lê Văn Hòa tổng số tiền là
17.165.670.000 đồng là có căn cứ pháp luật.
Đối với yêu cầu về việc xác định Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
(Ngân hàng VP Bank) là người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
trong vụ án. Hội đồng xét xử thấy: Sau khi thụ lý vụ kiện tranh chấp hợp đồng vay
tiền giữa vợ chồng ông Lê Văn Hòa với Công ty TNHH Tân Thành Yến và trên cơ

sở đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của vợ chồng ông Hòa, Tòa án
cấp sơ thẩm đã ra Quyết định áp dụng khẩn cấp tạm thời trong đó có nội dung: cấm
chuyển dịch 42 xe ô tô là tài sản thế chấp của Công ty TNHH Tân Thành Yến tại
Ngân hàng VP Bank. Do đó Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng thấy việc giải
quyết vụ án có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình và đề nghị Tòa án
đưa Ngân hàng VP Bank vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu độc lập và Ngân hàng VP Bank đã nộp tiền tạm
ứng án phí là có căn cứ đúng theo quy định của pháp luật.
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

18


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

Mặt khác, theo quy định tại khoản 4 Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
“Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi
kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và
được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan
đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án
phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan”. Do đó việc Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng tham gia tố tụng trong
vụ án với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan là hoàn toàn đúng
pháp luật.
- Đối với nội dung yêu cầu độc lập của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh

Vượng (VPBank) Hội đồng xét xử thấy: Trong quá trình kinh doanh Công ty TNHH
Tân Thành Yến đã ký với Ngân hàng VP Bank chi nhánh Hải Phòng các hợp đồng
tín dụng gồm:
+ Hợp đồng tín dụng số LD1019700080 ngày 16/07/2010 (phụ lục ngày
23/8/3011) số tiền vay 2.900.000.000 đồng, đến nay Công ty TNHH Tân Thành Yến
đã trả xong.
+ Hợp đồng tín dụng số LD 1123500034 ngày 23/08/2011, số tiền vay
2.800.000.000 đồng. Tính đến phiên tòa sơ thẩm, Công ty TNHH Tân Thành Yến
còn nợ là 1.007.691.166 đồng, trong đó nợ gốc là 1.000.505.667 đồng, nợ lãi là
6.185.499 đồng. Để bảo đảm cho hai khoản vay nêu trên, Công ty TNHH Tân Thành
Yến và Ngân hàng đã ký kết hai hợp đồng thế chấp tài sản bao gồm thế chấp 42
chiếc xe ô tô con (có danh sách kèm theo), việc thế chấp có công chứng và đăng ký
giao dịch bảo đảm.
Theo Điều 6 của hợp đồng tín dụng về việc thu hồi nợ trước hạn có quy định:
“Việc thu hồi nợ trước thời hạn trong trường hợp: Tình hình tài chính, thu nhập, tài
sản của bên vay giảm sút, các tài sản bảo đảm tiền vay bị giảm sút, liên quan đến các
tranh chấp, khiếu kiện, bên vay vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào đối với ngân hàng theo
hợp đồng này”. Do đó việc Ngân hàng VP Bank có đơn yêu cầu độc lập gửi Tòa án
nhân dân thành phố Hải Phòng đề nghị buộc Công ty TNHH Tân Thành Yến phải trả
hết khoản nợ còn lại trước hạn là có căn cứ và đúng pháp luật.
Theo các tài liệu thể hiện thì khoản vay nợ giữa Công ty TNHH Tân Thành
Yến và vợ chồng ông Lê Văn Hòa không có tài sản bảo đảm. Khi đến hạn Công ty
TNHH Tân Thành Yến đã không trả được nợ nên ngày 24 tháng 4 năm 2012 hai bên
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

19


Bộ môn LTTDS&HNGĐ


Học kỳ I_Năm học 2017-2018

đã lập biên bản xác nhận: “Công ty Tân Thành Yến vay của ông Lê Văn Hòa
18.000.000.000đồng, do khó khăn về kinh tế không có điều kiện trả nợ, bằng biên
bản này Công ty nhất trí gán nợ cho ông Hòa toàn bộ số xe thuộc quyền sở hữu của
Công ty hiện đang thế chấp tại VPBank chi nhánh Hải Phòng. Để thực hiện việc
gán nợ ngày 02 tháng 5 năm 2012 bà Nguyễn Thị Yến giám đốc Công ty TNHH
Tân Thành Yên và ông Lê Văn Hòa đã ký hợp đồng ủy quyền (có chứng thực của
phòng công chứng số 3 thành phố Hải Phòng, do công chứng viên Nguyễn Nhật
Quang chứng nhận), theo hợp đồng ủy quyền này thì Công ty TNHH Tân Thành
Yến đã ủy quyền cho ông Lê Văn Hòa được quyền thay mặt Công ty TNHH Tân
Thành Yến hoàn thành việc thanh toán các nghĩa vụ được bảo đảm tại Ngân hàng
TMCP Việt Nam Thịnh Vượng Chi nhánh Hải Phòng- Phòng giao dịch Quang
Trung. Nhận lại bản chính các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản cùng với
thông báo giải tỏa các tài sản tại Ngân hàng. Làm thủ tục xóa đăng ký thế chấp tại
các cơ quan có thẩm quyền. Quản lý, sử dụng, khai thác công dụng của tài sản, giải
quyết các tranh chấp dân sự liên quan nếu có. Lập và ký kết hợp đồng bán tài sản
cho người mua, với giá mua bán và các điều khoản khác do ông Lê Văn Hòa toàn
quyền quyết định”.
Hội đồng xét xử thấy: Đối với biên bản gán nợ và hợp đồng ủy quyền trên là
hợp pháp, thể hiện rõ ý chí của hai bên, trước khi bà Yến đại diện ký các hợp đồng
trên thì Công ty TNHH Tân Thành Yến cũng đã họp và ra nghị quyết nhất trí các nội
dung ủy quyền và giao cho bà Nguyễn Thị Yến đại diện Công ty ký hợp đồng ủy
quyền với ông Lê Văn Hòa. Việc ủy quyền trên đã được đại diện Ngân hàng TMCP
Việt Nam Thịnh Vượng là ông Vũ Văn Tùng - Giám đốc chi nhánh VPBank tại Hải
Phòng đồng ý tại công văn số 26/CV ngày 26/4/2012 của Công ty TNHH Tân Thành
Yến gửi Ngân hàng.
Như vậy nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng từ Công ty
TNHH Tân Thành Yến đã được chuyển giao cho ông Lê Văn Hòa. Ông Lê Văn Hòa
có trách nhiệm thanh toán trả nợ ngân hàng và được quyền nhận lại các giấy tờ gốc

(bản chính) tài sản thế chấp, làm thủ tục giải chấp và quản lý, định đoạt tài sản theo
nội dung hợp đồng ủy quyền đã quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm vợ chồng ông Lê
Văn Hòa đề nghị được thực hiện nghĩa vụ thanh toán trả nợ Ngân hàng và nhận lại
các giấy tờ gốc (bản chính) chứng minh quyền sở hữu đối với 42 chiếc xe ô tô thế
chấp là đúng với sự thỏa thuận của các bên. Do đó việc Tòa án cấp sơ thẩm quyết
định chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông Lê Văn Hòa được thanh toán khoản nợ
còn lại của Công ty TNHH Tân Thành Yến với Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh
Vượng - Chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch Quang Trung là có căn cứ pháp
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

20


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

luật, đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của vợ chồng ông Hòa, bà Nguyệt và cũng
như bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng VPBank.
Sau khi ông Lê Văn Hòa hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân
hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch
Quang Trung mới bàn giao cho ông Lê Văn Hòa toàn bộ giấy tờ gốc chứng minh
quyền sở hữu đối với 42 chiếc ô tô con là tài sản thế chấp tại ngân hàng. Việc quyết
định trên là phù hợp, không ảnh hưởng đến quyền lợi của ngân hàng. Do đó việc
Ngân hàng VP Bank kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm tuyên thêm nội dung
Ngân hàng VP Bank có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án kê biên, phát mại tài sản
thế chấp là 42 xe ô tô theo các hợp đồng thế chấp tài sản đã ký để thu hồi nợ là
không cần thiết, nên không được chấp nhận.
Đối với nội dung kháng cáo của Công ty TNHH Tân Thành Yến, và kháng cáo
của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng đề nghị hủy bỏ quyết định áp dụng biện

pháp khẩn cấp tạm thời, Hội đồng xét xử thấy: trên cơ sở đơn yêu cầu của vợ chồng ông
Hòa, bà Nguyệt cùng các tài liệu chứng cứ khác, xác định Công ty TNHH Tân Thành
Yến có vay và nợ tiền vợ chồng ông Hòa với số tiền 18.000.000.000 đồng. Theo như
đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của vợ chồng ông Hòa, bà Nguyệt thì
Công ty TNHH Tân Thành Yến đã vi phạm cam kết, trả tiền cho ngân hàng, nhận lại
giấy tờ và tự bán 32 chiếc xe ô tô đã gán nợ cho vợ chồng ông Lê Văn Hòa, không trả
nợ cho ông Lê Văn Hòa. Việc làm trên của Công ty TNHH Tân Thành Yến trực tiếp
ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của vợ chồng ông Lê Văn Hòa. Vì vậy Tòa án cấp
sơ thẩm căn cứ vào khoản 2 Điều 99, khoản 1 Điều 100, Điều 109, Điều 110 và Điều
117 Bộ luật tố tụng dân sự ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là có căn
cứ và đúng pháp luật. Để bảo đảm cho việc thi hành bản án đúng pháp luật, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho các đương sự, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định tiếp tục duy trì
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trên là phù hợp. Do đó không có căn
cứ chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH Tân Thành Yến và kháng cáo của Ngân
hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng về vấn đề trên.
Đối với nội dung kháng cáo của bị đơn cho rằng bà Nguyễn Thị Ninh là người
đại diện hợp pháp của nguyên đơn trước đây có nhiều năm công tác ở Tòa án nhân
dân thành phố Hải Phòng nên có mối quan hệ thân thiết với ông Trần Văn Nhiên chủ
tọa phiên tòa, vì vậy việc giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm không được vô tư, khách
quan. Vấn đề này Hội đồng xét xử thấy: trong quá trình giải quyết vụ án Hội đồng
xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật nên
yêu cầu của bị đơn nêu ra không có căn cứ chấp nhận.

Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

21


Bộ môn LTTDS&HNGĐ


Học kỳ I_Năm học 2017-2018

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận nội
dung kháng cáo của Công ty TNHH Tân Thành Yến và kháng cáo của Ngân hàng
TMCP Việt Nam Thịnh Vượng, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Ý kiến của
đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại phiên tòa phúc thẩm đề nghị hủy bản án sơ
thẩm là không có cơ sở để chấp nhận.
Công ty TNHH Tân Thành Yến và Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí kinh doanh th ương mại phúc
thẩm theo quy định.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên; căn cứ vào khoản 1 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH
* Không chấp nhận kháng cáo của Cụng ty TNHH Tõn Thành Yến và kháng
cáo của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng, giữ nguyên quyết định của bản
án sơ thẩm.
- Căn cứ vào các Điều 471, Điều 472, Điều 473, Điều 474 và Điều 315 Bộ luật
dân sự.
- Căn cứ Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống
đốc ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với
khách hàng.
- Căn cứ Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm;
- Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án của ủy ban thường vụ Quốc hội số
10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009; xử:
1. Công ty TNHH Tân Thành Yến còn nợ và có nghĩa vụ phải trả cho ông Lê
Văn Hòa và vợ là bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt 17.165.670.000đ (mười bảy tỷ, một
trăm sáu mươi lăm triệu, sáu trăm bảy mươi nghìn đồng).
Kể từ tháng thứ 2 trở đi tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu Công ty

TNHH Tân Thành Yến không trả xong khoản nợ trên cho vợ chồng ông Lê Văn Hòa
thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản lãi suất của số tiền chậm trả theo lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
2. Công ty TNHH Tân Thành Yến phải trả cho Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh
Vượng - tại chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch Quang Trung 1.006.692.166 đồng
(một tỷ, không trăm không sáu triệu sáu trăm chín mươi hai nghìn một trăm sáu mươi
Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

22


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

sáu đồng). Trong đó nợ gốc là 1.000.506.667 đồng và nợ lãi là 6.185.499 đồng là
khoản nợ còn lại của hợp đồng tín dụng số LD 1123500034 ngày 23/8/2011, Công ty
TNHH Tân Thành Yến phải chịu các khoản lãi suất được quy định trong các hợp
đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ.
3. Chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông Lê Văn Hòa được thanh toán khoản nợ
còn lại của Công ty TNHH Tân Thành Yến với Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh
Vượng - chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch Quang Trung. Sau khi hoàn thành
nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh Hải Phòng Phòng giao dịch Quang Trung có trách nhiệm bàn giao cho vợ chồng ông Lê Văn
Hòa toàn bộ giấy tờ gốc chứng minh quyền sở hữu đối với 42 chiếc xe ô tô con là tài
sản thế chấp tại ngân hàng (có danh sách kèm theo). Ông Lê Văn Hòa và bà Nguyễn
Thị Minh Nguyệt trở thành chủ sở hữu đối với 42 chiếc xe ô tô nói trên, Công ty
TNHH Tân Thành Yến có nghĩa vụ bàn giao 42 chiếc xe ô tô nói trên cho vợ chồng
ông Lê Văn Hòa để đối trừ nợ.
4. Tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
653/2013/QĐ-BPKCTT ngày 10/5/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng

để đảm bảo cho việc thi hành án.
5. Về án phí: Công ty TNHH Tân Thành Yến phải chịu 126.166.000 đồng (một
trăm hai mươi sáu triệu một trăm sáu sáu nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn lại cho ông Lê Văn Hòa 63.000.000 đồng (sáu mươi ba triệu đồng) tiền
tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng tại
biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2010/3851 ngày 14 tháng 5 năm 2013.
Hoàn lại cho Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 22.000.000đ (hai mươi
hai triệu đồng) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại Cục thi hành án
dân sự thành phố Hải Phòng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2010/3815
ngày 18 tháng 6 năm 2013.
- Công ty TNHH Tân Thành Yến phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự phúc
thẩm, được trừ số tiền 200.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai
thu tiền số AA/2010/3842 ngày 27/9/20013 tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hải
Phòng.
- Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng phải chịu 200.000 đồng án phí dân
sự phúc thẩm, được trừ số tiền 200.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo
biên lai thu tiền số AA/2010/001943 ngày 13/9/2013 tại Cục thi hành án dân sự thành
phố Hải Phòng.

Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

23


Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có

quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Các thẩm phán
Thẩm phán - chủ toạ phiên tòa
Đã ký
Đã ký
Đặng Bảo Vĩnh
Lê Thanh Bình
Trần Ngọc Việt
--------------------------------------------------------------------------------------------------Nơi nhận:
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VPT I - VKSNDTC;
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- VKSND TP Hải Phòng;
(Đã ký)
- TAND TP Hải Phòng;
- Cục THA DS TP Hải Phòng;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HS.

Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

Trần Ngọc Việt

24



Bộ môn LTTDS&HNGĐ

Học kỳ I_Năm học 2017-2018

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 17/2015/KDTM-PT
Ngày 08/09/2015
V/v Tranh chấp thành viên công ty

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOA XÃ HỘI CHỦ NGHIA VIỆT NAM
TOA AN NHAN DAN CẤP CAO TẠI HA NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa : Bà Nguyễn Thị Minh Thu;
Các Thẩm phán : Ông Đặng Bảo Vĩnh;
Ông Bùi Thế Linh.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Đặng Thị Xuân Thành, cán bộ Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tham gia phiên tòa: Ông Ngụy Thế
Nho, Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 9 năm 2015, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét
xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 09/2015/TLPT-KDTM ngày 10
tháng 02 năm 2015 về việc “Tranh chấp giữa các thành viên Công ty”.

Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2014/KDTM-ST ngày
09/10/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 325/2015/QĐ-PT ngày 20
tháng 8 năm 2015 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn:

Bà Đoàn Thị Nguyệt, sinh năm 1961;
Bà Bùi Thị Ghim, sinh năm 1963;
Bà Mai Thị Đến, sinh năm 1963.

- Cùng địa chỉ: Khu phố 2, thị trấn An Dương, huyện An Dương, thành phố Hải
Phòng; các bà Nguyệt, bà Ghim, bà Đến đều có mặt.

Đề cương thảo luận môn Luật tố tụng dân sự

25


×