Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại tòa án trong tố tụng dân sự thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.63 KB, 63 trang )

Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 2012 – 2015
Đề Tài:

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN LY HÔN
TẠI TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ- THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Giảng viên hướng dẫn:
Thân Thị Ngọc Bích
Bộ môn: Luật Hành Chính

MỤC LỤC
GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

Sinh viên thực hiện:
Lâm Hồng Diễm
MSSV: S1200004
Lớp: Luật B2 Đồng Tháp
Khóa: 38

Cần Thơ, 10/ 2014
1

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM




Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
MỤC LỤC
Trang
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................3
5. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................................3
6. Cấu trúc luận văn ................................................................................................3
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN LY HÔN
1.1. Khái niệm, ý nghĩa hòa giải vụ án ly hôn..........................................................4
1.1.1. Khái niệm hòa giải vụ án ly hôn................................................................4
1.1.2. Ý nghĩa hòa giải vụ án ly hôn....................................................................5
1.2. Các loại hòa giải trong tranh chấp khi ly hôn....................................................7
1.2.1. Hòa giải tại cơ sở......................................................................................7
1.2.2. Hòa giải tại Tòa án...................................................................................8
1. 3. Nguyên tắc tiến hành hòa giải vụ án ly hôn...................................................12
1.3.1. Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự...........................12
1.3.2. Nội dung thỏa thuận của các đương sự không được trái với pháp luật và
trái với đạo đức xã hội............................................................................................13
1.4. Chủ thể trong hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa.....................................................14
1.4.1. Chủ thể tiến hành hòa giải vụ án ly hôn..................................................14
1.4.2. Chủ thể tham gia hòa giải trong vụ án ly hôn tại Tòa.............................16
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TẠI TÒA ÁN ĐỐI VỚI VỤ ÁN
LY HÔN
2.1. Những vụ án ly hôn không tiến hành hòa giải được........................................18

2.1.1. Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố
tình vắng mặt...........................................................................................................19
2.1.2. Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính
đáng.........................................................................................................................19
GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

2

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
2.1.3. Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng
lực hành vi dân sự..................................................................................................20
2.2. Những vụ án ly hôn không được tiến hành hòa giải........................................22
2.2.1. Yêu cầu đồi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản Nhà nước....................22
2.2.2. Những vụ án ly hôn phát sinh từ giao dịch trái pháp luật và trái
đạo đức xã hội.........................................................................................................23
2.3. Trình tự thủ tục hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa.................................................27
2.3.1. Thông báo về phiên hòa giải...................................................................27
2.3.2. Thành phần phiên hòa giải......................................................................28
2.3.3. Nội dung và phạm vi hòa giải..................................................................29
2.3.4. Trình tự hòa giải......................................................................................31
2.3.5. Biên bản hòa giải.....................................................................................32
2.4. Hậu quả pháp lý của hòa giải vụ án ly hôn......................................................33
2.4.1. Hòa giải thành.........................................................................................34
2.4.1.1. Lập biên bản hòa giải thành.............................................................34
2.4.1.2. Ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự..............34
2.4.1.3. Hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự................................................................................................................35

2.4.2. Hòa giải không thành..............................................................................36
2.5. Chi phí hòa giải...............................................................................................37
CHƯƠNG 3
BẤT CẬP TRONG VỤ ÁN LY HÔN VÀ PHƯƠNG PHÁP HOÀNG THIỆN
3.1. Thực tiễn về quyền hạn của Thẩm phán trong quá trình hòa giải
vụ án ly hôn...........................................................................................................39
3.1.1.Thực tiễn áp dụng.....................................................................................39
3.1.2. Phương pháp hoàng thiện.......................................................................39
3.2. Quyết định được công nhận khi toàn bộ vụ án được giải quyết
trong vụ án ly hôn...................................................................................................45
3.2.1. Thực tiễn áp dụng....................................................................................45
3.2.2. Phương pháp hoàng thiện........................................................................48
3.3. Bất cập liên quan đến quyết định đưa vụ án ra xét xử khi các
bên đương sự đồng ý ly hôn trong vụ án ly hôn.....................................................50
3.3.1. Thực tiễn áp dụng....................................................................................50

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

3

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
3.3.2. Phương pháp hoàng thiện.......................................................................53
Kết luận..................................................................................................................56

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

4


SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hiện nay tình trạng ly hôn của các cặp vợ chồng trẻ xảy ra rất nhiều, vì những lý
do rất đơn giản như bất đồng ý kiến, có chút mâu thuẩn nhỏ trong gia đình. Con
người hiện nay sống với tư tưởng rất thoáng "hợp thì ở không hợp thì chia tay".
Ngày xưa tình trạng ly hôn xảy ra rất ít, tư tưởng của người xưa còn mang đậm
chất phong kiến, người phụ nữ khi lấy chồng rồi là phải suốt đời theo chồng,
không thoáng như bây giờ. Bên cạnh đó ngày xưa người ta sống với nhau vì tình
nghĩa dú có những cặp hôn nhân không quen biết nhau trước khi kết hôn mà do
người khác mai mối. Dù trong gia đình xó xảy ra mâu thuẩn thì không bao giờ họ
nghĩ đến việc phải bỏ nhau, giận rồi thôi, sau đó lại tiếp tục cuộc sống vui vẽ trong
gia đình. Nhưng hiện nay các cặp vợ chồng xảy ra chút mâu thuẩn là đưa đơn ra
Tòa ly hôn, để tìm kiếm một mối tình khác. Trên thực tế có nhiều người kết hôn
đến hai ban làn nhưng vẫn không tìm được hạnh phúc, không tìm được một người
hợp với mình để sống đến răng long đầu bạc. Hâu quả của những người kết hôn
nhiều lần như vậy chính là những đứa con, những đứa con cùng cha khác mẹ,
những đưa con cùng mẹ khác cha, có người có đến hai ba dòng con, anh em cùng
chung một gia đình nhưng lại không có chung người mẹ. Ngoài ra một hậu quả
khác của việc ly hôn đó chính là những ông bà đã đến tuổi về hưu không còn đủ
sức lao động nhưng cũng phải cồng lưng ra để làm kiếm tiền để nuôi những đứa
cháu vì cha mẹ chúng ly hôn, cha mẹ chúng đi làm an xa không thể nuôi các con
phải gửi cho ông bà nuôi giùm.
Đó là những trường hợp gặp rất nhiều trong cuộc sống hiện nay, để làm giảm bớt

đi tình trạng này thì đây là một vấn đề rất khó khăn. Vì vậy mà việc có thể làm để
khắc phục một số ít tình trạng trên là thực hiện công tác hòa giải khi các căp vợ
chồng muốn ly hôn. Hiện nay thì công tác hòa giải tại cơ sở luật không bắt buộc,
có thể hòa giải hay không là tùy vào các cặp vợ chồng ly hôn và những người liên
quan đến quan hệ vợ chồng của họ và chính quyền địa phương. Còn công tác hòa
giải tại Tòa là việc bắt buộc trong các vụ án ly hôn. Cho nên, thông qua việc hòa

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

5

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
giải, những người tiến hàn hòa giải có thể hướng dẫn cho các cặp vợ chống muốn
ly hôn, phân tích cho họ biết những hậu quả của những cuộc hôn nhân tan vỡ, để
họ hiểu và nhìn lại cuộc hôn nhân của mình có thể cứu vãn được.
Vì vậy mà giai đoạn hòa giải là một giai đoạn rất quan trọng, đây là giai đoạn ta có
thể giải thích cho các cặp vợ chồng muốn ly hôn về những hậu quả sau khi khi lôn
như về vấn đề con cái, tài sản, nợ chung,...khuyên răng họ suy nghỉ, nhường nhịn
nhau trước khi đi đến quyết định ly hôn. để tìm hiểu sâu hơn về công tác hòa giải
và tìm ra những biện pháp giúp các cặp vợ chồng có thể hàn gắn lại với nhau nên
người viết đã chọn đề tài: " Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại
Tòa án trong tố tụng dân sự - thực trạng và giải pháp hoàn thiện".
Qua đề tài này người viết muốn tìm ra những giải pháp, những pháp pháp có thể
giúp cho các cặp vợ chồng có ý định muốn ly hôn, sau công tác hòa giải thì họ sẽ
thay đổi suy nghỉ để hàn gắn lại mối quan hệ hôn nhân của mình, giảm bớt đi một
phần nhỏ tình trạng ly hôn như hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu:

Tìm hiểu những quy định của pháp luật về công tác hòa giải tại Tòa tìm ra những
giải pháp để giúp cho các cặp vợ chồng muốn ly hôn có thể hàn gắn lại được với
nhau. Bên cạnh đó, qua bài viết này người viết mong muốn các cặp nam nữ hiện
nay hãy suy nghĩ thật kĩ trước khi kết hôn, để sau khi kết hôn không phải hối tiết,
vì kết hôn là một chuyện rất đơn giản đủ điều kiện trong luật quy định là hai người
có thể nắm tay nhau đến nơi có thẩm quyền đăng kí kết hôn, nhưng khi ly hôn thì
không đơn giản như khi kết hôn, phải trãi qua những thủ tục rườm rà của quá trình
tố tụng, thì họ mới có thể chấm dứt được mối quan hệ hôn nhân không mong
muốn của họ. Ngoài ra qua bài viết này người viết mong tìm ra những giải pháp có
thể giúp cho công tác hòa giải ngày càng hoàn thiện hơn, hạn chế tình trạng ly hôn
xảy ra ngày càng nhiều làm cho nhiều gia đình bị tan vỡ, để cho những đứa con
của họ không phải sống trong tình trạng tự ti vì cha mẹ của chúng ly hôn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu tất cả các văn bản quy định của pháp luật mà Nhà nước đã ban hành
có liên quan đến công tác hòa giải những vụ án ly hôn, những vấn đề liên quan đến

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

6

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
hòa giải trong ly hôn. Bên cạnh đó cũng nghiên cứu thực tế công tác hòa giải tại
các Tòa, góp phần ngày càng hoàn thiện hơn công tác hòa giải tại Tòa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài có sử dụng các phương pháp phân tích, đánh
giá, nhận định, so sánh và tổng hợp một cách khách quan về các công tác hòa giải
tại Tòa. Bên cạnh đó cũng tiến hành những chuyến đi thực tế đến các Tòa án để

tìm hiểu cách tiến hành hòa giải của các Thẩm phán, Thư kí ở các Tòa án, để từ đó
có thể rút ra những kinh nghiệm, hạn chế những mặt tiêu cực phát huy những mặt
tích cực trong công tác hòa giải.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài " Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng
dân sự - thực trạng và giải pháp hoàn thiện" chủ yếu là tìm hiểu, phân tích, làm rõ,
đưa ra những giải pháp tích cực góp phần hoàn thiện công tác hòa giải của các
Thẩm phán, Thư kí trong giai đoạn hòa giải tại Tòa trong vụ án ly hôn.
6. Cấu trúc luận văn:
Cấu trúc luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hòa giải vụ án ly hôn
Chương 2: Quy định của pháp luật về hòa giải tại Tòa án đối với vụ án ly hôn
Chương 3: Bất cập trong vụ án ly hôn và phương pháp hoàn thiện

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

7

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN LY HÔN
Gia đình là một tế bào nhỏ trong một xã hội lớn, gia đình hạnh phúc thì xã hội mới
phát triển. Nhưng hiện nay vì những mâu thuẩn nhỏ trong gia đình, nhiều cặp vợ
chồng đưa đến ly hôn, chính vì vậy mà có nhiều gia đình bị tan vỡ, cha mẹ ly hôn,
con cái thiếu sự quan tâm của cha mẹ, dẫn đến nhiều tình trạng đáng tiếc mà hiện

nay báo chí nói đến rất nhiều…Chính vì tình trạng ly hôn hiện nay rất nhiều cho
nên hòa giải tại tòa trước khi đưa ra tòa xét xử là một vấn đề rất quan trọng, đây là
giai đoạn giúp cho các cặp vợ chồng có thể hàn gắn lại mối quan hệ hôn nhân giúp
cho gia đình tránh được sự đỗ vỡ, con cái có đủ tình thương yêu của cha mẹ mới
có thể phát triển khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần.
1.1. Khái niệm, ý nghĩa hòa giải vụ án ly hôn
1.1.1. Khái niệm hòa giải vụ án ly hôn
Pháp luật luôn ghi nhận và bảo vệ những cuộc hôn nhân hợp pháp, đồng
thời cũng trao quyền được ly hôn cho vợ và (hoặc) chồng khi họ không thế tiếp tục
duy trì quan hệ hôn nhân. Ly hôn không đơn giản chỉ là một thủ tục pháp lý tại
Tòa án mà là một “sự kiện” chứa đựng trong đó không ít những vấn đề nhức nhối
về nguyên nhân và hậu quả...Do đó, hoạt động hòa giải trong ly hôn luôn đóng
một vai trò quan trọng, có ý nghĩa xã hội to lớn.
Ly hôn xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, và nhiều khi đó lại là
những nguyên nhân không đáng để người trong cuộc đi đến ly hôn. Có thể quyết
định ly hôn được đưa ra trong cơn nóng giận, bực tức, ức chế của vợ hoặc chồng,
cũng có thể ly hôn xuất phát từ những nguyên nhân...trẻ con của những cặp vợ
chồng chưa tới tuổi trưởng thành...Mặc khác, phía sau mỗi cuộc ly hôn luôn là
những hậu quả, nhiều khi rất nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của
những người trong cuộc và con cái họ. Đó là áp lực của việc một mình kiếm sống,
một mình nuôi con, là “chấn thương tinh thần” hậu ly hôn....Với cuộc ly hôn từ
những nguyên nhân chưa đủ “độ” và hơn hết, tình cảm vợ chồng giành cho nhau
chưa hẳn đã nguội lạnh thì những hậu quả ấy là không đáng có.

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

8

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM



Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
Một cuộc hôn nhân nằm trong tình trạng trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tranh chấp thường xuyên xảy ra,
sau đó là các cặp vợ chồng kéo nhau ra tòa ly dị. Cho nên sau khi thụ lý tòa án sẽ
tiến hành hòa giải.
Vì vậy hòa giải là: "một chế định quan trọng của Luật tố tụng dân sự, là
một phương thức giải quyết vụ án mà bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng của
các đương sự. Đây là một thủ tục bắt buộc khi giải quyết vụ án dân sự (trừ những
việc không được hòa giải), khi hòa giải Tòa án chủ động tổ chức và trực tiếp tham
gia với vai trò hướng dẫn giải thích động viên các đương sự thỏa thuận, thương
lượng với nhau về việc giải quyết vụ án"1.
Đối với hòa giải trong vụ án ly hôn thì hòa giải là một công tác rất quan
trọng, hòa giải là thời gian để hai người ngồi lại với nhau, với sự chủ trì, giải thích
về mặt thực tế cũng như về mặt pháp luật hậu quả sau khi ly hôn của Thẩm phán
cho các đương sự biết sau đó để các đương sự tự thỏa thuận xem xét lại có nên tiếp
tục tiến hành ly hôn hay không.
Hòa giải trong vụ án ly hôn cũng giống như các loại hòa giải khác trong tố tụng
dân dự. Để giải quyết vụ án ly hôn tòa án tiến hành giải thích pháp luật, giúp đỡ
các đương sự giải quyết các mâu thuẫn, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các
vấn đề tranh chấp khi ly hôn. Hoạt động này của tòa án gọi là hòa giải vụ án ly
hôn trong tố tụng dân sự.
Tuy nhiên trên thực tế chưa có một khái niệm rõ ràng về hòa giải trong vụ
án ly hôn chỉ có khái niệm về hòa giải trong các vụ án dân sự nói chung, từ những
khái niệm nói về hòa giải vụ án dân sự nói chung mà người viết suy ra khái niệm
hòa giải trong vụ án ly hôn : "hòa giải vụ án ly hôn là hoạt động trong tố tụng dân
sự do tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải
quyết các tranh chấp khi ly hôn trong tố tụng dân sự".
1.1.2. Ý nghĩa của hòa giải vụ án ly hôn
Mục đích chính của hòa giải là tạo cơ hội để vợ, chồng có thể đoàn tụ, hàn

gắn quan hệ. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là với những cuộc hôn nhân thực
sự không còn có khả năng cứu vãn thì hoạt động hòa giải tỏ ra..vô tác dụng! Trong
những trường hợp này, hòa giải lại đóng vai trò góp phần giảm thiểu xung đột và
Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp và Hồ Thị Nệ, Những điều cần biết về Luật tố tụng
dân sự, NXB Công an nhân dân, 2001, trang 92
1

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

9

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
mâu thuẩn gay gắt giữa các bên, để cuộc chia tay được diễn ra “êm đẹp”, dù hết
tình nhưng vẫn còn nghĩa; cần giữ lại được uy tín, danh dự cho nhau, con cái vì
thế mà cũng có cái nhìn “thiện cảm” hơn về bố mẹ từ cuộc chia tay của hai người.
Ý nghĩa hòa giải trong vụ án ly hôn cũng giống như ý nghĩa hòa giải trong
các vụ án dân sự gồm có các ý nghĩa sau:
- Tòa án hòa giải thành một vụ án ly hôn thì không cần phải mở phiên tòa
xét xử vụ án, giảm bớt một giai đoạn tố tụng kéo dài và cực kì phước tạp, tiết kiệm
được thời gian và tiền của cho Nhà nước cũng như cho nhân dân.
Như đã nói ở phần trên khi một vụ án được thụ lý để giải quyết, ai cũng muốn
nhanh chống được giải quyết kết thúc sớm. Trong thực tế có những vụ án được
giải quyết nhanh chống ở giai đoạn hòa giải hòa giải nhưng cũng có những vụ án
vì nhiều lý do như nẩy sinh nhiều tranh chấp phước tạp nên phải mở phiên tòa xét
xử mới có thể được giải quyết. Việc hòa giải thành sẽ giúp cho thời gian giải quyết
ly hôn được nhanh chóng, thuận lợi; các bên sẽ không mất nhiều thời gian tới lui
để “hầu” tòa, nếu có tranh chấp về tài sản mà hòa giải thành, các bên chỉ phải mất

50% án phí. Như vậy, ý nghĩa của thủ tục hòa giải của tòa án không chỉ là tạo cơ
hội cuối cùng để các bên có thể hàn gắn lại quan hệ vợ chồng mà còn tạo những
điều kiện thuận lợi nhất định cho quá trình ly hôn. Với hoạt động hòa giải ly hôn ở
tòa án, không thể phủ nhận vai trò của người thực hiện hòa giải, đó là thẩm phán.
Trong vai trò này, thẩm phán không chỉ là vị quan tòa “cầm cân nảy mực” mà còn
phải là người có ý thức trách nhiệm và kỹ năng nghề nghiệp: sự kiên trì, khéo léo,
tinh tế, khá năng nắm bắt, tác động vào tâm lý.
- Hòa giải thành một vụ án ly hôn giúp tòa án giải quyết được mâu thuẫn
giữa các đương sự, góp phần xây dựng mối quan hệ tốt cho các đương sự.
Trong thực tế có nhiều cặp vợ chồng sau khi ly hôn bằng sự quyết định xét xử của
tòa án họ vẫn còn mẫu thuẫn với nhau về tài sản, con cái, nợ nần sau khi được chia
xong là họ không bao giờ nhìn mặt nhau, những đứa con bị cha mẹ của chúng cấm
đoán không cho gặp mặt người còn lại, mâu thuẫn trong vấn đề cấp dưỡng dẫn đến
tranh chấp cãi vã, rồi đến nhờ tòa án giải quyết thêm lần nữa, đó là kết quả không
ai mong muốn.
Khi mà vụ án ly hôn được giải quyết bằng sự thỏa thuận của các bên, tính
mâu thuẫn có thể sẽ giám bớt đi rất nhiều, chính các đương sự sẽ tự thỏa thuận với
nhau về tài sản, con cái, nợ nần và vấn đề cấp dưỡng cho các con nên họ sẽ phải
tuân theo những gì mà chính mình đã quyết định.Vì vậy mà hòa giải là một giai
GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

10

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
đoạn rất quan trọng trong một vụ án ly hôn, giúp cho các đương sự hạn chế được
nhiều tranh chấp sau khi ly hôn.
- Ngoài ra việc hòa giải còn góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận

thức và hiểu biết pháp luật, nâng cao trình độ dân trí, giáo dục nếp sống và làm
việc theo pháp luật trong nhân dân. Trong trường hợp hòa giải vụ án dân sự không
thành thì việc hòa giải cũng giúp tòa án có điều kiện nắm vững hơn nội dung vụ
án, hiểu biết rõ hơn tâm tư, tình cảm của đương sự cũng như những vướng mắc
trong suy nghĩ của họ, từ đó có thể xác định được đường lối giải quyết vụ án khi
đưa vụ án ra xét xử.
- Ngoài ra hòa giải thành sẽ giúp cho việc thi hành án được dễ dàng thuận
tiện hơn vì: thông thường trong các trường hợp hòa giải thành, các đương sự điều
thi hành với ý thưc tự nguyện cao không cần sự tác động của Nhà nước (cơ quan
thi hành án) việc thi hành án đơn giản, dễ dàng.
Thông qua việc xét xử, kết quả xét xử là do tòa án quyết định, vì vậy với quyết
định của Tòa án thì sẽ có những trường hợp trái ý muốn của một số đương sự, họ
sẽ không đồng ý với kết quả mà Tòa án đã quyết định. Cho nên khi tiến hành thi
hành án sẽ có một số trường hợp không đúng với ý muốn của một số đương sự thì
việc thi hành án sẽ rất là khó khăn, đối với những trường hợp này thì cần phải có
sự tác động của Nhà nước, làm cho việc thi hành án sẽ trở nên khó khăn hơn.
Nhưng khi các đương sự tự thỏa thuận với nhau qua việc hòa giải, đó là những kết
quả mà họ mong muốn, đáp ứng được yêu cầu nguyện vọng của các đương sự nên
họ sẽ tự nguyện chấp hành, không cần đến sự tác động của Nhà nước, sẽ giúp cho
việc thi hành án dễ dang, mau lẹ hơn.
1.2. Các loại hòa giải trong tranh chấp khi ly hôn
1.2.1. Hòa giải tại cơ sở
Trước đây trong vụ án ly hôn pháp luật có quy định bắt buộc phải tiến hành
hòa giải ở cơ sở rồi mới được kiện ở tòa án nhưng theo Điều 5 Luật hòa giải ở cơ
sở năm 2013 thì không quy định hòa giải ở cơ sở là bắt buộc mà chỉ khuyến khích
và trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định không bắt buộc phải
tiến hành hòa giải tại cơ sở rồi mới được đưa đơn kiện lên tòa án.
Điều 86 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định: “Nhà nước và xã hội
khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hòa giải
ở cơ sở được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở”. Theo


GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

11

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
pháp luật về hòa giải cơ sở, việc ly hôn có thể hòa giải từ nội bộ gia đình, cộng
đồng dân cư; từ thôn, ấp, bản, làng đến UBND xã, thị trấn (nếu ở nông thôn); hòa
giải từ tổ dân phố, khu phố, đến UBND phường (nếu ở đô thị). Ngoài ra, việc hòa
giải ở cơ sở cũng có thể được tiến hành ở cơ quan làm việc của cả vợ, chồng. Theo
điều 86 Luật hôn nhân gia đình ở trên thì việc hòa giải ở cơ sở là không bắt buộc,
tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò to lớn của hoạt động này. Hòa giải ở cơ sở
với hòa giải viên là những người gần gũi, gắn bó với vợ, chồng nên hiểu rõ nhất về
con người, tính cách của mỗi người cũng như quan hệ hôn nhân của họ. Từ đó, có
thể đưa ra những lời khuyên đúng đắn và cần thiết nhất cho những người trong
cuộc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiện nay hoạt động hòa giải ở cơ sở chưa đạt
được hiệu quả, hầu như chỉ mang tính “hình thức”, tỷ lệ các cặp vợ chồng quay lại
với nhau sau khi được hòa giải ở cơ sở là không nhiều.
Hòa giải ở cơ sở hiện nay chỉ mang tính khuyến khích vì tỉ lệ thành công
của nó không cao, nó chỉ thành công với những vụ ly hôn đơ giản, tính mâu thuẩn
không cao, còn đối với những vụ ly hôn phước tạp thì cần phải đến tòa án mới có
thể giải quyết được. Như đã nói ở trên người đứng trung gian giúp các đương sự
hòa giải ở cơ sở là những người thân thuộc quen biết với các đương sự hiểu được
hoàng cảnh của họ có thể khuyên họ, giúp họ nhìn ra hậu quả sau khi ly hôn như
thế nào, thì hòa giải ở cơ sở cũng là rất quan trọng. Cho nên các vụ án ly hôn nên
tiến hành hòa giải ở cơ sở trước khi đưa đơn kiện lên tòa án sẽ có khả năng cứu
vãn một cuộc hôn nhân và làm giảm bớt đi một giai đoạn tố tụng phước tạp.

1.2.2. Hòa giải tại Tòa án
Hòa giải là một hoạt động tố tụng của Tòa án khi tiến hành giải quyết các
vụ án dân sự.
+ Đặt điểm của hòa giải tại Tòa:
Hòa giải trong vụ án ly hôn cũng giống như hòa giải trong các vụ án dân sự nói
chung, có các đặt điểm sau:2
- Hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Về nguyên tắc, thủ tục hòa giải phải thực hiện sau khi Tòa án tiến hành điều tra và
trước khi xét xử sơ thẩm, và chỉ sau khi điều tra Tòa án mới có thể nắm được nội
dung vụ án, nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, từ đó mới có điều kiện
Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp và Hồ Thị Nệ, Những điều cần biết về Luật tố tụng
dân sự, NXB Công an nhân dân, 2001, trang 93
2

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

12

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án. Bên cạnh đó cũng
có những trường hợp luật quy định không được tiến hành hòa giải như: hủy hôn
trái pháp luật, đồi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, những việc phát
sinh từ giao dịch trái pháp luật,...
- Khi tiến hành thủ tục hòa giải, Tòa án là người tổ chức, bố trí cho các
đương sự thỏa thuận, thương lượng với nhau; giải thích pháp luật, động viên,
khuyến khích họ hòa giải với nhau và cuối cùng là ghi nhận các ý kiến thống nhất
hoặc không nhất trí về giải quyết vụ án của đương sự thành một văn bản có tính

chất pháp lý đó là: biên bản hòa giải thành hoặc không thành.
Cần phân biệt hòa giải là một thủ tục tố tụng bắt buộc do Tòa án tiến hành
tại Tòa án khác với hòa giải ở tổ hòa giải hay việc tự hòa giải của đương sự. Vì
trong trường hợp các đương sự tự hòa giải thì Tòa án có thể đình chỉ việc giải
quyết vụ án, còn việc hòa giải ở tổ hòa giải cơ sở thì lại không phải là một thủ tục
tố tụng bắt buộc.
- Hòa giải là sự thỏa thuận thông qua thương lượng của các đương sự.
các đương sự là chủ thể của các tranh chấp, các mâu thuẫn, nên họ có quyền tự
định đoạt để giải quyết các mâu thuẩn bằng cách thỏa thuận với nhau. Việc thỏa
thuận giữa họ chỉ đạt được trên cơ sở có sự thương lượng giữa các bên với nhau
một cách trung thực, hợp lý, hợp tình.
+ Yêu cầu của việc hòa giải tại Tòa:
Khi tiến hành hòa giải, Tòa án phải đảm bảo được các yêu cầu sau đây3
- Phải có sự tự nguyện thật sự của các đương sự trong việc thỏa thuận về
phương hướng giải quyết vụ án. Đây là yêu cầu cơ bản đầu tiên khi tiến hành hòa
giải, vì không thể đạt được một sự thỏa thuận nếu giữa các đương sự không có sự
tự nguyện, không có thiện chí để bàn bạc cách giải quyết vụ án, dưới sự vận động,
thuyết phục có lý, có tính của Tòa án.
- Nội dung sự thỏa thuận của các đương sự không được trái với quy định
của pháp luật.
Đây là yêu cầu hết sức quan trọng bởi lẽ Nhà nước chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự, mặt khác khi giải quyết vụ án Tòa án phải dựa vào các căn

Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp và Hồ Thị Nệ, Những điều cần biết về Luật tố tụng
dân sự, NXB Công an nhân dân, 2001, trang 94
3

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

13


SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
cứ pháp luật để áp dụng, do đó mọi sự thỏa thuận, thương lượng trái với pháp luật
đều không có giá trị.
-Việc hòa giải phải được tiến hành vừa tích cực, vừa kiên trì;
Những người có trách nhiệm không thể coi hòa giải chỉ là một thủ tục hình thức,
lám qua loa đại khái cho xong, nếu như vậy sẽ dẫn đến nhiều vụ án lẽ ra phải được
giải quyết nhanh chống bằng con đường hòa giải, song lại mang ra xét xử , vừa
làm mất thời gian vừa tốn kém vô ích. Tuy nhiên cũng trách tình trạng kéo dài thời
gian một cách tùy tiện, nếu thấy không thể hòa giải được, Tòa án nên chủ động
đưa vụ án ra xét xử để tránh việc lãng phí thời gian.
+ Phương pháp hòa giải tại Tòa:4
Phương pháp hòa giải là những biện pháp cách thức mà Tòa án áp dụng khi tiến
hành hòa giải.
Trước khi hòa giải Tòa án phải tiến hành điều tra nắm vững nội dung vụ án,
nguyên nhân, điều kiện phát sinh vụ án. Phải thích cho các đương sự hiểu pháp
luật áp dụng giải quyết vụ án kết hợp giải quyye61t những vướng mắc trong tư
tưởng tình cảm của họ.
Tòa án cũng có thể kết hợp với chính quyền địa phương, tổ chức xã hội trong việc
hòa giải, Tòa án phải chủ động trong việc hòa giải, nếu thấy có khả năng điều kiện
hòa giải thì Tòa án tổ chức hòa giải không đợi đương sự yêu cầu và có thể tổ chức
hòa giải nhiều lần nếu thấy cần thiết.
Thẩm phán tiến hành hòa giải phải có thái độ khách quan, chí công vô tư, không
áp đặt, cưỡng ép các đương sự. Thẩm phán phải tạo ra điều kiện làm việc thân
mật, thoải mái. Điều này đồi hỏi người Thẩm phán phải là người có kiến thức
pháp luật, có trách nhiệm và tinh thần trách nhiệm cao.
Những quy định trên là thủ tục bắt buộc đối với tất cả những vụ án dân sự

nói chung và cũng là thủ tục bắt buộc đối với những vụ án ly hôn nói riêng (trừ
những trường hợp ly hôn luật quy định không được tiến hành hòa giải):
Khi hòa giải ở cơ sở không thành, hoặc với những vụ ly hôn đơn giản
không nhất thiết phải qua hòa giải ở cơ sở, đương sự có quyền nộp đơn ly hôn trực
tiếp cho Tòa án. Trong thực tế khi các đương sự nộp đơn lên tòa án mong muốn
của họ là được xét xử để giải quyết nhanh vụ án, nhưng Tòa án lại tiến hành hòa
Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp và Hồ Thị Nệ, Những điều cần biết về Luật tố tụng
dân sự, NXB Công an nhân dân, 2001, trang 101
4

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

14

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
giải, nhiều đương sự lại không muốn phải tiến hành cuộc hòa giải. Nhiều người
cho rằng họ đã thuận tình ly hôn thì không cần phải hòa giải nữa, họ chỉ muốn tòa
tuyên bố họ được ly hôn, nhưng họ đâu biết rằng pháp luật Việt Nam luôn hướng
thiện và có tính nhân đạo, hòa giải chính là giai đoạn pháp luật tạo điều kiện cho
họ ngồi lại với nhau để nhìn lại những mâu thuẫn những tranh chấp, ai đúng và ai
sai, để có thể nhường nhịn nhau bỏ qua những lỗi lầm của nhau để họ có thể tiếp
tục bước cùng nhau trên con đường hôn nhân mà họ đã chọn trước đó. Dù các
đương sự có muốn hay không thì hòa giải vẫn là một thủ tục bắt buộc theo quy
định tại Điều 88 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 180 BLTTDS
thì:
Điều 88 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 chỉ rõ: “Sau khi thụ lý đơn yêu cầu ly
hôn, Tòa án phải tiến hành hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự”.

Hòa giải trong vụ án ly hôn nói riêng cũng giống như hòa giải trong các vụ án dân
sự nói chung thì theo Khoảng 1 Điều 180 BLTTDS cũng quy định: "trong thời
hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án trừ những vụ án không được tiến
hành hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 181 và Điều
182 của BLTTDS".
Khác với hoạt động hòa giải ở cơ sở, hòa giải tại Tòa án là một thủ tục bắt
buộc, kể cả khi hai bên thuận tình ly hôn. Trong trường hợp hòa giải đoàn tụ
không thành, các bên đồng ý ly hôn, tòa sẽ hòa giải để các bên thỏa thuận vấn đề
nuôi con, cấp dưỡng nuôi con, chia tài sản, nợ chung… Nếu các bên thỏa thuận
được, Tòa án sẽ lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn. Sau bảy ngày kể từ
ngày lập biên bản, nếu các bên vẫn không thay đổi ý kiến, Tòa án sẽ ra quyết định
công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.
Hòa giải tại Tòa là một thủ tục bắt buộc như đã phân tích ở phần trên. Bên cạnh đó
thì hòa giải tại Tòa ngoài giai đoạn phải hòa giải trước khi tiến hành xét xử Tòa án
phải tiến hành hòa giải co các đương sự, thì đây là giai đoạn bắt buộc, nhưng trong
khi tiến hành xét xử mà các đương sự muốn tự thỏa thuận thương lượng với nhau
thì Tòa án cũng sẽ chấp nhận và sẽ công nhận những thỏa thuận của các đương sự,
và hòa giải giai đoạn này cũng là hòa giải tại Tòa, nhưng hòa giải giai đoạn này thì
luật không bắt buộc, vì đây là sự phát sinh ngoài ý muốn của các đương sự cũng
như của Tòa án, còn tùy thuộc vào sự tiến triễn của vụ án mà Thẩm phán quyết

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

15

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự

định công nhận hây không công nhận những sự thỏa thuận của các đương sự trong
quá trình xét xử. Trong quá trình xét xử nếu đương sự hòa giải được với nhau sẽ
giúp cho vụ án được giải quyết một cách nhanh chống, không làm lãng phí nhiều
thời gian của Tòa án cũng như của đương sự.
1.3. Nguyên tắc tiến hành hòa giải vụ án ly hôn
Theo quy định tại khoản 2 Điều 180 của BLTTDS thì có 2 nguyên tắt khi
tiến hành hòa giải:
1.3.1. Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 180 của BLTTDS :"tôn trọng sự tự
nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình".
Theo quy định của nguyên tắt này thì hòa giải là phải tôn trọng sự tự nguyện của
các đương sự, chính là sự tôn trọng sự tự nguyện tham gia hòa giải và phải tôn
trọng nội dung thỏa thuận của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.
- Hòa giải trong vụ án ly hôn như đã nói ở chương 1, chính là sự tôn trọng
quyền tự định đoạt của các đương sự, quyền tự định đoạt của các đương sự bao
gồm quyền muốn tham gia hòa giải hay không và quyền thỏa thuận các nội dung
trong quá trình hòa giải. Điều đó cho thấy hòa giải trong vụ án ly hôn cũng như
trong các vụ án dân sự nói chung thì tiến hành hòa giải là trách nhiệm của Tòa án
và cũng là quyền của các đương sự trong vụ án.
- Quyền muốn tham gia hòa giải hay không của các đương sự được quy
định tại khoản 1, 2 Điều 182 BLTTDS, đương sự có quyền tham gia hay không
tham gia phiên hòa giải, Tòa án không có quyền ép buộc hay đe dọa bắt buộc họ
phải tham gia. nếu bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn
cố tình vằng mặt thì Tòa án có quyền ra quyết định là không tiến hành hòa giải
được và đưa vụ án ra xét xử. Còn trường hợp nếu đương sự không thể tham gia
phiên hòa giải nhưng có lý do chính đáng thì Tòa án phải hoãn phiên hòa giải và
thông báo cho các đương sự biết thời gian địa điểm của phiên hòa giải sau. Còn
đối với những trường hợp vắng mặt một số đương sự nhưng phiên hòa giải vẫn
diễn ra thì phải được sự đồng ý của những đương sự còn lại, những thỏa thuận

trong phiên hòa giải này không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những đương sự
vắng mặt.

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

16

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
- Quyền thỏa thuận các nội dung trong quá trình hòa giải chính là để cho
các đương sự tự do trình bày ý kiến của mình và các bên đương sự tự thảo luận,tự
giải quyết và thống nhất với nhau chọn ý phù hợp với nguyện vọng của mõi bên,
không bên nào được dùng vũ lực đe dọa uy hiếp đến tính mạng, sức khỏe, dạnh
dự, uy tính, nhân phẩm của bên còn lại để bên kia chấp nhận những phương pháp
giải quyết của mình trong quá trình hòa giải tại Tòa, như vậy là trái quy định của
pháp luật và không được xem là sự tự nguyện, tự do thỏa thuận, không đúng với ý
nghĩa của việc hòa giải mà pháp luật đã quy định. Riêng đối với Thẩm phán,
nhiệm vụ của Thẩm phán trong quá tình hòa giải là phải phân tích những điều luật
liên quan đến vụ án cho các đương sự hiểu các quy định của pháp luật mà có
hướng giải quyết cho đúng với pháp luật, Thẩm phán không được tiết lộ phương
pháp giải quyết của Tòa án. Cho nên, vai trò của Thẩm phán trong giai đoạn hòa
giải khác với vai trò trong giai đoạn xét xử, hòa giải là do chính các đương sự tự
quyết định mọi việc, còn xét xử Thẩm phán dựa vào những chứng cứ để phán xét
các đương sự không có quyền quyết định. Vì vậy mà, hòa giải là giai đoạn mà
pháp luật Việt Nam để cho các đương sự tụ suy xét lại những hành động của mình
và để cho các bên tự ngồi lại với nhau giải quyết những mâu thuẫn của mình, để
cứu vãn những cuộc hôn nhân có thể chưa đi đến kết cục tan vỡ.
1.3.2. Nội dung thỏa thuận của các đương sự không được trái với pháp luật

và trái với đạo đức xã hội
Theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 180 của BLTTDS: "nội dung thỏa
thuận của các đương sự không được trái với pháp luật và trái đạo đức xã hội".
Thỏa thuận của các đương sự trong quá trình hòa giải là các đương sự tự giải quyết
những mâu thuẫn của mình nhưng cũng không vì thế mà các thỏa thuận đó được
phép trái với những quy định của pháp luật và đạo đức xã hội, nếu những thỏa
thuận trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội thì sẽ không được pháp
luật công nhận và sẽ không có giá trị pháp lý để bắt các bên thực hiện nghĩa vụ và
quyền với nhau. Vì vậy mà nhiệm vụ của Thẩm phán là phải theo dõi và hướng
dẫn các đương sự thỏa thuận theo đúng với quy định của pháp luật.

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

17

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
1.4. Chủ thể trong hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa
1.4.1. Chủ thể tiến hành hòa giải vụ án ly hôn
Hòa giải một vụ án ly hôn cũng giống như hòa giải một vụ án dân sự phải
tuân theo những quy định trong BLTTDS nói chung. Những chủ thể tiến hành hòa
giải vụ án ly hôn gồm có Thẩm phán và Thư kí.
+ Thẩm phán: Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để
làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa.
Trong quá trình tố tụng dân sự Thẩm phán có nhiệm vụ sau:
- Giải quyết những vụ án dân sự theo sự phân công của Chánh án.
- Áp dụng các biện pháp cần thiết do pháp luật quy định để lập hồ sơ vụ án được
giao giải quyết; bảo đảm cho việc giải quyết vụ án nhanh chống đúng pháp luật.

- Tích cực hòa giải để các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh
chấp.
- Trong quá trình giải quyết vụ án nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì phải
cung cấp tài liệu cho Viện Kiểm sát, khởi tố về hình sự.
- Phải chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, không được từ chối
việc giải quyết vụ án được phân công, nếu không có căn cứ từ chối theo quy định
của pháp luật.
Thẩm phán có các quyền hạn sau:
-Triệu tập lấy lời khai của các đương sự;
-Triệu tập lấy lời khai của người làm chứng;
-Ra các quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, tạm đình chỉ việc
giải quyết vụ án;
- Quyết định việc ủy thác điều tra, trưng cầu giám định, định giá tài sản;
- Ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các bên đương sự, nếu thỏa thuận đó
không trái với quy định của pháp luật và đạo đực xã hội;
- Tham gia Hội đồng xét xử khi được phân công xét xử;
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có liên quan đến việc giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
+ Thư kí: Thư kí là người giúp việc cho Thẩm phán, phải thực hiện mọi mệnh lệnh
của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án. Có nhiệm vụ quản lý, sắp xếp hồ
sơ vụ án, tống đạt các giấy tờ cho các đương sự và phải làm công tác chuẩn bị mở
phiên Tòa xét xử vụ án theo yêu cầu của Thẩm phán.

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

18

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM



Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
Khi tham gia phiên tòa Thư kí phải ghi chép đầy đủ, trung thực các diễn biến tại
phiên tòa vào bên bản phiên tòa.
Đây là những nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán và Thư kí trong suốt quá
trình tố tụng nói chung. Riêng trong giai đoạn hòa giải thì Thẩm phán và Thư kí có
những nhiệm vụ sau:
Thẩm phán là người chủ trì phiên hòa giải cho các đương sự, nhiệm vụ của Thẩm
phán là giải thích pháp luật cho các đương sự về những quy định có liên quan đến
những vấn đề mà họ muốn được giải quyết, còn nhiệm vụ của Thư kí trong cuộc
hòa giải là ghi biên bản lại những thỏa thuận của các đương sự. Trong quá trình
hòa giải Thẩm phán là người chủ trì cuộc hòa giải nhưng Thẩm phán không có
quyền được quyết định những vấn đề mà các đương sự đang tranh chấp, phải để
cho các đương sự tự thỏa thuận với nhau, Thẩm phán phải tôn trọng những thỏa
thuận của các đương sự, giải thích cho các đương sự biết những chổ nào sai so với
quy định của pháp luật, từ đó giúp cho các đương sự tìm được hướng giải quyết
đúng với quy định của pháp luật và cũng đúng theo nguyện vọng của họ. Thẩm
phán cũng là người công nhận sự thỏa thuận cho các đương sự thành hay phải đưa
ra tòa xét xử.
“Bên cạnh đó trong quá trình hòa giải vụ án ly hôn đồi hỏi Thẩm phán phải biết
phân vai thành một người trung gian, người điều đình, người trọng tài.
- Là một người trung gian thì Thẩm phán phải luôn giữ chuẩn mực là người không
thuộc về một bên.
- Là một người điều đình Thẩm phán phải biết tăng giảm liều lượng căng thảng
hoặc mềm dẻo, duy trì mức độ trung hòa để đạt được mục đích hòa giải
- Là một người trọng tài Thẩm phán phải biết lắng nghe cả hai bên, chắt lọc và gợi
ý để đi đến thỏa thuận chung.
Vì vậy tùy theo từng loại vụ án (dân sự, kinh doanh, ly hôn...) mà Thẩm phán thể
hiện từ phong thái đến phương án hòa giải và xử lý tình huống trong quá trình hòa
giải, các kỹ năng chắt lọc thông tin, tổng hợp, ngôn ngữ và tư duy của Thẩm phán
khi hòa giải”. Vì vậy mà nhiệm vụ của Thẩm phán trong quá trình hòa giải là rất

quan trọng.
Còn đối với Thư kí là người trực tiếp ghi biên bản các thỏa thuận của các đương
sự, sau đó đưa cho Thẩm phán xem xét lại và cho các đương sự kí tên vì vậy vai

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

19

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
trò của Thư kí trong quá trình hòa giải cũng rất quan trọng là người giúp đỡ và hỗ
trợ cho Thẩm phán trong quá trình hòa giải cho các đương sự.
1.4.2. Chủ thể tham gia hòa giải trong vụ án ly hôn tại Tòa
Chủ thể chính trong quá trình hòa giải trong vụ án ly hôn tại Tòa là các
đương sự. "Đương sự" trong tố tụng dân sự nói chung là cá nhân, pháp nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện, bị kiện hoặc có quyền, lợi ích liên quan đến các quan hệ
đang tranh chấp.5
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì các đương sự tham gia tố tụng dân
sự phải có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là
khả năng mà cá nhân, pháp nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng theo pháp luật về tố tụng dân sự quy định.
Trong vụ án ly hôn thì đương sự bao gồm các nguyên đơn và bị đơn và những
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, hoặc người đại diện hợp pháp của đương
sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch.
Nguyên đơn là người chồng hoặc người vợ khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết
mối quan hệ hôn nhân của họ.
Bị đơn trong vụ án ly hôn là người còn lại bị nguyên đơn khởi kiện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án ly hôn tuy là người không khởi
kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án ly hôn có liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị
và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia hòa giải với tư cách là người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Đối với việc giải quyết vụ án ly hôn mà có liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của người khác mà không ai yêu cầu họ có mặt trong quá
trình hòa giải thì tòa án phải đưa họ vào tham gia hòa giải với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong quá trình hòa giải nếu có đương sự vắng mặt, các đương sự khác vẫn
đồng ý tiến hành hòa giải thì quá trình hòa giải vẫn diễn ra nhưng nếu các đương
sự còn lại không đồng ý yêu cầu phải có mặt của đương sự vắng mặt đó thì Thẩm
phán phải hoãn phiên hòa giải lại và Thẩm phán phải thông báo cho các đương sự
biết về việc hoãn phiên hòa giải và việc mở lại phiên hòa giải cho các đương sự
5

Điều 56 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

20

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
biết. Trong những trường hợp cần thiết thì Thẩm phán vẫn có thể yêu cầu các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham giai phiên hòa giải và người phiên dịch
nếu đương sự không biết tiếng Việt.
Vì vậy trong thực tế có những vụ ly hôn đơn giản là chỉ giữa hai người,
những trường hợp như vậy thì họ chỉ yêu cầu tòa án chấm dứt mối quan hệ hôn

nhân của họ còn những vấn đề khác thì họ tự giải quyết với nhau không cần sự can
thiệp của Tòa an, trường hợp này thì Tòa án chỉ mở phiên hòa giải để hàn gắn
cuộc hôn nhân của họ, nếu thỏa thuận không thành thì Thẩm phán sẽ ra quyết định
đoàn tụ không thành cho họ ly hôn mà không cần phải đưa ra tòa xét xử. Bên cạnh
đó thì cũng không ít có những trường hợp ly hôn, ngoài việc yêu cầu tòa án chấm
dứt mối quan hệ hôn nhân của họ mà còn giải quyết nhiều vấn đề khác như về tài
sản, nợ chung, trên thực tế thì những trường hợp này gặp rất nhiều, nếu hòa giải
không thành những vấn đề này phải đưa ra tòa xét xử. Do đó ly hôn không chỉ
đơn giản chỉ là giữa hai người mà còn liên quan đến nhiều người khác, vì vậy mà
hòa giải là giai đoạn để cho các đương sự tự thỏa thuận với nhau, tự giải quyết
những mâu thuẩn tranh chấp, như vậy có thể giải quyết được một cách nhanh
chống như vậy không chỉ tiết kiệm được thời gian cho các đương sự mà còn tiết
kiệm tiền bạc cho họ.
Trong một vụ án ly hôn hòa giải tại Tòa là một thủ tục bắt buộc, đây cũng là một
giai đoạn quan trọng, nếu hòa giải thành sẽ giúp cho tòa án và đương sự giảm đi
một giai đoạn tố tụng phước tạp đó là giai đoạn đưa ra tòa xét xử, bên cạnh đó
cũng giảm được tiền bạc và thời gian của các bên. Hòa giải tại tòa là để cho các
đương sự tự thỏa thuận với nhau, họ tự thương lượng với nhau những vấn đề mà
họ muốn tòa án giải quyết. Cho nên cho dù họ có thể hàn gắn hoặc không thể hàn
gắn mối quan hệ của họ thì những gì mà họ đã thỏa thuận sẽ đáp ứng được nguyện
vọng của họ và làm giảm đi những mâu thuẩn dù thực tế họ không còn là vợ
chồng.

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

21

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM



Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TẠI TÒA ÁN ĐỐI
VỚI VỤ ÁN LY HÔN
Hiện nay tình trạng ly hôn diễn ra rất nhiều ở các cặp vợ chồng trẻ, cho nên
giai đoạn hòa giải là một giai đoạn quan trọng và bắt buộc nằm trong quá trình tố
tụng trong các vụ án dân sự nói chung và trong các vụ án ly hôn nói riêng. Vì vậy
mà trong Bộ LTTDS Nhà nước ta đã dành riêng …điều để quy định rõ và chặt chẽ
về giải đoạn hòa giải, giúp cho Thẩm phán, Thư kí và các đương sự có thể thực
hiện các quy định của pháp luật một cách dễ dàng.
2.1. Những vụ án ly hôn không tiến hành hòa giải được
Trong các vụ án dân sự nói chung và trong các vụ án hôn nhân nói riêng thì cũng
có những vụ án không thể tiến hành hòa giải được, theo quy định của luật thì hòa
giải là một thủ tục bắt buộc trước khi đưa vụ án ra Tòa xét xử, nhưng trên thực tế
cũng có những nguyên nhân khách quan, được quy định tại Điều 182 của
BLTTDS sẽ làm cho một vụ án có thể kéo dài, không thể tiến hành hòa giải được,
khí đó Tòa án có thể quyết định đưa vụ án ra Tòa xét xử mà không cần tiến hành
hòa giải.
Bên cạnh đó thì các trường hợp không tiến hành hòa giải được thì trong hồ sơ vụ
án phải chứng minh đầy đủ lý do cho từng trường hợp mà Tòa án không thể tiến
hành hòa giải được.
Ví dụ như đối với trường hợp bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai
mà vẫn cố tình vắng mặt thì trong hồ sơ phải có tài liệu chứng minh thể hiện đã
triệu tập hợp lệ hai lần (thủ tục triệu tập hợp lệ theo các phương thức cấp, tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng tại chương X BLTTDS) và phải lập biên bản hòa giải
không được; đối với trường hợp có lý do chính đáng thì trong hồ sơ cũng phải có
những tài liệu thể hiện lý do đó.
2.1.1. Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố
tình vắng mặt.


GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

22

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán sẽ gửi thông báo triệu tập các đương sự đến
Tòa án để tiến hành hòa giải nếu bị đơn trong vụ án ly hôn vắng mặt thì phiên hòa giải
sẽ bị hủy bỏ và phải tiến hành một cuộc hòa giải khác.
Sau khi được triệu tâp lần thứ 1 bị đơn không đến, Tòa án sẽ tiến hành mở phiên
hòa giải thứ 2, lần thứ 2 nếu bị đơn tiếp tục không đến thì Thẩm phán sẽ ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Sau hai lần triêu tập để cho các bên tự thỏa thuận với nhau nhưng
bị đơn cố tình không đến, chứng tỏ bị đơn không muốn hòa giải, vì vậy tòa án có
quyền đưa vụ án ra Tòa xét xử, nhưng nếu trong quá trình xét xử mà các bên muốn hòa
giải, tự thỏa thuận được với nhau thì Tòa án vẫn chấp nhận sự thỏa thuận của các
đương sự, nếu các thỏa thuận đó đúng theo pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.
2.1.2. Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng.
Trường hợp Tòa án triệu tập các đương sự đến tòa để tiến hành hòa giải nhưng
một trong các đương sự có lý do chính đáng không thể đến tòa án để tham gia hòa giải
được thì Tòa án phải hủy phiên hòa giải,và Tòa án phải thông báo tiến hành mở một
cuộc hòa giải khác, cũng giống như trường hợp trên nếu đương sự vắng mặt lần thứ hai
không thể tham gia hòa giải thì Tòa án sẽ quyết định đưa vụ án ra Tòa xét xử. Nhưng
đối với trường hợp này cũng có một số trường hợp ngoại lệ, theo quy định tại khoản 3
Điều 184 thì trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt, nhưng các
đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải, và việc hòa giải đó không ảnh hưởng
đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt, thì Thẩm phán tiến hành hòa giải giữa
các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả
các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải. Thẩm phán thông

báo việc hoãn phiên hòa giải và việc mở lại phiên hòa giải cho các đương sự biết.
Do luật không quy định rõ như thế nào là lý do chính đáng, cho nên những
người thi hành pháp luật có những cách hiểu khác nhau, tùy vào ý chí chủ quan của
mõi người.
Trên thực tế, để phân biệt được thế nào là lý do chính đáng và thế nào là lý do
không chính đáng phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng
khác nhau, có khi cùng một lý do nhưng người tiến hành tố tụng này cho đây là lý do
chính đáng nhưng cũng với lý do đó nhưng người tiến hành tố tụng khác thì lại cho
rằng đây không phải là lý do chình đáng, trong khi đó thì trong điều luật lại không có
quy định rõ thế nào là lý do chính đáng thế nào là lý do không chính đáng. Cho nên khi

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

23

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
xét xử vụ án ly hôn thì đương sự vắng mặt với lý do chính đáng hay không là còn tùy
thuộc vào ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng.
2.1.3. Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành
vi dân sự
Theo điều 22 của Bộ Luật dân sự thì “người mất năng lực hành vi dân sự là
do người đó bị mất bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác mà không thể nhận thức
hoặc làm chủ được hành vi của mình”.
Người bị mất năng lực hành vi dân sự thì không thể nộp đơn khỏi kiện đến
Tòa án xin ly hôn và nếu có nộp đơn thì Tòa án cũng không thụ lý. Quyền ly hôn
là quyền nhân thân của con người nên không có ai có thể thay thế được, cho nên
những người giám hô của người bị mất năng lực hành vi dân sự cũng không thể

nộp đơn xin ly hôn giùm cho người bị mất năng lực hàn vi dân sự được. Cho nên,
trường hợp "đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người bị mất năng
lực hành vi dân sự" thì Tòa án không tiến hành hòa giải mà phải đưa vụ án ra Tòa
xét xử, với quy định này thì người khởi kiện là người vợ hoặc chồng là người
không bị mất năng lực hành vi dân sự, và người bị khởi kiện là người bị mất năng
lực hành vi dân sự. Vì luật hiện nay chưa quy định là người bị mất năng lực hành
vi dân sự được quyền nhờ người khác hoặc có thể tự khởi kiện ra Tòa xin ly hôn.
Ví dụ:
Anh Nguyễn Văn A và chị Trần Thị C kết hôn được 5 năm, và có cháu trai 4 tuổi.
2 năm trước anh A trên đường đi làm về, anh bị tai nạn giao thông dẫn đến chấn
thương sọ não. Hiện sức khỏe anh không được tốt và mất khả năng nhận thức nên
không thể tiếp tục công việc trước đây. Tron khi đó chị C vẫn còn trẻ nên muốn ly
hôn để chuẩn bị cho cuộc sống mới, và chị C đã quyết định ly hôn.6
Theo như ví dụ trên thì chị C vẫn có quyền ly hôn. Để được Tòa án nhân
dân cấp có Thẩm quyền chấp nhận đơn ly hôn của chị C thì cị phải làm thủ tục
tuyên bố anh A là người bị mất năng lực hành vi dân sự theo khoản 1 Điều 22 của

6

Người

bị

mất

năng

lực

hành


vi

dân

sự,

Bùi

Vĩnh,

[truy cập 05-10-2014].

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

24

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM


Quy định của pháp luật về hòa giải vụ án ly hôn tại Tòa án trong tố tụng dân sự
Bộ luật dân sự, khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mất các bệnh khác mà
không thể nhận thức làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người đó mật năng lực
hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ giám định. Dó đó chị C có thể làm đơn
yêu cầu tòa án cấp có thẩm quyền tuyên bố anh A bị mất năng lực hành vi dân sự.
Kèm theo đơn yêu cầu phải có kết luận của cơ quan chuyên môn và các chứng cứ
khác để chứng minh anh A bị bệnh tâm thần hoặc mất các bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Trong trường hợp Tòa án chấp nhận
đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố anh A bị mất năng lực hành vi dân

sự, lúc này chị C sẽ là người giám hộ đượng nhiên của anh A, theo khoản 1 Điều
62 Bộ luật dân sự. Đồng thời khi thaam gia vào các quan hệ pháp luật, cị C cũng là
người đại diện theo pháp luật của anh A theo khoản 2 Điều 141 của Bộ luật dân sự
Khi chị C nộp đơn ra Tòa làm thủ tục xin ly hôn với anh A, chị C sẽ không còn
làm người đại diện tham gia tố tụng cho anh A khi chính chị C có yêu cầu ly hôn.
Do đó, khi Tòa án thụ lý vụ án ly hôn theo yêu cầu của chị C thì căn cứ vào Điều
76 Bộ luật TTDS Tòa án sẽ chỉ định người đại diện: "Trong khi tiến hành tố tụng
dân sự, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lựa hành vi dân sự mà không có
người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 1Điều 75 của Bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định
người đại diện để tham gia tố tụng tại Tòa án". Do đó, người thay mặt anh A tham
gia giải quyết việc ly hôn tại Tòa tron trường hợp này, do Tòa án quyết định, trên
cơ sờ đảm bảo được tốt nhất quyền lợi và lợi ích cho anh A. Nhưn điểm khác biệ
của vụ án ly hôn với người bị mất năng lực hành vi dân sự là sau khi thụ lý, tòa án
sẽ tiến hành đưa vụ án ra xét xử mà không qua thủ tục hòa giải như các vụ án ly
hôn thông thường theo khoản 3 Điều 182 của Bộ luật TTDS.
Vì vậy trong vụ án ly hôn đương sự là vợ hoặc chồng mà bị mất năng lực
hành vi dân sự thì Tòa án không thể tiến hành hòa giải vì người mất năng lực hành
vi dân sự họ không thể kiểm soát được hành vi của mình, không thể làm chủ được
bản thân, tinh thần của họ không được minh mẩn, họ không thể quyết định được
vấn đề của họ, không thể tự thỏa thuận để giải quyết những mâu thuẫn. Do đó vụ
án ly hôn rơi vào trường hợp này Tòa án phải tiến hành đưa vụ án ra Tòa xét xử,
và quyền lợi của người bị mất nâng lực hành vi dân sự phải được bảo vệ.
2.2. Những vụ án ly hôn không được tiến hành hòa giải

GVHD: THÂN THỊ NGỌC BÍCH

25

SVTH:LÂM HÒNG DIỄM



×