Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

Đánh giá tác động của quá trình sản xuất giấy tới môi trường nước tại xã Phong Khê, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và các giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 109 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ P

KHOA SINH -

--------------------------

ĐOÀN THỊ Y

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT GIẤY TỚI MÔI TRƯ
BẮC NINH VÀ CÁC GIẢI P

KHÓA LUẬN TỐT NGH
Chuyên ngành: Sinh thá
NGƯỜI HƯỚNG DẪN

TS. HOÀNG NGUY

Hà Nội - Năm

Đoàn Thị Yến

1

K32A - SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp



Đoàn Thị Yến

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

2

K32A - SP Sinh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Hoàng Nguyễn Bình GVC Khoa Sinh - KTNN, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, người đã trực
tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm cùng
các thầy cô và các bạn sinh viên trong khoa Sinh – KTNN đã động viên, tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện khóa luận này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình và người thân đã
giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2.
Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2010
Tác giả khóa luận
Đoàn Thị Yến



LỜI CAM ĐOAN
Với nội dung của đề tài, tôi xin cam đoan như sau:
1. Đề tài của tôi không hề sao chép từ bất kỳ một đề tài nào có sẵn.
2. Đề tài của tôi không trùng với một đề tài nào khác.
3. Kết quả thu được trong đề tài là do nghiên cứu thực tiễn đảm bảo tính chính

xác và trung thực.
4. Đề tài là một phần của công trình “ Bảo tồn và phát triển làng nghề giấy
Phong Khê, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh”.
Công trình trên tôi nghiên cứu cùng sinh viên: Vũ Thị Ngọc K32A Sinh, Trần Thị Loan K32B - Sinh.
Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2010
Tác giả khóa luận
Đoàn Thị Yến

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BOD
COD
CNH - HĐH
CSSX
DO
ĐHQGHN
HĐND
KCN
KCNLN
KHTN
Nxb
ÔNMT
SS
STT

Biologial Oxigen Demand ( nhu cầu oxi sinh hóa)
Chemical Oxigen Demand ( nhu cầu oxi hóa học)
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Cơ sở sản xuất
Dissolved Oxigen ( oxi hòa tan )
Đại học Quốc gia Hà Nội

Hội đồng nhân dân
Khu công nghiệp
Khu công nghiệp làng nghề
Khoa học Tự nhiên
Nhà xuất bản
Ô nhiễm môi trường
Suspended Solid ( chất rắn lơ lửng)
Số thứ tự



TCCP
TCVN
TN - MT
UBND
VSV

Tiêu chuẩn cho phép
Tiêu chuẩn Việt Nam
Tài nguyên - Môi trường
Ủy ban nhân dân
Vi sinh vật

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1

Sự phân bố các CSSX tại các thôn trong xã Phong Khê.

Trang
17



Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
Bảng 6
Bảng 7
Bảng 8

Nhu cầu nguyên, nhiên liệu và nước sử dụng tại Phong Khê.
Phân tích nước thải tại KCN Phong Khê và thôn Dương Ổ.
Tải lượng các chất ô nhiễm do hoạt động sản xuất giấy và
sinh hoạt ở Phong Khê.
Phân tích nước mặt tại xã Phong Khê.
Phân tích nước ngầm tại thôn Dương Ổ, xã Phong Khê.
So sánh tỷ lệ mắc bệnh giữa người trực tiếp sản xuất và
người không trực tiếp sản xuất ở xã Phong Khê.
Tiêu chuẩn nước thải tại nguồn.

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1

Quy trình sản xuất giấy dó kèm theo dòng thải.

Hình 2
Hình 3

Quy trình sản xuất bìa các tông kèm theo dòng thải.
Quy trình sản xuất giấy vệ sinh, giấy ăn, giấy vàng mã kèm

theo dòng thải.
Dây chuyền mặt bằng của từng hộ sản xuất.
Mô hình bố trí CSSX trong khu công nghiệp.
Mô hình xử lý nước thải sơ bộ tại cơ sở.
Mô hình xử lý nước thải tại trạm tập trung.

Hình 4
Hình 5
Hình 6
Hình 7

23
25
26
27
29
32
38
Trang
18
20
21
35
36
39
40

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển là mục tiêu của mọi quốc gia trên thế giới nhằm cải thiện

chất lượng cuộc sống. Để đạt được mục tiêu trên, phát triển kinh tế phải đi đôi
với bảo vệ môi trường. Chiến lược phát triển toàn cầu là một minh chứng cho


sự tiến bộ đáng khích lệ của thế hệ hiện tại trong nhận thức về trách nhiệm
với thế hệ tương lai. Cùng đi chung trên con tàu trái đất, Việt Nam đã và đang
gắng sức thực hiện mục tiêu này.
Trong những năm gần đây, do chủ trương đa dạng hóa thành phần kinh
tế, đa dạng hóa ngành nghề của Đảng và Nhà nước, nông thôn Việt Nam đã
đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, đặc biệt là sự khôi
phục phát sinh phát triển mạnh mẽ các làng nghề truyền thống và làng nghề
mới.
Bắc Ninh - một tỉnh miền Bắc có tốc độ phát triển kinh tế khá mạnh, có
tới 62 làng nghề truyền thống. Sự phát triển của các làng nghề truyền thống
đã và đang góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn người dân
lúc nông nhàn, hay cho người dân chuyển dần từ vùng nông thôn sang khu
công nghiệp hoặc đô thị, … đồng thời đem lại một nguồn thu nhập đáng kể
cho ngân sách nhà nước.
Không chỉ có tác dụng xóa đói giảm nghèo, nghề làm giấy ở Phong
Khê, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh còn góp phần xử lý một phần giấy
thải của thành phố Hà Nội. Nếu như chiến lược quản lý chất thải rắn trên thế
giới hiện nay nhằm vào 3 hướng ưu tiên (3R): tái sử dụng ( Reuse), giảm tiêu
thụ ( Reduce), tái chế phế liệu (Recycle) thì nghề làm giấy ở Phong Khê hoàn
toàn đáp ứng được chiến lược này. Cho dù ở công nghệ nào, việc tái chế giấy
ở Phong Khê có một giá trị cao về làm sạch môi trường, tái sử dụng sản xuất
và giảm khai thác tài nguyên.
Tuy nhiên, việc tái chế giấy ở Phong Khê đã và đang có những tác
động xấu đến môi trường sống và mỹ quan làng nghề. Các chất thải từ tái chế
giấy đặc biệt là nước thải chưa được xử lý đổ trực tiếp ra môi trường gây ô
nhiễm nghiêm trọng. Hiện việc xử lý ÔNMT đã vượt quá khả năng của các

CSSX giấy nhỏ lẻ. Bên cạnh đó điều kiện lao động không được an toàn, vệ



sinh môi trường không được quan tâm nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khỏe người dân.
Vì các lý do đó, làng nghề sản xuất giấy Phong Khê đang đứng trước
nguy cơ bị các cơ quan chức năng đóng cửa, tức dẫn đến nguy cơ không còn
tồn tại. Điều đó ảnh hưởng tới việc sống còn của địa phương này. Vì vậy,
chúng tôi chọn đề tài “ Đánh giá tác động của quá trình sản xuất giấy tới
môi trường nước tại xã Phong Khê, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và
các giải pháp khắc phục”.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài chúng tôi nghiên cứu nhằm các mục tiêu sau:
- Đánh giá ảnh hưởng từ quy trình sản xuất giấy bằng nguyên liệu tái chế đến
môi trường tự nhiên và con người tại khu vực.
- Đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm giảm thiểu tối đa nguồn gây ô nhiễm
môi trường nhưng vẫn đảm bảo duy trì sản xuất của các cơ sở.
- Từ những kết luận, bài học rút ra từ vùng nghiên cứu có thể tạo ra những
hướng đi thích hợp cho việc duy trì và phát triển sản xuất ở các làng nghề
tương tự.
3. Điểm mới của đề tài
- Phân tích quy trình sản xuất, đánh giá tác động môi trường, đưa ra các giải
pháp để duy trì sản xuất đồng thời giảm thiểu ÔNMT tại làng nghề.
- Các giải pháp đưa ra sẽ được kiến nghị với chính quyền địa phương để có
chiến lược giảm thiểu ÔNMT, định hướng phát triển kinh tế và bảo vệ sức
khỏe con người.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Việc giải quyết các mục tiêu của đề tài sẽ là cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm
đảm bảo vừa duy trì hoạt động của các CSSX vừa giảm thiểu ÔNMT đảm

bảo cho sự phát triển bền vững của hệ sinh thái khu vực.



- Từ những kết luận và bài học rút ra từ vùng nghiên cứu có thể tạo ra những
hướng đi mới thích hợp cho sự phát triển của các làng nghề tương tự.
- Những ảnh hưởng của sự ÔNMT nước từ hoạt động sản xuất giấy tái chế tới
sức khỏe người dân, tới sản xuất nông nghiệp địa phương là cơ sở để lãnh
đạo xã và chính quyền cấp trên có những kế hoạch và chiến lược lâu dài để
bảo vệ sức khỏe con người và phương hướng phát triển kinh tế tiếp theo.



CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các nghiên cứu về ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam
Đất nước ta đang trên đà phát triển CNH - HĐH, tiến đến mục tiêu năm
2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp. Cùng với quá trình phát triển kinh
tế, đến nay số làng nghề và làng nghề truyền thống ở nước ta đã lên đến trên
2.000 làng nghề. Trong đó vùng đồng bằng sông Hồng có 855 làng nghề,
Đông Bắc có 164 làng nghề, Tây Bắc có 247 làng nghề, Bắc Trung bộ có 314
làng nghề, Nam Trung bộ có 87 làng nghề, Đông Nam bộ có 101 làng nghề,
đồng bằng Sông Cửu Long có 211 làng nghề. Trong số đó, tất cả có khoảng
300 làng nghề truyền thống [1].
Bên cạnh những mặt tích cực về kinh tế của các làng nghề mang lại, thì
hoạt động sản xuất tại các làng nghề đang gây ảnh hưởng xấu tới môi trường,
sức khoẻ cộng đồng và gây những mâu thuẫn môi trường nông thôn. Đánh giá
thực trạng ÔNMT và đưa ra giải pháp khắc phục đang là vấn đề rất cần thiết
để duy trì và phát triển bền vững các làng nghề.
Nguyễn Quang Trung, Hoàng Thu Thủy (2004) đã chỉ ra một số đặc
trưng về phát triển làng nghề nông thôn Việt Nam, nguyên nhân gây ô nhiễm

tại các làng nghề. Nguyên nhân gây ô nhiễm nước chủ yếu là quá trình xử lý
công nghiệp như: chế biến lương thực thực phẩm, mây tre, dệt, in, tẩy giấy và
nhuộm… Thường nước thải ra bị nhiễm màu nặng và gây ra hiện tượng đổi
màu đối với dòng sông nhận nước thải. Ô nhiễm không khí gây bụi, ồn và
nóng do sử dụng than và củi trong sản xuất vật liệu xây dựng và sản xuất gốm
sứ. Ô nhiễm chất thải rắn do tái chế nguyên liệu: giấy, nhựa, kim loại… các
loại rác thải thông thường: nhựa, túi nilon, giấy, hộp, vỏ lon, kim loại và các
loại rác thải khác thường được xả ra bất kỳ dòng nước hoặc khu đất trống nào.
Tác giả cũng đã phân tích ảnh hưởng của chất thải làng nghề tới môi trường


nước, đất, không khí và sức khỏe cộng đồng [16].
GS.TS. Đặng Kim Chi (2003) nghiên cứu về các làng nghề Việt Nam
cũng đã cảnh báo "100% mẫu nước thải ở các làng nghề được khảo sát có
thông số vượt TCCP. Môi trường không khí bị ô nhiễm có tính cục bộ tại nơi
trực tiếp sản xuất, nhất là ô nhiễm bụi vượt TCCP và ô nhiễm do sử dụng
nhiên liệu than, củi. Tỷ lệ người dân làng nghề mắc bệnh cao hơn các làng
thuần nông, thường gặp ở các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, bệnh đường
ruột, bệnh ngoài da. Nhiều dòng sông chảy qua các làng nghề hiện nay đang
bị ô nhiễm nặng; nhiều ruộng lúa, cây trồng bị giảm năng suất do ô nhiễm
không khí từ làng nghề"[1].
Khi nghiên cứu về làng nghề Dương Liễu (Hà Nội) sản xuất tinh bột
sắn, Lê Thị Việt Hà và cộng sự (2004) đã đánh giá làng nghề bị ô nhiễm nặng
với thông số BOD5, COD, TSS của nước thải vượt TCCP hàng chục lần [3].
Làng nghề dệt nhuộm Vạn Phúc cũng đang nằm trong tình trạng ô
nhiễm nặng do nước thải dệt nhuộm gây nên [20]. Làng nghề bún Thôn Đoài
(Bắc Ninh) hàm lượng COD (nhu cầu ô xy hoá học) cao gấp 3,2 đến 8,93 lần
so với tiêu chuẩn cho phép, làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên),
nồng độ chì vượt quá 2.600 lần TCCP.
Ngoài các làng nghề kể trên, còn rất nhiều làng nghề Việt Nam đang

lên tiếng kêu cứu bởi ô nhiễm chất thải. Làng nghề sản xuất giấy Phong Khê
cũng không thoát khỏi tình trạng ô nhiễm. Các chất thải đặc biệt là nước thải
giấy gây ô nhiễm môi trường nước, ảnh hưởng tới sức khỏe người dân và sản
xuất nông nghiệp ở địa phương.
1.2. Các nghiên cứu về ô nhiễm môi trường tại làng nghề giấy Phong
Khê, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Làng nghề giấy Phong Khê (trước đây thuộc huyện Yên Phong nay
thuộc thành phố Bắc Ninh) có truyền thống xeo giấy từ lâu đời nhưng mới



phát triển sản xuất giấy từ nguyên liệu tái chế cách đây không lâu. Đi liền với
nó là sự ÔNMT. Đã có nhiều cá nhân và tổ chức nghiên cứu ô nhiễm môi
trường tại khu vực:
Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Đại học Bách khoa Hà Nội
(1998), đánh giá hiện trạng môi trường không khí tại ba làng nghề thủ công
(làng nghề giấy Phong Khê, sắt Đa Hội, nhựa Minh Khai). Đề tài chỉ rõ nồng
độ một số chất khí độc có trong môi trường không khí khu vực sản xuất cao
hơn khu vực dân tại xã Phong Khê do quy trình sản xuất ở đây quá lạc
hậu[19].
Các báo cáo hiện trạng môi trường của Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh
Bắc Ninh qua các năm chỉ rõ nước của sông Ngũ Huyện Khê đang bị ô nhiễm
nặng, tình trạng ô nhiễm này tăng qua các năm do chất thải chưa xử lý của các
làng nghề đổ thẳng ra sông [15].
Tạ Thúy Vân (2006) nghiên cứu về quá trình đô thị hóa và một số vấn đề
nảy sinh tại xã Phong Khê. Tác giả phân tích tác động tích cực và tiêu cực từ
quá trình đô thị hóa đối với đời sống và kinh tế địa phương. Đồng thời tác giả
cũng chỉ ra vấn đề ÔNMT đang là thách thức đối với sự phát triển bền vững
của làng nghề [18].
Như vậy, các công trình nghiên cứu về môi trường ở Phong Khê cho

thấy môi trường làng nghề đang bị ô nhiễm. Tuy nhiên, một số nghiên cứu ô
nhiễm môi trường nước chỉ dừng ở mức báo cáo, chưa đánh giá sâu thiệt hại
về sản xuất nông nghiệp và sức khỏe cộng đồng và giải pháp cụ thể.
1.3. Vấn đề nước thải trong công nghiệp giấy và bột giấy
Công nghệ sản xuất giấy và bột giấy là một trong những công nghệ sử
dụng nhiều nước. Tùy theo từng công nghệ và sản phẩm, lượng nước cần thiết
3

để sản xuất 1 tấn giấy dao động từ 200 - 500 m nước. Nước được dùng cho
các công đoạn ngâm kiềm, tẩy, xeo giấy và công đoạn rửa và nấu nguyên liệu

Đoàn Thị Yến

18

K32A - SP Sinh


Đoàn Thị Yến

19

K32A - SP Sinh


đối với công nghiệp sản xuất giấy từ nguyên liệu thô (tre, nứa, bạch đàn, …).
Trong các nhà máy giấy, hầu như tất cả lượng nước đưa vào sử dụng sẽ là
lượng nước thải nếu như không có hệ thống xử lý tuần hoàn lại nước và hóa
chất.
Nước thải của ngành công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy được xem là

loại nước thải gây ô nhiễm nặng nề do khối lượng nước lớn (trung bình từ 100
3

- 200 m /1tấn sản phẩm). Nước thải giấy có chứa hàm lượng các chất hữu cơ,
xơ sợi nhiều dễ bị phân hủy gây mùi hôi thối. Mặt khác nước thải giấy thường
có màu sẫm hay màu của phẩm nhuộm gây mất mỹ quan và độc hại đối với
các loài thủy sinh vật. Trong quá trình sản xuất nước thải của các CSSX hầu
hết được xả thẳng ra sông, rạch gây ô nhiễm nguồn nước tiếp nhận.
1.3.1. Nguồn gốc của nước thải công nghiệp giấy và bột giấy Các
nguồn nước thải của nhà máy giấy bao gồm [11]:
- Nước rửa nguyên liệu có các chất hữu cơ, đất đá, cát sỏi, vỏ cây, xơ sợi, ..
- Nước thải từ công đoạn nấu và rửa sau nấu (đối với sản xuất giấy từ
nguyên liệu tre, nứa, gỗ keo, bạch đàn….) có nhiều chất hòa tan, các hóa chất
nấu và một phần xơ sợi. Nước thải ở đây có màu đen và thường gọi là dịch
đen, thành phần hữu cơ chủ yếu là lignin hòa tan trong kiềm (30 - 35% theo
chất khô), ngoài ra là sản phẩm phân hủy hidratcacbon và các axit hữu cơ
khác. Thành phần vô cơ gồm những hóa chất đưa vào nấu, một phần nhỏ là
NaOH, Na2SO4, Na2S, Na2CO3, … còn phần nhiều là kiềm sulfat liên kết với
các chất hữu cơ trong kiềm.
- Nước thải từ công đoạn tẩy trắng bột giấy chứa các hợp chất hữu cơ, lignin
hòa tan và các hợp chất tạo thành của những chất đó với chất tẩy ở dạng
độc hại (ví dụ các hợp chất clo hữu cơ). Nước thải ở đây có độ màu, giá trị
COD và BOD đều cao.



- Dòng thải từ quá trình nghiền bột và xeo giấy chủ yếu chứa xơ sợi mịn, bột
giấy ở dạng lơ lửng và các chất phụ gia như nhựa thông, phẩm màu, cao
lanh, … Nước thải từ máy xeo giấy được tuần hoàn lại nhiều lần có thể dùng
cho bộ phận tạo hình hoặc dùng cho bộ phận chuẩn bị nguyên liệu cho máy

xeo hoặc có thể dùng gián tiếp qua bể lắng để thu hồi giấy và xơ sợi .
1.3.2. Đặc tính của nước thải công nghiệp giấy và bột giấy
Nước thải của các nhà máy sản xuất giấy và bột giấy nói chung, bao
gồm [13]:
- Phần dịch đen chủ yếu chứa các thành phần gây màu, các hợp chất
hữu cơ và kiềm dư.
- Phần dịch trắng (dịch tẩy và dịch xeo) chứa chủ yếu các thành phần
vô cơ và xơ sợi.
Cả dịch đen và dịch trắng sẽ có những thay đổi cụ thể về thành phần
hóa học, độ độc và khả năng gây ô nhiễm tùy thuộc vào lựa chọn công nghệ
xử lý để tách xơ sợi và tẩy trắng.
Nước thải giấy nhất là nước nấu có màu nâu đen rất đặc trưng và chứa
một lượng chất hữu cơ lớn, là điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật hoạt
động do đó nếu chưa được xử lý kịp thời sẽ gây ô nhiễm mạnh do màu, mùi
và các sản phẩm độc hại có sẵn hoặc được hình thành trong quá trình phân
hủy.
Trong phần dịch đen đáng chú ý nhất là các muối kiềm và kiềm tự do,
lignin dạng tan và không tan hemicellulose, … trong đó lignin chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng số các chất tan ra dung dịch trong quá trình nấu và ngâm
kiềm.



1.4.Các phương án xử lý nước thải trong công nghiệp giấy và bột
giấy
Nói chung nước thải trong sản xuất giấy có lẫn nhiều xơ sợi xenlulose,
nhiều chất rắn lơ lửng dạng bột, nhiều chất hữu cơ hòa tan ở dạng khó và dễ
phân hủy sinh học, các hóa chất dùng để tẩy và hợp chất hữu cơ của chúng.
Vấn đề ô nhiễm nước thải giấy phải được giải quyết đồng thời bằng việc lựa
chọn công nghệ thích hợp xử lý nước thải.

Các yếu tố gây ô nhiễm chính của nước thải giấy [13]:
-

Cặn lơ lửng (SS) do bột giấy, chất độn (như phẩm màu), cao lanh
gây nên là chính.

-

COD và BOD do các chất hữu cơ và bột giấy gây ra.

-

pH cao do kiềm dư gây ra.

-

Các thông số cảm quan (màu đen, đỏ, tím, bọt, mùi …) chủ yếu
do các dẫn xuất của lignin, nhựa thông, phẩm màu tạo thành.

Các phương pháp xử lý loại bỏ các chất ô nhiễm nước của ngành giấy
bao gồm lắng, đông keo tụ hóa học và phương pháp sinh học.
Phương pháp lắng: dùng để tách các chất rắn dạng bột hay xơ sợi,
trước hết từ công đoạn nghiền và xeo giấy. Với mục đích thu hồi lại xơ sợi,
bột giấy thì thường dùng thiết bị lắng hình phễu. Cần chọn thời gian lưu nước
trong bể được thích hợp, vì dài quá cặn lắng sẽ bị phân giải kị khí khi bùn
lắng không được lấy ra thường xuyên. Để nước thải loại này lắng được tốt và
các hạt liên kết với nhau tạo thành bông cặn dễ lắng, người ta thường tính
3

2


toán với trọng tải bề mặt từ 1 - 2 m / m /h (lưu lượng dòng thải tính cho một
đơn vị bề mặt lắng của bể trong một đơn vị thời gian). Để giảm thời gian lưu
trong bể lắng, nâng cao hiệu suất lắng người ta thổi khí nén vào bể lắng [13].
Phương pháp đông keo tụ hóa học: dùng để xử lý các hạt rắn ở dạng lơ
lửng, một phần chất hữu cơ hòa tan, hợp chất phốtpho, một số chất độc và



×