Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên mầm non module 15

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.64 KB, 14 trang )

NỘI DUNG 3– MN15:
ĐẶC ĐIỂM CỦA TRẺ CÓ NHU CẦU ĐẶC BIỆT
Thời gian học: Từ ngày 1/1 đến ngày 31/1/2016
Tự học 9 tiết; Tập trung: Lí thuyết 6 tiết, thực
hành 0 tiết
Tài liệu: Quyển tài liệu BDTX ND3 – MN15
“Đặc điểm trẻ có nhu câu đặc biệt”
1. KHÁI NIỆM TRẺ CÓ NHU CẦU ĐẶC BIỆT:
Trẻ được gọi là trẻ có nhu cầu đặc biệt là những trẻ em có
những trở ngại về thể lý khiến cho các em không có khả năng
tiếp thu một chương trình giáo dục như trẻ bình thường. trong
việc chăm sóc về mặt tâm lý, các em cũng đòi hỏi những biện
pháp, kỹ thuật mà chỉ có những người được đào tạo mới có khả
năng hướng dẫn. Trẻ cũng đòi hỏi ở cha mẹ các em những quan
điểm tích cực và hợp lý để có thể cùng với các nhà chuyên môn
xây dựng cho các em các chương trình giáo dục chuyên biệt.
Có 4 nhóm trẻ được xem là có nhu cầu đặc biệt là: các trẻ
khuyết tật về thể chất như trẻ bại liệt, khiếm thị, khiếm thinh;
trẻ có các khuyết tật về trí tuệ như trẻ chậm khôn, trẻ hội chứng
Down, trẻ Bại não …Nhóm thứ hai là trẻ năng khiếu, tài
năng…Nhóm thứ ba: trẻ có nguy cơ bỏ học…. Nhóm thứ tư: trẻ
dân tộc thiểu số.
2. PHÂN LOẠI TRẺ CÓ NHU CẦU ĐẶC BIỆT:
Gồm 4 loại:
- Trẻ khuyết tật
- Trẻ có năng khiếu, tài năng
- Trẻ có nguy cơ bỏ học
- Trẻ dân tộc thiểu số

1



3. ĐẶC ĐIỂM CỦA TRẺ CÓ NHU CẦU ĐẶC
BIỆT THEO TỪNG LOẠI:
NHÓM 1: TRẺ KHUYẾT TẬT
a. Khuyết tật trí tuệ:
Khuyết tật trí tuệ là:
Chức năng trí tuệ dưới mức độ trung bình: là chỉ số thông
minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc
nghiệm cá nhân. (Đối với trẻ nhỏ, người ta dựa vào các đánh
giá lâm sàng để xác định).
Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số
những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại
gia đình, kỹ năng xã hội/liên cá nhân, sử dụng các tiện ích trong
cộng đồng, tự định hướng, kỹ năng học đường chức năng, làm
việc, giải trí, sức khoẻ và độ an toàn.
Tật KTTT xuất hiện trước 18 tuổi.
b. Khuyết tật vận động:
- Khiếm thính
Trẻ nghe không rõ hoặc không nghe được đều là trẻ khiếm
thính,. Theo quy định của Tổ chức y tế Thế giới, thì nếu độ mật
thính lực trung bình từ 50 dB trở lên, hay nói một cách khác trẻ
không nghe được trọn vẹn câu nói( nói chuyện bìh thường) ở
khoảng cách 1m là trẻ khiếm thính. Nếu trẻ có độ mất thính lực
trung bình trên 80 dB, nghĩa là chỉ nghe được những tiếng động
mạnh, kề sát tai, thường những trường hợp này gọi là điếc, đi
kèm theo điếc là bị mất ngôn ngữ - câm.
Vị trí tổn thương:
Khiếm thính tiếp nhận: tổn thương tai ngoài và tai giữa.

2



Khiếm thính dẫn truyền: tổn thương tai trong
Khiếm thính hỗn hợp: tổn thương cả tai ngoài, tai giữa, tai
trong.
Khiếm thính trung ương: dây thần kinh số 8, tổn thương ở
não.
Cường độ âm thanh có thể nghe được.
Nghe kém nhẹ: Không nghe được tiếng nói thầm. Khó
nghe được tiếng nói ở những nơi ồn.
Nghe kém trung bình: Không nghe được tiếng nói thầm và
tiếng nói thường. Rất khó nghe được tiếng nói ở những nơi ồn
Nghe kém nặng: Không nghe được ngay cả tiếng nói lớn.
Các cuộc nói chuyện được thực hiện rất khó khăn với nhiều nỗ
lực.
Nghe kém sâu: Không nghe được ngay cả khi hét sát vào
tai. Nếu không sử dụng thiết bị trợ thính thì không thể giao tiếp.
- Khiếm thị
Đây là một tổn thương khá nặng nề, có hai dạng: Bẩm
sinh và hậu đắc. Trẻ mù bẩm sinh thường do một nguyên
nhân hết sức đơn giản, đó là do thiếu vitamin A. Điều này sẽ
dẫn đến tình trạng khô giác mạc nhưng cũng có thể do các
nguyên nhân khác:
- Do bệnh giang mai (của mẹ) hay nhiễm trùng bệnh lậu.
- Đục thủy tinh thể bẩm sinh
- Glôcom bẩm sinh (Bệnh cườm nước )
- Bệnh gai thị, thoái hóa sắc tố võng mạc

3



- Viêm màng bồ đào phôi thai.
- Teo nhãn cầu, không có nhãn cầu bẩm sinh.
- Cận thị nặng gây mù hay khuyết mi.
Trong trường hợp mù sau khi sinh thường do gặp tai nạn
hay bệnh tật dẫn tới mù:: Bị pháo, chất nổ, cháy ... hay nhuyễn
giác mạc.
Hiện nay, việc giáo dục các trẻ mù đã hình thành ở nhiều
tỉnh thành và hoạt động khá hiệu quả, tuy nhiên phụ huynh các
em cũng nên biết những biện pháp chăm sóc các em ngay từ
nhỏ để khi bước vào trường học, các em sẽ dễ dàng tiếp thu
những kiến thức và có khả năng hòa nhập tốt hơn:
Tạo sự cảm nhận từ các giác quan:
Các giác quan : Nghe - tiếp xúc - nếm - ngửi cần phải
được tạo nhiều cơ hội hoạt động , hãy kích thích động viên và
hướng dẫn cho trẻ xử dụng tất cả các bộ phận để cảm nhận
được tối đa các thông tin của môi trường xung quanh.
Cung cấp các thông tin:
Trẻ cần nhận biết và giải thích một cách đầy đủ với sự
kiên nhẫn mọi thông tin. Trẻ cần nghe và cảm nhận được về
hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu, trọng lượng của các
đồ dùng trong nhà. hãy nói cho trẻ biết mình đang làm gì và
giải thích về những tiếng động mà trẻ nghe được. Nếu không,
chúng sẽ không còn thói quen lắng nghe và không còn quan tâm
gì đến những việc xung quanh nữa.
Gia tăng việc vận động :
Thường thì trẻ khiếm thị chỉ di chuyển khi cần thiết chỉ vì
sợ bị va chạm và cha mẹ cũng không khuyến khích, điều đó sẽ
dẫn đến sự thụ động và những khó khăn trong việc phát triển.
Chúng ta cần kích thích sự vận động , hãy cho trẻ ngồi vào

trong lòng mình để trẻ có thể lắng nghe cuộc đối thoại. Khi nói

4


chuyện với trẻ nên nắm lấy hai tay của trẻ , thỉnh thoảng nên
nâng trẻ đứng dậy rồi lại đặt trẻ ngồi xuống.
Khi di chuyển, trẻ sợ nhất là sự va vấp các đồ dùng. Do đó
cần phải sắp xếp các đồ dùng trong nhà một cách gọn ghẽ và ổn
định. Khi thay thay đổi sự xếp đặt nên báo trước và chỉ cho trẻ
biết vị trí mới của món đồ. ta có thể để một ít món đồ chơi, đồ
nhựa trên sàn nhà để trẻ khám phá ra chúng.
Trẻ rất cần những điểm tựa, bước đầu nên cho trẻ đi dọc
theo bờ tường và có những cột mốc như cái bàn, cái tủ ... sau đó
hãy tập cho trẻ mạnh dạn định hướng và di chuyển từ nơi xuất
phát là cái giường đi về mọi hướng trong nhà.
Nên có những cột mốc bằng âm thanh như chiếc đồng hồ
treo, đồng hồ để bàn, máy thu băng- radio, chiếc TV ... và đặt ở
những nơi cố định.
Kích thích khả năng tiếp xúc :
Trẻ em tiếp xúc với thế giới bên ngoài thông qua đồ chơi
và trò chơi, đối với trẻ khiếm thị không chỉ là những món đồ
chơi, ngay cả những vật dụng thông thường cũng có thể là
những đồ chơi, và đó là niềm vui cho trẻ. Có thể với những
món đồ chơi mới, trẻ sẽ sợ hãi hơn là vui thích, vì thế nên cho
trẻ làm quen từ từ, vì đó là một khám phá. Phải kiên trì và nếu
trẻ vẫn tỏ ra e dè thì nên cất đi và chờ một dịp khác .
Hãy cho trẻ những món đồ chơi to bằng nhựa cứng hay gỗ
mà trẻ có thể ngồi lên và đẩy đi như một tấm ván bọc nệm có
gắn bánh xe ...

Một trong những nhu cầu của trẻ là được tiếp xúc với
thiên nhiên , hãy tạo nhiều cơ hội cho trẻ đi chơi và vận động ở
ngoài sân, công viên hay vùng quê ... cho trẻ đi chân trần để nó
cảm nhận được những cảm giác tiếp xúc khác nhau , những

5


hoạt động này giúp trẻ làm quen với những trẻ khác và vui chơi
trong một nhóm bạn bè.
Quan tâm đến Sự an toàn:
Một yếu tố mà chúng ta phải luôn luôn chú ý là giữ cho trẻ
một sự an toàn, cảm giác bố mẹ lúc nào cũng ở bên trẻ bằng
những lời nói và âm thanh sẽ giúp cho trẻ có được sự ổn định.
Trẻ rất cần sự hoạt động, hãy tạo mọi cơ hội cho trẻ vận
động ngoài trời, ngồi xích đu, bập bênh, chơi nghịch trên cát ...
chính những hoạt động này giúp trẻ làm quen với những trẻ
khác và thật thích thú khi có thể vui chơi trong một nhóm bạn
bè.
Tuy nhiên, cần lưu ý là các khu vui chơi cần phải có một
hàng rào đơn giản và chắc chắn để ta an tâm và trẻ sẽ cảm nhận
được phạm vi khu vực chơi của chúng, điều này cũng giúp cho
trẻ ổn định hơn.
Trên đây chỉ là những lời khuyên có tính gợi ý, trong việc
chăm sóc trẻ khiếm thị chắc chắn sẽ còn có những khó khăn
làm nẩy sinh ra những giải pháp khác, nhưng nói chung mục
tiêu của mọi hoạt động đều giống nhau là giúp cho trẻ ý thức
được những năng lực của bản thân và biết cách phát triển
chúng và giúp chúng nhận ra được một điều là lúc nào chúng
cũng có chúng ta ở bên cạnh để không rơi vào những rối nhiễu

tâm lý do tâm lý lo sợ và u sầu.
- Rối loạn phổ tự kỷ
Hội chứng rối loạn tử kỷ là một dạng hội chứng bệnh rối
loạn về sự phát triển thường gặp ở trẻ em theo thể dạng rối loạn
phát triển lan tỏa thuộc phổ nhẹ và có khả năng cao nhất dẫn
đến chứng tự kỷ. Bệnh này biểu hiện phổ biến ở các bé trai với
tỷ lệ bé trai mắc bệnh cao gấp ba lần so với bé gái.

6


- Những trẻ em bị mắc chứng rối loạn tự kỷ này sẽ gặp bất
lợi trong cuộc sống do thiếu nhiều kỹ năng sống và kỹ năng
giao tiếp xã hội, tuy vậy, một số trẻ bị bệnh này lại có những lợi
thế về khả năng và tố chất đối với toán học, kỹ thuật và tin học
- Khó khăn về giao tiếp, ngôn ngữ và lời nói
Là những trẻ có biểu hiện sai lệc của các yếu tố ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp so với ngôn ngữ chuẩn khi sử dụng trong
giao tiếp hàng ngày làm ảnh hưởng đến giao tiếp hoặc khiến
cho cả người nói và người nghe cảm thấy khó chịu
- Khó khăn về sức khỏe
Trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS: bao gồm trẻ nhiễm HIV
và trẻ có nguy cơ cao nhiễm HIV/AIDS bị gây ra do virut suy
giam miễn dịch ở người (HIV). HIV tham gia phá hủy hệ thống
miễn dịch tự nhiên, làm cho tre rất dễ bị mắc phải các loại bệnh
viêm nhiễm hay nguy cơ.

NHÓM 2: TRẺ NĂNG KHIẾU TÀI NĂNG
Nhóm trẻ này còn có tên khác là thần đồng, trẻ thông
minh đặc biệt hay những trẻ phát triển sớm

Trẻ năng khiếu có những khả năng nổi trội về một số
lĩnh vực như nghệ thuật, âm nhạc, hội họa hay khả năng lãnh
đạo xuất chúng…
Trẻ tài năng hay còn gọi là trẻ thông minh đặc biệt là
những trẻ có chỉ số thông minh vượt trội khi so sánh với những
trẻ khác cùng độ tuổi

NHÓM 3: TRẺ CÓ NGUY CƠ BỎ HỌC
Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT cho biết, mỗi năm ở Việt Nam
có hơn 200.000 trẻ em phải bỏ học vì nhiều lý do khác nhau.

7


Điều này phù hợp với nghiên cứu “Nguyên nhân bỏ học của trẻ
em Việt Nam”, do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bộ
GD&ĐT, Hội Liên hiệp thanh niên và UNICEF vừa tiến hành.
Theo đó, ở Việt Nam hiện nay có tới 24% thanh niên được điều
tra đã bỏ học khi chưa đến 15 tuổi, tỉ lệ bỏ học từ lớp 1-5 là
12%, lớp 6-8 là 21%. Và chỉ có 46,3% thanh niên Việt Nam
được đi học trung học.
Nhìn chung trẻ em bỏ học có rất nhiều nguyên nhân, có thể là
do điều kiện khách quan của kinh tế - xã hội ở địa phương và
các phụ huynh ở các gia đình cũng có các khó khăn về kinh tế.
Thông thường các em bỏ học là những gia đình vất vả về kinh
tế, nên nhận thức của họ cũng bị hạn chế.
Do chương trình giảng dạy chưa phù hợp dẫn tới tình trạng học
sinh tiếp thu kém, khiến các em không theo kịp chương trình,
khi không tiếp thu được bài vở và học lực kém, thì các em chán
nản và không muốn đi học.

Cách giảng dạy tẻ nhạt
Chất lượng dạy học và cách giảng dạy của giáo viên hiện nay tẻ
nhạt, thiếu hấp dẫn và sáng tạo cũng là một trong những nguyên
nhân không giữ được học sinh gắn bó với trường. Nội dung
giáo dục, bao gồm chương trình và cách dạy, cũng như chương
trình hiện nay với trẻ nhỏ thì cứng nhắc, với lớp lớn hơn thì vừa
khô khan vừa vô bổ.
Ở các vùng núi, điều kiện tự nhiên nhiều sông suối, nhưng giao
thông không tốt khiến các em học sinh phải chui vào bao nylon,
đu dây… để vượt suối cũng là những nguyên nhân.
Các chuyên gia về giáo dục đều có chung một nhận định rằng,
nếu để tình trạng bỏ học gia tăng, mà không có sự quan tâm tích

8


cực của nhà nước thì sẽ đưa đến những hậu quả không tốt cho
sự phát triển của xã hội.

NHÓM 4: TRẺ DÂN TỘC THIỂU SỐ
Theo thống kê của Bộ GD - ÐT, mặc dù các xã trong cả
nước đã được "xóa trắng" về GDMN, tỷ lệ trẻ mầm non thuộc
các dân tộc đến trường trong năm năm gần đây đều tăng. Năm
học 2006 - 2007 cả nước có hơn 44 nghìn trẻ dân tộc thiểu số
đến nhà trẻ, gần 390 nghìn trẻ dân tộc thiểu số đến mẫu giáo,
trong đó có gần 100 nghìn trẻ đến lớp năm tuổi.
Tuy vậy, cả nước vẫn còn hơn 1.600 xã chưa có trường mầm
non (chỉ có lớp mẫu giáo độc lập hoặc gắn với trường tiểu học),
còn nhiều thôn, bản ở cách xa trung tâm xã vẫn chưa có lớp
mẫu giáo. Do vậy việc thu hút trẻ đi học ở những vùng dân tộc

thiểu số thường gặp nhiều khó khăn. Hiện, chi phí đầu tư cho
bậc tiểu học chiếm tỷ lệ cao nhất: 27,32%, bậc trung học cơ sở:
23,5%, đại học: 15,7%, nhưng chi phí đầu tư cho bậc mầm non
chỉ chiếm 4,5%. Với mức đầu tư "khiêm tốn" như vậy, cho nên
cơ sở vật chất trường lớp chưa thể đáp ứng được nhu cầu đến
lớp của trẻ từ 3 đến 5 tuổi.
Theo Bộ GD-ÐT, từ nay đến năm 2015, cần đầu tư xây dựng
thêm 8.200 phòng học mới đáp ứng được nhu cầu đến lớp của
trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, thực trạng thiếu giáo
viên cũng là một trong những nguyên nhân khiến chất lượng
GDMN còn nhiều điểm yếu kém. Theo lộ trình phát triển bậc
học giáo dục mầm non đến năm 2010, cả nước còn thiếu
khoảng gần 20 nghìn giáo viên; nhất là ở vùng sâu, vùng xa,
miền núi và hải đảo. Cơ cấu đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý bậc mầm non còn bộc lộ nhiều vấn đề bất hợp lý cả về trình

9


độ và phân bố giáo viên cho các vùng. Khoảng một phần ba số
giáo viên còn ở trình độ dưới chuẩn, chưa đáp ứng kịp yêu cầu
đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Bất đồng ngôn ngữ, nguyên nhân dẫn đến bỏ học
Việc có nhiều dân tộc thiểu số học xen kẽ trong một lớp mẫu
giáo cũng là một trong nhiều yếu tố gây khó khăn cho giáo viên
trong việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của trẻ để giao tiếp với trẻ. Trên
thực tế, giáo viên không thể nói được tất cả các thứ tiếng mẹ đẻ
mà trẻ nói. Với điều kiện như vậy, nhiều giáo viên đã buộc phải
lựa chọn thứ tiếng có nhiều trẻ nói trong lớp, để sử dụng giao
tiếp với trẻ. Và như vậy những trẻ thuộc các dân tộc thiểu số

khác luôn gặp khó khăn trong việc giao tiếp, học tập.
Vụ trưởng Giáo dục Mầm non (Bộ GD-ÐT) Lê Thị Ánh Tuyết,
cho biết: Hiện nay, tình trạng lưu ban, bỏ học xảy ra khá phổ
biến đối với học sinh các cấp, nhất là học sinh cấp tiểu học
vùng dân tộc thiểu số. Một trong những nguyên nhân dẫn đến
thực trạng này là do trước khi bước vào lớp 1, các em không
được trang bị đầy đủ kiến thức về tiếng phổ thông, do vậy vốn
tiếng phổ thông của trẻ em dân tộc thiểu số thường bị hạn chế.
Bất đồng ngôn ngữ đã khiến nhiều trẻ em dân tộc thiểu số
không theo kịp chương trình đào tạo, kết quả học tập không như
mong đợi, do vậy có nhiều em bị lưu ban, bỏ học giữa chừng.
Vụ trưởng Lê Thị Ánh Tuyết nhấn mạnh: Thực tế đã chứng
minh rằng nếu trẻ em được đi học mẫu giáo (dù chỉ một năm ở
lớp 5 tuổi theo chương trình 26 tuần cho miền núi) thì vốn tiếng
phổ thông cũng đủ để bảo đảm cho trẻ theo học ở lớp 1 đạt kết
quả tốt hơn. Còn nếu được học tiếng thứ hai bằng phương pháp
phù hợp lứa tuổi ngôn ngữ của trẻ, chắc chắn sẽ giúp trẻ phát
triển một cách tốt nhất. Việc dạy cho trẻ từ tuổi mầm non là một
yêu cầu mang tính giáo dục và xã hội cấp bách, nhằm bảo đảm

10


cho việc phổ cập giáo dục không chỉ ở cấp tiểu học mà còn ở cả
cấp trung học cơ sở đạt kết quả tốt.
Tiếng mẹ đẻ của trẻ được coi là một lợi thế
Ðể đạt được mục tiêu thúc đẩy tiềm năng phát triển toàn
diện ở trẻ, tạo bước đệm vững chắc cho trẻ em đi học và học tốt
ở trường phổ thông, tiếng mẹ đẻ của trẻ phải được coi là một lợi
thế. Khi nói thạo tiếng mẹ đẻ, trẻ sẽ biết tư duy bằng tiếng mẹ

đẻ. Trẻ học tiếng thứ hai nhanh hơn và tốt hơn nếu tiếng mẹ đẻ
có chỗ đứng và được đánh giá cao.
Bên cạnh đó, các bộ, ngành trung ương, UBND các địa phương
cần có cơ chế phối hợp, phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể
trong việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách về phát triển
giáo dục mầm non, chính sách đối với gia đình có con trong độ
tuổi mầm non. Tăng cường đào tạo giáo viên mầm non là người
dân tộc thiểu số. Ðối với giáo viên mầm non là người Kinh, cần
trang bị vốn ngôn ngữ dân tộc thiểu số để họ có thể tiếp cận trẻ
em, với cộng đồng một cách thuận lợi. Bộ GD-ÐT cần phối hợp
các địa phương xây dựng tiếng dân tộc thiểu số cho giáo viên
mầm non và xây dựng dự án/chương trình quốc gia về giáo dục
mầm non từ nay đến năm 2015, trong đó chú trọng đối tượng
trẻ em dân tộc thiểu số và các nhóm trẻ thiệt thòi

4. CÁCH PHÁT HIỆN TRẺ CÓ NHU CẦU ĐẶC
BIỆT:
1.Đảm bảo rằng trẻ đã được kiểm tra thính lực
2.Thu hút sự chú ý của trẻ đến những điểm cốt lõi trong giao
tiếp thông qua thính giác ( Ví dụ: lập lại những điểm quan
trọng, gọi trẻ bằng tên, nói cho trẻ biết thông tin nào đặc biệt
quan trọng…)

11


3.Cung cấp cho trẻ nhiều hướng dẫn , giải thích …hơn là chỉ
một lần trước khi yêu cầu trẻ nhớ lại
4.Khi trẻ cần nhớ lại thông tin, cung cấp các gợi ý thính giác
nhằm giúp trẻ nhớ lại thông tin trước đây đã được trình bày ( Ví

dụ: Hãy nhớ lại ngày hôm qua cô nói về….)
5.Cung cấp thông tin thị giác nhằm trợ giúp thông tin trẻ nhận
qua thính giác ( Vừa nói cho trẻ nghe vừa chỉ cho trẻ thấy)
6.Dạy trẻ học thứ tự trước sau ( chuỗi) và bảng liệt kê những
thông tin theo từng đoạn ( Ví dụ: Nhớ số điện thoại theo cách:
314 rồi 874 rồi 1710)
7.Để cho trẻ theo hướng dẫn bằng lời nói bước 1, bước 2, bước
3
8.Cung cấp cho trẻ những hướng dẫn bằng lời nói, các luật lệ,
các danh sách… Khen thưởng khi trẻ nhớ lại được thông tin đã
được trình bày bằng lời nói
9.Viết ra những câu chuyện, các hướng dẫn… để giúp trẻ có thể
nghe khi trẻ đọc lớn thông tin này
10.Nói với trẻ điều gì trẻ sẽ được nghe trước khi thực hiện
thông tin qua thính giác
11.Nhờ trẻ mang thông tin bằng lời nói cho người khác trong
cùng gia đình
12. Đảm bảo chắc rằng thông tin thính giác được trình bày
chậm rãi đủ để cho trẻ biết được trẻ đang giao tiếp điều gì

12


13.Sử dụng hình ảnh, sơ đồ, bảng viết và cử chỉ khi truyền đạt
thông tin
14.Trong khi đọc truyện cho trẻ nghe, dừng lại đôi chút để hỏi
trẻ các câu hỏi về nhân vật chính, các sự kiện trong câu chuyện
15.Để cho trẻ giả vờ làm người phục vụ. Để cho trẻ nhớ lại
khách hàng đã kêu món gì
16.Để cho trẻ giải thích các hướng dẫn ngay sau khi trẻ nghe

được
17. Sử dụng càng nhiều thông tin thị giác nếu có thể khi dạy trẻ
( Ví dụ: bảng viết, máy chiếu, tranh ảnh…)
18.Để cho trẻ ghi âm những hướng dẫn, giải thích nhằm giúp
trẻ có thể nghe lại thông tin cần thiết
19.Sử dụng các câu đơn giản, ngắn gọn dễ hiểu để truyền đạt
thông tin cho trẻ
20.Để trẻ nhớ lại tên của bạn bè, ngày trong tuần, tháng trong
năm, địa chỉ và số điện thoại…
21.Sau khi nghe xong một băng đĩa, câu chuyện…để trẻ nhớ lại
nhân vật , sự kiện chính, thứ tự các sự kiện…
22.Giảm đi các kích thích gây xao nhãng ( Ví dụ : tiếng ồn và di
chuyển)
23. Sử dụng nhiều phương thức ( Ví dụ: thính giác, thị giác, xúc
giác…) khi trình bày các hướng dẫn, giải thích. Xác định
phương thức nào là mạnh nhất đối với trẻ và sử dụng kết quả đó

13


24. Đảm bảo chắc rằng trẻ có chú ý đến nguồn thông tin ( Ví dụ
như giao tiếp mắt được thực hiện, trẻ nhìn vào điều bạn muốn
trẻ làm…)
25. Dừng lại đôi lúc trong khi trình bày thông tin nhằm kiểm tra
xem trẻ có hiểu không
26. Đảm bảo chắc chắn rằng trẻ có đủ cơ hội để lập lại thông tin
qua những kinh nghiệm khác nhau nhằm để gia tăng trí nhớ
27.Cung cấp thông tin thị giác ( Ví dụ : viết hướng dẫn ra)
nhằm hổ trợ thông tin nhận vào qua thính giác
28. Đảm bảo chắc chắn rằng tất cả các hướng dẫn , câu hỏi, giải

thích đều được thực hiện theo cách thức rõ ràng và dễ hiểu nhất
và phù hợp với khả năng của trẻ
29. Khi truyền đạt hướng dẫn, giải thích và các thông tin khác,
đảm bảo chắc chắn rằng việc sử dụng các từ ngữ viết phải phù
hợp với mức độ hiểu biết của trẻ
30.Đánh giá sự thích hợp của nhiệm vụ nhằm xác định: a) Nếu
nhiệm vụ quá khó ( Ví dụ: quá nhiều thông tin để nhớ) hoặc b)
Nếu thời gian cần thiết để trẻ nhớ lại không phù hợp ( Ví dụ:
trình bày thông tin quá ngắn hoặc thời gian giữa trình bày và
lúc yêu cầu trẻ nhớ lại quá lâu)
31. Khen thưởng trẻ khi trẻ nhớ được thông tin qua thính giác :
a) Cho trẻ phần thưởng cụ thể, rõ ràng ( Ví dụ: được ưu tiên đặc
biệt, người đứng sắp hàng, 5 phútt giải lao…) hoặc b) Cho trẻ
những phần thưởng không cụ thể như khen ngợi trẻ, bắt tay,
mỉm cười./.

14



×