Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận cao học Tư tưởng ngoại giao hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.04 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, Quân đội nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hồ Chí Minh
còn là nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
được UNESCO suy tôn là anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn
hóa kiệt xuất của Việt Nam.
Với cương vị là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác đã luôn
quan tâm chỉ đạo công tác đối ngoại nhằm phát huy nội lực của dân tộc, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của nhân
dân tiến bộ và bạn bè các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước.
Với các cương vị trong nước và hoạt động vô cùng phong phú của
mình, Hồ Chí Minh tiếp cận thực tiễn Việt Nam và thế giới, phát triển và đề
xuất nhiều nguyên lý, quan điểm, luận điểm về thời đại, về đường lối quốc
tế, chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam. Trong hệ thống quan điểm
tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao thì mặt trận ngoại giao là điểm nổi
bật, đặc sắc, thể hiện rất rõ thiên tài ngoại giao của Hồ Chí Minh.
Đặc biệt trong tình hình hiện nay, gắn với vụ việc làm chấn động dư
luận quốc tế ngày 02/5/2014, Trung Quốc đã đưa giàn khoan nước sâu Hải
Dương-981 cùng nhiều tàu vũ trang, tàu và máy bay quân sự hộ tống đi vào
vùng biển Việt Nam, hạ đặt trái phép giàn khoan này tại vị trí nằm hoàn
toàn bên trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được
xác định theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Việc
quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Hồ Chí Minh được nêu cao hơn lúc
nào hết. Tiểu luận tập trung làm rõ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
mặt trận ngoại giao giải quyết tranh chấp trên biển Đông.

1


Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MẶT TRẬN


NGOẠI GIAO
Trong sự nghiệp tồn tại và phát triển của một đất nước, ngoại giao
đóng vai trò rất quan trọng. Cách mạng Việt nam gặp muôn vàn khó khăn
nên vai trò của ngoại giao càng quan trọng. Để tạo dựng và dẫn dắt nền
ngoại giao non trẻ, nhà ngoại giao thiên tài Hồ Chí Minh đã xây dựng hệ
thống quan điểm toàn diện về mặt trận ngoại giao.
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của công tác
ngoại giao:
* Về vai trò của công tác ngoại giao: Trong nhận thức của Hồ Chí
Minh, ngoại giao – cuộc đấu tranh bằng biện pháp hòa bình để bảo vệ lợi
ích dân tộc là một lĩnh vực hoạt động rất quan trọng.
Không ít lần Hồ Chí Minh thể hiện sự đánh giá cao vai trò của ngoại
giao bằng những phát ngôn trực tiếp về nó. Sự đề cao vai trò của công tác
ngoại giao được Hồ Chí Minh thể hiện không chỉ bằng lời nói mà còn bằng
cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm bảo vệ chủ quyền ngoại giao dân tộc.
Trong mọi chặng đường cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đưa hoạt động
ngoại giao vào “tổng lộ trình” đấu tranh cách mạng.
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí của ngoại giao:
Dù đánh giá rất cao vai trò của ngoại giao nhưng Hồ Chí Minh không
bao giờ cho rằng ngoại giao đóng vai trò độc tôn mà ngược lại, nó phải
liên kết chặt chẽ với các hoạt động chính trị, quân sự...Trong sự nghiệp
cách mạng, ngoại giao là một trong ba mặt trận đấu tranh cơ bản và các
hoạt động ngoại giao, chính trị, quân sự luôn bổ trợ mạnh mẽ cho nhau.
Đề cao vai trò của ngoại giao nhưng Hồ Chí Minh luôn cho rằng, ngoại
giao chỉ phát huy vai trò và công dụng trên cơ sở thực lực dân tộc, trên
nền tảng sức mạnh tổng hợp của đất nước từ mọi phương diện: kinh tế,
chính trị, quân sự...Người viết: “Nếu tự mình không có thực lực làm cơ sở
thì không thể nói gì đến ngoại giao” Người còn ví: “Thực lực như cái
chiêng, ngoại giao như tiếng chiêng, chiêng có to tiếng mới lớn” Mặt khác,
2



thắng lợi trên mặt trận ngoại giao sẽ tạo tiền đề để tăng cường thực lực
cách mạng, tạo “thế” cho đất nước trong quan hệ chính trị quốc tế.
Như vậy, Hồ Chí Minh chỉ rõ tầm quan trọng của công tác ngoại giao
và mối quan hệ giữa ngoại giao và các mặt trận khác, phân tích sự phụ
thuộc của ngoại giao vào thực lực dân tộc và tính chủ động tương đối của
công tác ngoại giao trong những thời điểm cụ thể.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về hình thức ngoại giao nhân dân
và ngoại giao đa phương.
Do yêu cầu của thực tiễn cách mạng và điều kiện lịch sử, Hồ Chí
Minh không chỉ nâng những phương pháp ngoại giao truyền thống như tâm
công, kết hợp vừa đánh vừa đàm lên một tầm cao mới mà còn sử dụng một
cách hiệu quả, sáng tạo một số hình thức ngoại giao mới như ngoại giao
nhân dân, ngoại giao đa phương...
a. Ngoại giao nhân dân:
Về khái niệm ngoại giao nhân dân: Đến thời kỳ cận - hiện đại, ngoại
giao nhân dân mới xuất hiện để bổ trợ cho ngoại giao nhà nước. Ngoại
giao nhà nước là hoạt động ngoại giao giữa các chính phủ, các nhà lãnh đạo
của các quốc gia có chủ quyền thông qua cơ quan đại diện là các đại sứ
quán, các lãnh sự quán . Ngoại giao nhân dân là hình thức hoạt động ngoại
giao do các tổ chức, các đoàn thể hoặc cá nhân thuộc tiến hành và không
mang tính chất chính thức của Chính phủ.
Hồ Chí Minh đẩy mạnh hình thức ngoại giao nhân dân vì Người
tiếp thu truyền thống thân dân của dân tộc và quan điểm cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng của chủ nghĩa Mác Lênin; Người nhận ra những lợi
thế to lớn của nó.
Thứ nhất, nó có thế mạnh của lực lượng đông đảo là toàn dân.
Thứ hai: Nó có thế mạnh của sự linh hoạt khi có thể tiến hành trước
ở những khu vực mà ngoại giao chính thức của nhà nước chưa có điều kiện

triển khai.
Thứ ba: Có thể giải quyết trước những vấn đề mà ngoại giao chính
thức của các nhà nước vẫn còn đang mắc mớ.

3


Với Hồ Chí Minh, tính nhân dân của phương thức ngoại giao này thể
hiện ở nhiều góc độ
Lực lượng tiến hành là đông đảo nhân dân.
Đối tượng hướng tới là nhân dân các nước khác, đặc biệt nhân dân
các nước đối phương trên cơ sở phân biệt rõ ràng nhân dân và chính phủ
hiếu chiến.
Mục tiêu đấu tranh – vì quyền lợi chân chính của nhân dân Việt nam
và cũng là lợi ích chân chính của nhân dân thế giới.
Việc đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhân dân trên thực tế:
Thực hiện chủ trương đó, ngay sau cách mạng Tháng Tám, Người đã
chỉ đạo thành lập Ban quốc tế nhân dân và các Hội hữu nghị.
Năm 1948, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc tổ chức một đoàn gồm 10 cán
bộ được tuyển chọn từ các ngành dân, chính, Đảng ra nước ngoài để tuyên
truyền về cuộc kháng chiến và tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2/1951), Đảng ta đề ra nhiệm
vụ phải “phát triển ngoại giao nhân dân rộng rãi”.
Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp và trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, ngoại giao nhân dân đã có bước tiến vượt bậc.
Thực sự, nhân dân đã trở thành một lực lượng, một binh chủng quan trọng
trên mặt trận ngoại giao và ngoại giao nhân dân đã trở thành một kênh
hữu hiệu trong cuộc đấu tranh vì quyền lợi chính đáng của dân tộc và nhâ
b. Ngoại giao đa phương:
* Khái niệm ngoại giao đa phương:

Cùng với sự phát triển của văn minh chính trị, văn minh ngoại giao,
từ thế kỷ thứ XVII ngoại giao đa phương ra đời.
Đó là hình thức ngoại giao có sự tham gia của nhiều chủ thể để bổ
sung cho hình thức ngoại giao song phương truyền thống.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về ngoại giao đa phương:
Lý do Hồ Chí Minh sử dụng hình thức ngoại giao đa phương:
Do mối liên hệ khách quan giữa các quốc gia dân tộc.
Xuất phát từ tinh thần hòa hiếu, từ “mong muốn là bạn của tất cả các
nước dân chủ và quyết không gây thù oán với một ai”.
Người còn nhận ra lợi thế to lớn của phương thức ngoại giao này.
Thứ nhất: Tạo cơ hội để nhiều đối tác cùng tham gia giải quyết những
4


vấn đề mà không một quốc gia đơn lẻ nào đủ sức thực hiện.
Thứ hai: Nhanh chóng thiết lập quan hệ với nhiều quốc gia, nhiều tổ
chức quốc tế và qua đó có thể tranh thủ dư luận và sự ủng hộ của nhiều lực
lượng trên quy mô quốc tế.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương pháp đàm phán đa phương:
Tìm ra điểm tương đồng trong lợi ích, quan điểm của các chủ thể
ngoại giao.
Tôn trọng điểm dị biệt, dung hòa lợi ích.
Đàm phán theo cách “dễ trước, khó sau”.
Sự thực hiện hình thức ngoại giao đa phương của Hồ Chí Minh trên
thực tiễn: Hồ Chí Minh sớm ý thức phải sử dụng hình thức ngoại giao đa
phương trong cuộc đấu tranh vì quyền lợi dân tộc.
Bản yêu sách gửi Hội nghị Véc xay.
Bản Tuyên ngôn độc lập là văn kiện ngoại giao đa phương đầu tiên
của nước Việt nam mới hướng tới toàn nhân loại.
Hồ Chí Minh đã gửi thư đến Liên hiệp quốc - tổ chức quốc tế đa

phương lớn nhất hành tinh với đè nghị được ra nhập nó.
Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Việt nam có quan hệ với phong
trào quốc tế khác như Phong trào không kiên kết và tích cực tham gia các
cuộc đàm phán quốc tế như Giơnevơ về Đông Dương năm 1954, Hội nghị
Giơnevơ về Lào (1961-1962), Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân
quốc tế trong các năm 1957, 1960...
Xây dựng một nền ngoại giao đa phương trên tinh thần hòa hiếu và
sử dụng diễn đàn ngoại giao đa phương làm công cụ hữu hiệu để bảo vệ
quyền lợi dân tộc là một bước tiến lớn của Hồ Chí Minh trong việc kế thừa
và phát triển di sản tư tưởng ngoại giao của ông cha ta.
Sự phong phú và tính hiệu quả các hình thức ngoại giao mới mẻ đã thể
hiện khả năng tiếp nhận cái mới và khả năng hiện thực hóa tư tưởng của
nhà ngoại giao thiên tài Hồ Chí Minh.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các phương hướng ngoại giao
chủ đạo: các nước lớn, các nước láng giềng và các nước XHCN
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương hướng ngoại giao:
Ngày 3/10/1945 Hồ Chí Minh cùng bộ tham mưu cách mạng đã công
bố “Chính sách ngoại giao của Cộng hòa dân chủ Việt nam”, trong đó xác
5


định các hướng ngoại giao cơ bản của VNDCCH như sau:
Với các nước lớn trong khối Đồng minh là “thành thực cộng tác trên
lập trường bình đẳng”,
Với các nước láng giềng là “sẵn sàng thân thiện, hợp tác chặt chẽ
trên nguyên tắc bình đẳng, để ủng hộ lẫn nhau trong sự xây đắp và giữ
vững nền độc lập”...
Sau chiến tranh thế giới lần II, với tầm nhìn sâu rộng, Hồ Chí Minh
đã bổ sung thêm một hướng ngoại giao mới hết sức quan trọng là các nước
XHCN anh em.

3 hướng ngoại giao - với các nước lớn, các nước láng giềng và các
nước XHCN đã trở thành trọng tâm, trọng điểm của nền ngoại giao cách
mạng rộng mở.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị thế của các nước lớn và việc thiết
lập, duy trì quan hệ hữu hảo với các nước lớn:
Về vị thế của các nước lớn:
Hồ Chí Minh nhận ra vai trò quan trọng của các nước lớn.
Trước hết, các nước lớn đóng vai trò quan trọng đối với vấn đề chiến
tranh và hòa bình.
Thứ hai: Với những ưu thế vượt trội về sức mạnh, nhất là sức mạnh về
kinh tế và quân sự, các nước lớn xây dựng ra các thể chế quốc tế nhằm thể
hiện vị trí “nhà cái” của mình, bảo vệ tối đa quyền lợi của mình.
Thứ ba: Với tiềm lực lớn mạnh của mình, các nước lớn có khả năng
lôi kéo các nước nhỏ vào những tình huống có lợi cho họ.
Thứ tư: Sự duy lợi trong quan hệ quốc tế khi tất cả các nước trên thế
giới đều muốn có quan hệ hữu hảo với các nước lớn và Việt nam cũng
không ngoại lệ. Tìm ra thế đứng an toàn cho dân tộc là cách ứng xử khôn
ngoan.
Với tầm nhìn vượt trội so với cha ông, Hồ Chí Minh đã nhìn ra các
nước lớn, các trung tâm lớn khác ngoài Trung Quốc và Nhật Bản...
Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ với các nước lớn:
Thứ nhất: Việc hoạch định quan hệ với từng nước lớn phải được xem
xét trong mối quan hệ tổng thể và cục diện quan hệ giữa họ với nhau.
Thứ hai: Vì lý do nào đó mà xảy ra xung đột giữa nước ta với các
nước lớn thì phải dùng nghệ thuật biết thắng từng bước.
6


Thứ ba: Quan hệ giữa các nước lớn luôn mang tính đấu tranh và thỏa
hiệp với nhau cho dù điều đó có bất lợi cho nước nhỏ. Vì thế, Việt nam

phải khai thác các mối quan hệ tùy thuộc, ràng buộc nhau giữa các nước
lớn để hạn chế những bất lợi do sự thỏa hiệp giữa họ mang lại.
Thứ tư: Phương châm xử lý quan hệ với các nước lớn là “dàn xếp
sao cho đại sự thành tiểu sự và tiểu sự thì thành vô sự”
Với nước lớn đã từng là cựu thù như Pháp, Mỹ thì Hồ Chí Minh
không bỏ lỡ cơ hội nào để hòa giải trên tinh thần “khép lại quá khứ, hướng
tới tương lai”.
Với các nước lớn đồng minh như Liên xô và Trung quốc đang rơi vào
mâu thuẫn trầm trọng thì giữ thế trung dung, không “nhất biên đảo”,
không coi “sự bất đồng là chuyện lạ” không đổ dầu vào lửa mà bình tĩnh
tìm cách gắn kết họ trên tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.
Thứ năm: Khi quan hệ với các nước lớn luôn phải phát huy tinh thần
độc lập tự chủ.
Những quan điểm chỉ đạo đúng đắn đó đã trở thành kim chỉ nam để
nền ngoại giao cách mạng non trẻ của Việt nam vững vàng ra biển lớn.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây đắp quan hệ hữu nghị với các
quốc gia láng giềng có chung đường biên giới như Trung quốc, Lào,
Campuchia...
Lý do:
Tiếp thu minh triết dân gian “mua láng giềng gần” của ông cha.
Thực tế là mỗi quốc gia có thể thay đổi bạn - thù nhưng không thể
thay đổi được láng giềng và chính quan hệ láng giềng tạo nên môi trường
quốc tế trực tiếp để “nội yên, ngoại tĩnh”.
Trong thế giới hiện đại, khi các nước lớn tìm cách tác động đến một
quốc gia nào đó thì họ không chỉ tác động một cách trực diện mà còn tác
động tới đường lối của các nước láng giềng.
Chủ trương của Hồ Chí Minh: Người ra sức vun đắp tình hữu nghị
với các nước láng giềng, nhất là các nước láng giềng chung đường biên
giới như Trung quốc, Lào, Camphuchia...
Tuy nhiên, Người có đối sách ngoại giao khác nhau trong quan hệ với

từng nước dù rằng đó đều là láng giềng “núi liền núi, sông liền sông”.
7


Trong các nước láng giềng, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng quan hệ
với Trung quốc. Người khẳng định: “Trung Việt khác nào môi với răng.
Môi hở thì răng buốt, cứu Trung Quốc là tự cứu mình”
Ngoài Trung quốc, Việt nam có 2 nước láng giềng gần gũi cùng nằm
trên bán đảo Đông Dương là Lào và Campuchia. Để xây dựng mối quan hệ
giữa ba dân tộc Đông Dương, Hồ Chí Minh phân biệt rành mạch hai vấn
đề: 1. Phát huy sức mạnh của mỗi dân tộc, tôn trọng quyền tự quyết của
mỗi dân tộc; 2. Thực hiện đoàn kết 3 dân tộc để chống kẻ thù chung.
* Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng xây đắp mối quan hệ với các nước
XHCN.
- Lý do:
+ Vai trò to lớn của Liên Xô trong phong trào giải phóng dân tộc,
+Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của hệ thống các nước XHCN sau
năm 1945
+ Sự chung đúc về lý tưởng và nhu cầu liên kết lực lượng để chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
- Chủ trương của Hồ Chí Minh:
+ Tận dụng tối đa sự giúp đỡ của các nước XHCN.
+ Đề cao sự giúp đỡ của các nước XHCN. Người từng khẳng định, sự
hợp tác toàn diện với các nước XHCN “là một trong những điều giúp ta
kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công
+ Trân trọng, biết ơn sự giúp đỡ của họ nhưng giới hạn chủ yếu trong
sự ủng hộ về tinh thần, sự giúp đỡ về vật chất còn không sử dụng quân đội
của họ để tham chiến.
+ Giữ thế cân bằng trong quan hệ với Liên Xô - Trung Quốc khi 2
nước xảy ra mâu thuẫn trầm trọng.

+ Giữ vững tinh thần độc lập tự chủ
- Kết quả
+ Liên Xô đã viện trợ đến 85 % vũ khí hạng nặng mà Việt nam sử
dụng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Trung quốc đã giúp đỡ Việt nam
khá nhiều về vấn đề hậu cần để “thực túc, binh cường”.
+ Ta vẫn nhận được tối đa viện trợ mà vẫn duy trì được sự độc lập tự
chủ của mình...
8


Việc thực hiện chính sách ngoại giao rộng mở nhưng có trọng tâm,
trọng điểm của Hồ Chí Minh đã làm Việt nam có láng giềng gần, có anh em
xa, có đồng chí thủy chung và bạn bè thân thiết, làm cho các nước lớn phải
quan tâm đến số phận của một dân tộc nhỏ như Việt nam...Đó quả là một
kỳ tích đối với nền ngoại giao non trẻ.
4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất của nhà ngoại giao.
- Vai trò của cán bộ ngoại giao: Hồ Chí Minh rất quan tâm đến đội
ngũ những người làm công tác ngoại giao.
+ Xuất phát từ nhận thức có tính chân lý : “cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
+ Xuất phát từ vai trò tương đối độc lập của nhà ngoại giao trong các
cuộc đàm phán quốc tế.
+ Do sự non yếu của nền ngoại giao cách mạng.
- Từ đó, Người đặt ra những yêu cầu hết sức cụ thể đối với nhà ngoại
giao.
+ Trước hết, nhà ngoại giao phải biết đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.
Hồ Chí Minh từng căn dặn các nhà ngoại giao: “muốn làm gì cũng cần vì
lợi ích dân tộc mà làm”, “phải luôn luôn vì lợi ích dân tộc mà phục vụ”
Không chỉ là sự ý thức bảo vệ quyền lợi dân tộc, nhà ngoại giao phải khôn
khéo để lợi ích đó luôn được đảm bảo.

+ Thứ hai: Nhà ngoại giao phải am hiểu văn hoá của người và thể
hiện bản lĩnh văn hóa của mình.
+ Thứ ba: Nhà ngoại giao nhất thiết phải giỏi ngoại ngữ.
+ Thứ tư: Nhà ngoại giao phải nắm vững nghệ thuật đàm phán, nghệ
thuật giao tiếp, ứng xử vì ngoại giao không chỉ là khoa học về quan hệ
quốc tế mà còn là nghệ thuật đàm phán.
+ Thứ năm: Nhà ngoại giao phải cẩn trọng trong lời ăn, tiếng nói.
+ Thứ sáu: Xuất phát từ hoàn cảnh khó khăn của nước nhà, nhà ngoại
giao Việt nam phải biết tiết kiệm; từ việc cái ăn cái mặc cũng phải chú ý để
phù hợp với điều kiện đất nước.
Những yêu cầu Hồ Chí Minh đề ra cho người làm công tác ngoại giao
có sự kết hợp hài hòa giữa tài và đức, hồng và chuyên, hiền và minh và nó
đã trở thành chuẩn mực để lựa chọn, phấn đấu, tu dưỡng của các nhà ngoại
9


giao cách mạng.
Tóm lại, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác ngoại giao ta
nhận thấy: Quả thực Người có một hệ thống quan điểm toàn diện về hoạt
động này - từ vai trò, vị trí đến hình thức thực hiện, từ phương hướng
ngoại giao cơ bản đến chuẩn mực, phẩm chất của nhà ngoại giao... Quá
trình hiện thực hóa những quan điểm trên đã dẫn đến sự ra đời của “trường
phái ngoại giao Hồ Chí Minh”.
Ý nghĩa, giá trị của tư tưởng
- Hồ Chí Minh đã xác định đúng vai trò của công tác ngoại giao và
mối quan hệ giữa ngoại giao và các lĩnh vực khác của cách mạng.
+ Ngoại giao là một lĩnh vực hoạt động quan trọng.
+ Mặc dù rất đề cao vai trò của công tác ngoại nhưng Hồ Chí Minh
không đẩy vai trò của ngoại giao lên vị trí độc tôn.
- Hồ Chí Minh sử dụng một cách có ý thức và tài tình những hình

thức ngoại giao mới mà cha ông ta chưa từng biết đến như ngoại giao
nhân dân và ngoại giao đa phương.
- Hồ Chí Minh đã xác định đúng các phương hướng ngoại giao cơ
bản và thực hiện nó trên thực tế. Bằng cách đó, Người đã xây dựng nền
ngoại giao rộng mở nhưng có trọng tâm, trọng điểm.
- Đề ra những chuẩn mực của nhà ngoại giao cách mạng làm để
hướng đạo cho hoạt động thực tiễn.

10


Chương 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC
NGOẠI GIAO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Về việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng
biển Việt Nam.
Từ ngày 02/5/2014, Trung Quốc đã đưa giàn khoan nước sâu Hải
Dương-981 cùng nhiều tàu vũ trang, tàu và máy bay quân sự hộ tống đi vào
vùng biển Việt Nam, hạ đặt trái phép giàn khoan này tại vị trí nằm hoàn
toàn bên trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được
xác định theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Việt Nam đã kiên trì đối thoại, tìm cách giao thiệp với Trung Quốc ở
nhiều cấp độ, dưới nhiều hình thức, phản đối mạnh mẽ hành vi sai trái của
phía Trung Quốc. Đáp lại thiện chí của Việt Nam, Trung Quốc tiếp tục duy
trì và mở rộng hoạt động sai trái, điều thêm nhiều tàu và máy bay đến khu
vực nói trên. Theo các cơ quan chức năng của Việt Nam, Trung Quốc vẫn
duy trì sự hiện diện của nhiều tàu quấn sự, hải cảnh, hải giám, hải tuần, ngư
chính, tàu cá vỏ sắt, các tàu dịch vụ cùng sự hỗ trợ của nhiều máy bay tại
khu vực xung quanh giàn khoan Hải Dương-981. Trong khi các tàu công
vụ, tàu dân sự của Việt Nam hết sức kiềm chế thì Trung Quốc tiếp tục có

những hành động hung hăng, đưa tàu, máy bay đến uy hiếp, dùng vòi rồng
có công suất lớn nhằm vào các tàu công vụ của Việt Nam đang thực thi
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, gây hư hại nhiều tàu và làm nhiều người bị
thương.
Tiếp tục các biện pháp đấu tranh ngoại giao kiên quyết, ngày 11-52014, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 24 tại Mianma, Thủ tướng
Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã có bài phát biểu quan trọng
nhấn mạnh vụ việc là mối đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh,
an toàn hàng hải ở Biển Đông. Các văn kiện của Hội nghị cấp cao ASEAN
11


đã nêu vấn đề Biển Đông. Trước đó, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các
nước ASEAN, lần đầu tiên từ năm 1995, Bộ trưởng Ngoại giao các nước
ASEAN đã ra Tuyên bố riêng về tình hình Biển Đông, qua đó thể hiện rõ
sự đoàn kết, vai trò trung tâm, tinh thần chủ động, trách nhiệm cao và quan
ngại sâu sắc của ASEAN đối với hòa bình, ổn định và an ninh ở khu vực.
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki Moon cũng đã bày tỏ lo ngại
trước tình hình căng thẳng leo thang tại Biển Đông, và kêu gọi các bên liên
quan hết sức kiềm chế và giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình,
thông qua đối thoại và phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Hiến
chương Liên Hợp Quốc.
Việt Nam cực lực phản đối việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải
Dương-981 tại khu vực nằm sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán
của Việt Nam. Đây là hoạt động vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế,
nhất là Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS),
Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 (DOC), và các
thỏa thuận có liên quan giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước cũng như Thỏa
thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt
Nam - Trung Quốc.

Trong bối cảnh các nước trong và ngoài khu vực đang nỗ lực tìm kiếm
các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp và nỗ lực trong việc thúc
đẩy tham vấn tích cực và thực chất nhằm tiến tới một Bộ Quy tắc Ứng xử
(COC), hành động của Trung Quốc đã làm phức tạp tình hình, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải,
hợp tác và phát triển ở khu vực. Việt Nam kiên quyết yêu cầu phía Trung
Quốc rút giàn khoan Hải Dương-981 cùng toàn bộ tảu và máy bay ra khỏi
vùng biển của Việt Nam, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam và không để tái
diễn những hảnh vi tương tự.

12


2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mặt trân ngoại giao giải
quyết tranh chấp trên biển Đông.
Trước tình hình căng thẳng diễn ra nêu trên, hơn lúc nào hết những
quan điểm chỉ đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh lại được soi sáng. Trước
những diễn biến phức tạp của tình hình Đảng ta luôn quán triệt và vận
dụng các quan điểm sau:
-

Đẩy mạnh công tác ngoại giao hơn lúc nào hết

-

Ngoại giao phải kết hợp với chính trị và quân sự

-

Đẩy mạnh các hình thức ngoại giao


-

Tiếp tục duy trì các hướng ngoại giao trọng điểm: ngoại giao

với các nước lớn, các nước láng giềng ASEAN
-

Ngoại giao phải dựa trên thực lực: quân sự, kinh tế, văn hóa,

chính trị
-

Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo nhân sự cho ngành ngoại

giao.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua Chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta như sau:
Chủ trương của Việt Nam đối với vấn đề duy trì hoà bình, ổn
định ở Biển Đông
– Hoà bình và ổn định ở Biển Đông liên quan trực tiếp đến hoà
bình và ổn định của cả khu vực và thế giới. Nếu xảy ra xung đột ở Biển
Đông thì không chỉ lợi ích của 9 nước ven Biển Đông bị ảnh hưởng, mà
lợi ích của nhiều nước khác cũng sẽ bị ảnh hưởng.
– Việc duy trì hoà bình và ổn định ở Biển Đông là một yêu cầu
khách quan, tất yếu. Việc đó cũng chính là để duy trì hoà bình và ổn
định của cả khu vực ;
đáp ứng nguyện vọng và lợi ích chung của các quốc gia tiếp giáp
Biển Đông cũng như các quốc gia khác.


13


– Do đó, việc thảo luận vấn đề hoà bình, ổn định ở Biển Đông cũng
như các khía cạnh liên quan lợi ích chung như bảo vệ môi trường, tự do và
an toàn hàng hải, nghiên cứu khoa học biển tại các diễn đàn trong khuôn
khổ ASEAN, ARF, các diễn đàn luật biển khác là tất yếu và cần thiết, đòi
hỏi nỗ lực và đóng góp chung của các nước. Sự tham gia và đóng góp của
tất cả các nước trong và ngoài khu vực đối với việc tăng cường hoà bình và
ổn định ở Biển Đông rất được trân trọng và luôn luôn được các nước
ASEAN, trong đó có Việt Nam, hoan nghênh.
Chủ trương của Việt Nam về thúc đẩy và thực hiện đầy đủ
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và tiến tới xây
dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)
Tuyên bố năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc về ứng xử của các
bên ở Biển Đông (DOC) chứa đựng một loạt cam kết quan trọng nhằm mục
đích duy trì hoà bình, ổn định ở Biển Đông. Nội dung các cam kết mà
ASEAN và Trung Quốc đã ghi nhận trong Tuyên bố DOC năm 2002 là :
– Cam kết giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp
hoà bình, tuân thủ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên
Hợp Quốc, Công ước Luật Biển năm 1982 và 5 nguyên tắc tồn tại hoà bình.
– Cam kết không có hành động làm phức tạp thêm tình hình Biển
Đông, trong đó cam kết không mở rộng chiếm đóng mới.
– Cam kết tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin ; triển khai
các hoạt động hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm như an toàn hàng
hải, nghiên cứu khoa học, chống tội phạm trên biển, tiến tới COC.
Việc xây dựng và kí Tuyên bố DOC năm 2002 là kết quả nỗ lực
chung của cả ASEAN và Trung Quốc. Đó là một bước đi tích cực và thực
sự có đóng góp vào việc duy trì hoà bình và ổn định ở Biển Đông. Không
chỉ các nước ASEAN, Trung Quốc và các nước trong khu vực mà nhiều

nước khác trên thế giới (trong đó có Mỹ, Ôxtrâylia, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản,
Hàn Quốc, v.v…) cũng đánh giá cao ý nghĩa của Tuyên bố DOC và bày tỏ
14


sự ủng hộ với DOC, kêu gọi ASEAN và Trung Quốc tăng cường nỗ lực
thực hiện trọn vẹn các cam kết ghi trong Tuyên bố này và tiến tới xây dựng
Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).
Tuyên bố DOC năm 2002 là văn kiện do đại diện Chính phủ Trung
Quốc và Chính phủ các nước ASEAN cam kết, nên cả ASEAN và Trung
Quốc đều có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nội dung của văn kiện này,
phấn đấu xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông. Lãnh đạo
các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc đều khẳng định cam kết thực
hiện DOC. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 18 tại Giacacta tháng 5 –
2011 đã khẳng định quyết tâm xây dựng COC vào năm 2012 nhân kỉ niệm
10 năm kí Tuyên bố DOC.
Lập trường của Việt Nam về yêu sách “đường lưỡi bò” ở Biển
Đông
Yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc ở Biển Đông (các cách gọi
khác là “đường chín đoạn” hoặc “đường chữ U”) được Trung Quốc chính
thức đưa ra tháng 5 – 2009, khi Phái đoàn thường trực Trung Quốc tại Liên
Hợp Quốc gửi công hàm phản đối việc Việt Nam nộp các Báo cáo quốc gia
về ranh giới ngoài thềm lục địa của Việt Nam.
Yêu sách “đường lưỡi bò” phi lí này chiếm 80% diện tích Biển Đông,
được vẽ ra một cách tùy tiện, mơ hồ, không có tọa độ, hoàn toàn không có
cơ sở pháp lý và lịch sử, bởi vì:
:– Trái với Công ước Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc là một bên
tham gia ; vùng biển mà “đường lưỡi bò” bao trùm không thể là lãnh hải
hay vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc.
– Các văn bản pháp luật về biển của Trung Quốc chưa bao giờ đề cập

tới yêu sách này.
– Thực tiễn các quốc gia ven Biển Đông cũng như các quốc gia ngoài
khu vực đều phủ nhận yêu sách này.

15


– Yêu sách này xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của năm nước là Việt Nam, Philíppin, Inđônêxia, Malaixia và Brunây.
Kể từ khi yêu sách này được đưa ra tại Liên Hợp Quốc, các nước và
dư luận trong và ngoài khu vực lên tiếng phản đối :
– Chỉ một ngày sau khi Trung Quốc đưa yêu sách này ra Liên Hợp
Quốc, Việt Nam đã gửi công hàm cho Tổng thư kí Liên Hợp Quốc chính
thức bác bỏ đòi hỏi của Trung Quốc. Việt Nam cũng khẳng định lại lập
trường trong phát biểu của Người phát ngôn
Bộ Ngoại giao cũng như trong các cuộc tiếp xúc ở các cấp với Trung
Quốc.
– Tháng 7 – 2010, Inđônêxia đã chính thức gửi công hàm đến Liên
Hợp Quốc phản đối yêu sách “đường lưỡi bò”, nêu rõ tính phi lí của yêu
sách này.
– Tháng 4 – 2011, Philíppin cũng chính thức gửi công hàm đến Liên
Hợp Quốc phản đối yêu sách này. Các nhà lãnh đạo của Philíppin cũng đã
nhiều dịp khẳng định lại lập trường này.
– Malaixia cũng gửi công hàm cho Tổng thư kí Liên Hợp Quốc bác bỏ
công hàm có kèm bản đồ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
– Nhiều học giả quốc tế (Mỹ, Pháp, Bỉ, Inđônêxia v.v…) cũng khẳng
định tính phi pháp của yêu sách “đường lưỡi bò”. Trong nhiều hội nghị, hội
thảo khoa học cũng như các công trình nghiên cứu, nhiều học giả quốc tế
cũng nêu Trung Quốc cần giải thích cơ sở của yêu sách này.
- Việc Trung Quốc thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” (ngày

21/6/2012) bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa của Việt
Nam với diện tích vùng biển trên 2 triệu km2 (cơ bản như yêu sách “đường
lưỡi bò”) là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và không có giá trị về pháp lý.
Lập trường của Việt Nam về việc Philíppin khởi kiện Trung Quốc
ra Tòa Trọng tài quốc tế:
16


Việt Nam được biết ngày 22/01/2013, Bộ Ngoại giao Cộng hòa
Philippin đã chuyển cho Đại sứ quán nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
tại Philíppin công hàm kèm theo Thông báo và Tuyên bố về việc Philíppin
chính thức khởi kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài Phụ lục VII Công ước
của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, và ngày 24/4/2013 Chánh án
Tòa án Quốc tế về Luật Biển đã chỉ định xong các Trọng tài viên cho Tòa
Trọng tài nói trên.
Là quốc gia ven biển có các quyền và lợi ích quốc gia hợp pháp và
chính đáng ở Biển Đông, Việt Nam quan tâm và theo dõi sát tiến trình của
vụ kiện này. Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế quản lý
để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các
vùng biển của mình được xác lập phù hợp với Công ước của Liên Hợp
Quốc về Luật Biển năm 1982, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên và các văn bản pháp lý của Việt Nam.
Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp hòa bình phù hợp và cần thiết để
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán cũng như các lợi ích
quốc gia hợp pháp và chính đáng khác của mình ở Biển Đông phù hợp với
Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế và Công ước của Liên Hợp
Quốc về Luật Biển năm 1982.
Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ quyền của mình đối với quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, cũng như chủ quyền, quyền chủ

quyền và quyền tài phán đối với nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình ở Biển Đông.
Việt Nam đề nghị các bên liên quan nghiêm túc thực hiện đầy đủ
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký năm 2002 giữa
các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc, Tuyên bố chung của Hội
nghị cấp cao ASEAN - Trung Quốc lần thứ 15 kỷ niệm 10 năm DOC, và
mong muốn các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc sớm tiến hành
đàm phán chính thức xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
17


Lập trường của Việt Nam về ý tưởng “gác tranh chấp, cùng
khai thác” ở Biển Đông
– Việt Nam không chấp nhận “gác tranh chấp, cùng khai thác” trên
thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí của Việt Nam, nếu ở
khu vực cụ thể đó không có sự chồng lấn với thềm lục địa và vùng đặc
quyền kinh tế của nước khác. Lí do đơn giản là không có sự chồng lấn
thì không thể có tranh chấp về các vùng biển và các nước khác không có
lí do gì để đòi gác tranh chấp và để đòi cùng khai thác trên thềm lục địa
và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
– Nếu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước ngoài
chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam thì
Việt Nam có thể cùng các nước hữu quan xem xét, bàn bạc giải pháp
tạm thời là cùng khai thác. Trong thực tế, Việt Nam đã có trường hợp
thực hiện chủ trương này : Việt Nam và Malaixia có khu vực thềm lục
địa chồng lấn nhỏ ở Vịnh Thái Lan, hiện nay hai bên đã thoả thuận cùng
nhau khai thác dầu khí ở khu vực này. Về lâu dài, Việt Nam và Malaixia
sẽ cùng nhau phân định dứt điểm ranh giới biển ở khu vực chồng lấn
này.
Lập trường của Việt Nam về hoạt động đánh cá của ngư dân

Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn thuộc chủ quyền
của Việt Nam. Từ lâu, ngư dân Việt Nam vẫn hoạt động đánh cá bình
thường tại khu vực quần đảo Hoàng Sa.
- Trong những năm gần đây, phía Trung Quốc nhiều lần bắt giữ, đối
xử thô bạo, tịch thu phương tiện và phạt tiền nặng đối với tàu cá và ngư dân
Việt Nam đang đánh bắt cá bình thường ở khu vực quần đảo Hoàng Sa.
Tháng 11-2013, chính quyền tỉnh Hải Nam đã thông qua cái gọi là “Biện
pháp thực hiện Luật ngư nghiệp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, có
hiệu lực vào ngày 01-01-2014 theo đó, các tàu cá nước ngoài khi đi vào
18


vùng biển của tỉnh Hải Nam (nằm trong phạm vi yêu sách “đường lưỡi bò”)
phải được sự cho phép của chính quyền địa phương, nếu không sẽ bị chế tài
bởi các quy định xử lý đặc biệt. Những quy định của Trung Quốc đã vi
phạm Công ước của Liên Hợp Quốc về Luât Biển năm 1982; vi phạm chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, quyền
chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông.
– Việt Nam kiên quyết yêu cầu phía Trung Quốc tôn trọng chủ
quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, không được cản trở các
tàu đánh cá và ngư dân Việt Nam, tuân thủ nhận thức chung là không làm
phức tạp thêm tình hình Biển Đông.
Lập trường của Việt Nam đối với một số khía cạnh cơ bản của
vấn đề Biển Đông
– Trước hết, cần phải làm rõ là trong vấn đề Biển Đông có nhiều khía
cạnh khác nhau. Một là, khía cạnh duy trì hoà bình, ổn định ở Biển Đông
và tự do hàng hải. Hai là, khía cạnh thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các
bên ở Biển Đông (DOC) mà ASEAN và Trung Quốc đã kí năm 2002. Ba
là, khía cạnh các tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần

đảo Trường Sa.
– Về bản chất, phần lớn các khía cạnh, cụ thể là duy trì hoà bình, ổn
định ở Biển Đông, tự do hàng hải, thực hiện DOC và tranh chấp chủ quyền
đối với quần đảo Trường Sa, liên quan đến lợi ích nhiều nước, gắn liền với
duy trì hoà bình, ổn định quốc tế và khu vực. Các khía cạnh này rõ ràng tự
thân chúng đã mang tính đa phương, mang tính quốc tế.
– Riêng tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa là tranh
chấp song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc
cần phải giải quyết tranh chấp này bằng các biện pháp hoà bình theo đúng
Hiến chương Liên Hợp Quốc.

19


Trong số các biện pháp hoà bình thì thương lượng là biện pháp được
ưu tiên ; nhưng nếu thương lượng không giải quyết được thì không loại trừ
việc đưa ra Toà án quốc tế giải quyết.
– Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không dựa
vào nước này để chống lại hoặc làm đối trọng với nước kia. Việt Nam quan
tâm và sẵn sàng tham gia vào mọi cố gắng song phương và đa phương
nhằm duy trì hoà bình, ổn định ở Biển Đông, trên cơ sở tôn trọng luật pháp
quốc tế và lợi ích chính đáng của các bên liên quan.
– Việt Nam coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước,
nhất là các nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc, trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng, hợp tác hai
bên cùng có lợi, vì hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực và thế giới.

20



KẾT LUẬN
Chủ quyền quốc gia trên biển - là một bộ phận hữu cơ của chủ quyền
quốc gia. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là bảo vệ lợi ích quốc gia - một mục
tiêu đối ngoại cốt lõi theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước việc Trung Quốc tuyên bố yêu sách đường 9 đoạn “Đường lưỡi
bò”, dựa trên quyền lịch sử, chiếm đến hơn 80% diện tích Biển Đông (bao
gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), và thực hiện
hàng loạt hành động “xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền
và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa”(7), thì vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo - bảo vệ lợi ích
quốc gia của Việt Nam, đang đặt ra một cách cấp bách.
Quán triệt những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về mặt trận
ngoại giao, chúng ta luôn khẳng định quan điểm có tính nguyên tắc - chủ
quyền biển, đảo là lợi ích quốc gia - thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là cái
“bất biến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, từng thay mặt quốc gia Việt Nam, tuyên
bố “nhân dân chúng tôi thành thực mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân
chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền
thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”;
toàn thể nhân dân Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải” để giữ vững chủ quyền quốc gia. Cái “vạn biến” là phải
linh hoạt, khôn khéo trong đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ.
Theo Hồ Chí Minh: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách
lược của ta thì linh hoạt”.
Hội nghị Trung ương 4 khóa X (15-11-2007) ra Nghị quyết số 09NQ/TW, Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, xác định nhiệm vụ
và giải pháp nhằm tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về
biển để khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng kinh tế biển, đồng thời bảo
đảm tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia; đề ra yêu cầu nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật
trong lĩnh vực đối ngoại về biển theo luật pháp và thông lệ quốc tế.
21



Ngày 21-6-2012, Quốc hội ban hành Luật biển Việt Nam. Theo Luật
biển Việt Nam, thì Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng
tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định
theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công
ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Luật biển Việt Nam tái
khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa.
Luật biển Việt Namquy định các cơ quan, tổ chức và mọi công dân
Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài
phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và
môi trường biển.
Nhà nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các
nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên
hợp quốc về Luật biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế (Khoản 2
và 3, Điều 4).
Đó là những văn kiện khẳng định tính pháp lý về chủ quyền biển, đảo
- lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam; khẳng định quyết tâm bảo vệ
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; quy định nhiệm vụ của công dân
và Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc.
Về tập hợp lực lượng, trong quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh quan niệm
đối ngoại là một mặt trận, cần mở rộng và tranh thủ mọi lực lượng, hình
thức đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về đối ngoại “muốn làm cách
mạng thắng lợi thì phải... thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”.
Với trong nước, hoạt động đối ngoại phải dựa trên cơ sở sức mạnh bên
trong - sức mạnh toàn dân, gồm sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc,
sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hoá của đất nước - đó là sức

mạnh tổng hợp quốc gia (là thực lực). Muốn thắng lợi trên mặt trận ngoại
giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phải có thực lực: “Phải trông ở thực

22


lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà
ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”.
Cơ sở quan trọng hàng đầu cho sự đồng thuận, và phát huy sức mạnh
toàn dân bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, đó là Việt Nam có đầy
đủ chứng cứ pháp lý và lịch sử, phù hợp Công ước Liên hợp quốc về Luật
biển năm 1982 (UNCLOS) về chủ quyền biển, đảo. Đây cũng là cơ sở pháp
lý quan trọng để quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo của nước ta.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn quy tụ, phát huy sức mạnh
nhân dân, tạo thực lực mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần: 1) Tuyên
truyền, giáo dục để mọi người dân hiểu biết đầy đủ về chủ quyền lãnh thổ
trên biển; 2) Nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người dân trong việc
bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc; 3) Củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng,
Nhà nước; 4) Xây dựng lực lượng bảo vệ biển, đảo đủ mạnh; 5) Phát triển
kinh tế biển nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng biển, đồng thời bảo đảm
thường xuyên an ninh và chủ quyền biển, đảo; 6) Cung cấp thông tin đầy
đủ, trung thực để nhân dân biết rõ về các âm mưu, hành động của các thế
lực bành trướng xâm phạm chủ quyền biển, đảo nước ta.
Với bên ngoài, theo quan điểm Hồ Chí Minh “Nước ta là một bộ phận
của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình
thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”, những hoạt động của nước ta có
muôn nghìn sợi dây liên hệ với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ;
nhưng phải độc lập, tự chủ, phải khôn khéo, phải vạch rõ những phương
pháp và những biện pháp của riêng mình, để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ
lớn nhất của nhân dân tiến bộ trên thế giới; nhưng “muốn người ta giúp

cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Phải thực hành chính sách
đối ngoại rộng mở, chính sách mở cửa và hợp tác, chính sách hoà bình và
quan hệ tốt; tránh đối đầu, và không gây thù oán với một ai. Trong quan hệ
với các nước, các tổ chức quốc tế, cần tìm ra những điểm tương đồng, khai
thác mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết ủng hộ Việt
Nam theo nhiều cấp độ. Trong hoạt động đối ngoại phải phối hợp chặt chẽ
23


giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá...
Theo Hồ Chí Minh, để tập hợp các lực lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ
Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân dân thế giới
hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Biển Đông là tuyến vận tải biển lớn thứ hai thế giới, là nơi có tiềm
năng lớn về tài nguyên biển. Do đó, bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông
và bảo đảm an ninh Biển Đông là lợi ích chung của nhiều nước trên thế
giới, trong đó đặc biệt là các nước lớn.
Đối với tổ chức ASEAN, ngoài 4 nước thành viên (Philippines, Việt
Nam, Malaysia và Brunei) có các tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông, liên
quan trực tiếp đến yêu sách “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc, Biển Đông
còn là chủ đề quan trọng gắn với xây dựng môi trường hòa bình và ổn định
cho phát triển và phồn vinh của khu vực - một lợi ích hàng đầu của các
nước Đông Nam Á. Điều đó được thể hiện qua việc ASEAN đã có nhiều
Tuyên bố về tình hình Biển Đông. Năm 2002, ASEAN cùng Trung Quốc
ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); ngày 20-7-2012,
Ngoại trưởng các nước ASEAN đã đạt được một Tuyên bố về nguyên tắc 6
điểm về Biển Đông, tạo cơ sở để đảm bảo các bên liên quan tôn trọng, tuân
thủ trong hành xử ở Biển Đông và khẳng định các hành vi vi phạm những
nguyên tắc này sẽ ảnh hưởng tới ASEAN Hiện nay, ASEAN đã sẵn sàng
tiến tới ký kết một Bộ quy tắc ứng xử (COC) với Trung Quốc, đóng góp

vào duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực.
Như vậy, các nước và các tổ chức quốc tế nói chung, tổ chức ASEAN
nói riêng, đều có chung lợi ích chiến lược trong việc bảo vệ an ninh và tự
do hàng hải trên Biển Đông; mặt khác, việc chủ quyền biển, đảo của Việt
Nam được bảo đảm bằng cơ sở pháp lý và lịch sử, phù hợp Công ước Liên
hợp quốc về Luật Biển, nên cộng đồng quốc tế đều cảm nhận được tính
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo. Đây là mẫu số chung, là “điểm đồng”, là điều kiện để tập hợp lực
lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ Việt Nam bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
24


Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, để tranh thủ sự ủng hộ
quốc tế trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, cần phải: 1) Thực
hiện các kênh ngoại giao với nhiều hình thức, nhằm làm cho nhân dân thế
giới hiểu rõ về cơ sở pháp lý, cơ sở lịch sử, và sự phù hợp Công ước Liên
hợp quốc của chủ quyền biển, đảo Việt Nam; biết rõ sự thật lịch sử về việc
chủ quyền biển, đảo Việt Nam đã và đang bị xâm phạm; 2) Thể hiện công
khai, minh bạch lập trường của Việt Nam tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất
là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và tinh thần
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); sự kiên trì của Việt
Nam về chủ trương giải quyết hòa bình, không sử dụng vũ lực trong các
tranh chấp chủ quyền biển, đảo; 3) Vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ
cần được quốc tế hóa; cần đưa tranh chấp phi lý xâm phạm chủ quyền biển,
đảo Việt Nam ra các thiết chế luật pháp quốc tế; 4) Phát huy xu thế toàn
cầu hóa, xu thế hòa bình, phát triển, để đẩy mạnh các hợp tác quốc tế song
phương và đa phương, nhằm bảo vệ tự do hàng hải trên biển Đông và khai
thác nguồn lợi kinh tế Biển Đông, chia sẻ trách nhiệm, lợi ích, qua đó tạo
lợi ích đan xen về kinh tế Biển Đông với các nước; 5) Đối với tổ chức
ASEAN, cần thể hiện sâu sắc hơn tư cách thành viên chủ động, tích cực và

trách nhiệm cao; nhằm góp phần củng cố đoàn kết, tăng cường quan hệ hữu
nghị với các thành viên, giữ vững và phát huy vai trò trung tâm của
ASEAN trong cấu trúc khu vực; củng cố mối quan tâm chung của ASEAN
là hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông; thực hiện đầy
đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), thúc
đẩy sớm xây dựng bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); 6) Trên quan
điểm độc lập, tự chủ, phát triển quan hệ, và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
của tất cả các nước lớn, trên cơ sở lợi ích chung về an ninh, tự do hàng hải,
lợi ích kinh tế trên Biển Đông. Đặc biệt chú ý quan hệ với Hoa Kỳ - một
cường quốc hàng hải, đã nhiều lần tuyên bố họ có lợi ích ở Biển Đông. Lợi
ích của Hoa Kỳ gắn với hòa bình, ổn định và việc không quốc gia nào được
25


×