Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

MÔ tả và PHÂN TÍCH các yếu tố môi TRƯỜNG CHUNG về NGÀNH KINH DOANH XĂNG dầu VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 18 trang )

MÔ TẢ VÀ PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG CHUNG VỀ
NGÀNH KINH DOANH XĂNG DẦU VIỆT NAM

LỜI MỞ ĐẦU
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị
trường đều chịu sự tác động to lớn của các yếu tố môi trường như chính trị - luật pháp,
kinh tế - xã hội, công nghệ... đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh trong những lĩnh
vực cần có sự điều tiết của Nhà nước để đảm bảo cân bằng giữa lợi ích của doanh
nghiệp cũng sự phát triển của nền kinh tế và an sinh xã hội, Công ty Xăng dầu Thành
Linh là một ví dụ và cũng không thể nằm ngoài quy luật trên.
I/ MÔ TẢ VÀ PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG CHUNG VỀ
NGÀNH KINH DOANH XĂNG DẦU VIỆT NAM:
1 - Khái quát ngành xăng dầu Việt Nam:
Thị trường xăng dầu Việt Nam đã hình thành và phát triển theo sự đổi mới phát
triển kinh tế của đất nước. Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hoạt động phân phối xăng
dầu cũng đã trải qua các giai đoạn tương ứng, từ phương thức cung cấp theo định
lượng, áp dụng một mức giá thống nhất do Nhà nước quy định đến mua bán theo nhu
cầu, thông qua hợp đồng kinh tế. Khái quát thị trường xăng dầu trong 20 năm qua, kể
từ khi Việt Nam đặt viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng của thị trường xăng dầu
năm 1989, quá trình chuyển đổi có thể phân chia thành 3 giai đoạn: trước năm 2000, từ
năm 2000 đến cuối năm 2008 và từ cuối năm 2008 trở lại đây.
2 - Phân tích các yếu tố môi trường chung (Mô hình PEST) ảnh hưởng đến
ngành xăng dầu của Việt Nam.
2.1. Các yếu tố chính trị, luật pháp ảnh hưởng đến ngành xăng dầu (P).
Như đã nói ở trên, quá trình phát triển của thị trường xăng dầu Việt Nam chia làm
ba giai đoạn chính và mỗi giai đoạn đều có những chính sách của Nhà nước tác động
mạnh mẽ lên thị trường xăng dầu, thể hiện:
a. Giai đoạn trước năm 2000:



- Giai đoạn này kéo dài trên 10 năm, với sự gia tăng của các đầu mối nhập khẩu từ
một đầu mối duy nhất, tăng dần lên 5 và đến năm 1999, đã có 10 đầu mối tham gia
nhập khẩu xăng dầu cho nhu cầu nội địa. Trong những năm từ 1989 đến 1992, khi
không còn nguồn xăng dầu cung cấp theo Hiệp định với Liên xô (cũ), Nhà nước
chuyển từ quy định "giá cứng" sang áp dụng giá chuẩn để phù hợp với việc hình thành
nguồn xăng dầu nhập khẩu từ lượng ngoại tệ do doanh nghiệp đầu mối tự cân đối, mua
của các doanh nghiệp xuất khẩu qua ngân hàng hoặc hình thức uỷ thác bao tiêu xăng
dầu cho doanh nghiệp có ngoại tệ thu được từ xuất khẩu. Vào giai đoạn này, nguồn
ngoại tệ từ dầu thô do Nhà nước bảo đảm chỉ chiếm dưới 40% tổng nhu cầu ngoại tệ
nhập khẩu xăng dầu. Doanh nghiệp đầu mối được quyền quyết định giá bán +/- 10%
so với giá chuẩn để bảo đảm hoạt động kinh doanh.
- Từ năm 1993, để thống nhất quản lý giá bán, Nhà nước ban hành quy định giá tối
đa; doanh nghiệp tự quyết định giá bán buôn và bán lẻ trong phạm vi giá tối đa. Nhà
nước xác định mức độ chịu đựng của nền kinh tế để xác định giá tối đa; việc điều
chỉnh giá tối đa ở giai đoạn này chỉ diễn ra khi tất cả các công cụ điều tiết đã sử dụng
hết. Công cụ thuế nhập khẩu được sử dụng như một van điều tiết để giữ mặt bằng giá
tối đa, không tạo ra siêu lợi nhuận và doanh nghiệp cũng không phát sinh lỗ sau một
chu kỳ kinh doanh.Phụ thu là một công cụ bổ sung cho thuế nhập khẩu khi mức thuế
nhập khẩu đã được điều chỉnh tăng hết khung, được đưa vào Quỹ Bình ổn giá do Nhà
nước quản lý. Lệ phí giao thông thu từ năm 1994 cũng được hình thành từ nguyên tắc
tận thu cho ngân sách Nhà nước khi điều kiện cho phép, là khoản thu cố định và sau
này đổi tên là phí xăng dầu.
- Đặc điểm lớn nhất của giai đoạn này là: nhờ quy định của Nhà nước về giá chuẩn,
doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh giá bán xăng dầu nhập khẩu thuộc nguồn ngoại
tệ tự huy động từ các doanh nghiệp xuất khẩu, đảm bảo quyền lợi cho họ thông qua tỷ
giá phù hợp nên đã huy động được số ngoại tệ nhập khẩu gần 60% nhu cầu xăng dầu
cho nền kinh tế sau khi không còn nguồn xăng dầu theo Hiệp định. Chính chủ trương
không áp dụng cơ chế bù giá cho các đối tượng sử dụng xăng dầu thông qua doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu là điều kiện quyết định để Việt Nam có thể tự cân đối
được ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu ngay cả khi nguồn ngoại tệ tập trung của Nhà nước

từ dầu thô mới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 50% so với tổng nhu cầu ngoại tệ nhập
khẩu xăng dầu lúc đó.


- Giai đoạn này cũng là thời kỳ giá xăng dầu thế giới ở mức đáy (dầu thô chỉ ở mức
trên 10 usd/thùng), tương đối ổn định nên với cơ chế giá tối đa, Nhà nước đã đạt được
mục tiêu đề ra, cụ thể là (1)/ Cân đối cung - cầu được đảm bảo vững chắc; (2)/ Các hộ
sản xuất và người tiêu dùng lẻ được hưởng mức giá tương đối ổn định; biến động giá
tuy chỉ theo xu hướng tăng song mức tăng đều, không gây khó khăn nhiều cho sản
xuất và tiêu dùng khi chủ động hoạch định được ngân sách cho tiêu thụ xăng dầu hàng
năm; (3)/ Ngân sách Nhà nước tăng thu thông qua việc tận thu thuế nhập khẩu, phụ
thu, phí xăng dầu; (4)/ Doanh nghiệp có tích luỹ để đầu tư phát triển, định hình hệ
thống cơ sở vật chất, từ cầu cảng, kho đầu mối, kho trung chuyển, phương tiện vận tải
đến mạng lưới bán lẻ.
- Mặc dù vậy, cơ chế quản lý - điều hành trong giai đoạn này cũng đã bộc lộ khá rõ
những nhược điểm mà nổi bật là tương quan giá bán giữa các mặt hàng không hợp lý
dẫn đến tiêu dùng lãng phí, nhà đầu tư không có đủ thông tin để tính toán đúng hiệu
quả đầu tư nên chỉ cần thay đổi cơ chế điều hành giá sẽ làm ảnh hưởng rất lớn sử dụng
nhiên liệu, nhiều nhà sản xuất thậm chí đã phải thay đổi công nghệ do thay đổi nhiên
liệu đốt (thay thế madut, dầu hoả bằng than, trấu, gas); gian lận thương mại xuất hiện
do định giá thấp đối với mặt hàng chính sách (dầu hoả); Nhà nước giữ giá ổn định
trong một thời gian quá dài thoát ly giá thế giới tạo sức ỳ và tâm lý phản ứng của
người sử dụng về thay đổi giá mà không cần xét đến nguyên nhân và sự cần thiết phải
điều chỉnh tăng giá. Ở cuối của giai đoạn này giá thế giới, nguồn thị trường đã có dấu
hiệu biến động mạnh, ở mức cao hơn; các cân đối cung cầu và ngân sách, chỉ tiêu tăng
trưởng kinh tế và lạm phát… đều có nguy cơ bị phá vỡ khi tình trạng đó kéo dài.
b. Giai đoạn từ năm 2000 đến trước thời điểm Nhà nước công bố chấm dứt bù
giá, vận hành giá xăng dầu theo thị trường (tháng 9/2008):
- Về cơ bản, nội dung và phương thức quản lý điều hành hoạt động kinh doanh
xăng dầu vẫn chưa có sự thay đổi so với giai đoạn trước đó. Trong khi đó, từ đầu

những năm 2000, biến động giá xăng dầu thế giới đã có những thay đổi căn bản; mặt
bằng giá mới hình thành và liên tiếp bị phá vỡ để xác lập mặt bằng mới trong các năm
tiếp theo. Do tiếp tục chính sách bù giá cho người tiêu dùng thông qua doanh nghiệp
nhập khẩu khi cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp nên số tiền ngân sách bù giá
ngày càng gia tăng, từ 1000 tỷ (năm 2000) lên đến 22 nghìn tỷ đồng năm 2008; loại trừ
yếu tố trượt giá thì đây cũng là một tốc tộ tăng quá cao; chưa có đánh giá nào đề cập
đến khía cạnh này, song xét đơn thuần trên số liệu, nếu đầu tư hàng ngàn tỷ đồng này


cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh doanh xăng dầu, đã có thể tạo lập một hệ
thống kinh doanh xăng dầu đủ lớn và hiện đại, có khả năng cạnh tranh khi mở cửa thị
trường xăng dầu trong tương lai gần.
- Cũng trong giai đoạn này, sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ 2; giá
xăng dầu đã dịu lại song cũng đã hình thành một mặt bằng mới; trước nguy cơ không
thể cân đối ngân sách cho bù giá xăng dầu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 về kinh doanh xăng dầu. Cho đến thời
điểm này, sự đổi mới cơ chế quản lý, chủ yếu là quản lý giá theo Quyết định 187 vẫn
được coi là mạnh mẽ nhất với các tư tưởng cơ bản bao gồm:
+ Nhà nước xác định giá định hướng; doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh tăng
giá bán trong phạm vi + 10% (đối với xăng) và + 5% (đối với các mặt hàng dầu).
+ Hình thành 2 vùng giá bán; giá bán tại vùng xa cảng nhập khẩu, doanh nghiệp
được phép cộng tới vào giá bán một phần chi phí vận tải nhưng tối đa không vượt quá
2% so với giá bán ở vùng gần cảng nhập khẩu.
+ Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi lớn, Nhà nước
không còn công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của người tiêu dùng - Nhà nước doanh nghiệp.
- Tuy nhiên, vì những lý do khách quan, sự đột phá cơ chế điều hành giá trong
Quyết định 187 chưa được triển khai trên thực tế; cho đến hiện nay, Nhà nước tiếp tục
điều hành và can thiệp trực tiếp vào giá bán xăng dầu, kể cả chiều tăng và giảm. Trong
giai đoạn này, mặc dù chưa vận hành điều khoản về giá xong sự ra đời của Quyết định
187 năm 2003 và Nghị định 55/NĐ-CP năm 2007 đã tạo ra một hệ thống phân phối

rộng khắp với gần 10.000 cửa hàng xăng dầu trên cả nước, góp phần ổn định, lành
mạnh hóa thị trường trước đây khá lộn xộn khi thiết lập quan hệ giữa người nhập khẩu
và các đại lý, tổng đại lý khi gắn trách nhiệm, quyền lợi của doanh nghiệp đầu mối với
các đại lý, tổng đại lý cũng như giúp cơ quan quản lý chức năng, người tiêu dùng cùng
tham gia vào quá trình giám sát hoạt động của các đại lý, tổng đại lý trong việc chấp
hành quy định kinh doanh xăng dầu.
- Đánh giá chung cho giai đoạn này, có thể thấy quyết tâm rất cao để đổi mới cơ
chế quản lý kinh doanh xăng dầu thể hiện qua 2 văn bản pháp quy là Quyết định 187
và Nghị định 55 song cho đến hiện nay, văn bản đã không đi vào thực tế kinh doanh


(trừ hệ thống phân phối được thiết lập nhưng việc kiểm soát tính tuân thủ hầu như
chưa thực hiện được). Yếu tố ổn định giá vẫn được đặt lên hàng đầu và chính nó đã
làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước lúng lúng khi phải điều hành đạt các mục tiêu
dường như mâu thuẫn nhau ở cùng một thời điểm. Việc áp dụng một biện pháp duy
nhất (biện pháp bù giá), làm cho giá nội địa thoát ly giá thế giới trong một chu kỳ quá
dài với bối cảnh giá xăng dầu thế giới đã nhiều lần hình thành mặt bằng giá mới cao
hơn; ngoài yếu tố cung cầu thì yếu tố địa chính trị cũng ảnh hưởng lớn đến biến động
giá; biên độ dao động giá quá mạnh sau mỗi ngày… đã làm cân đối ngân sách bị phá
vỡ, doanh nghiệp bị kiệt quệ nguồn lực cho phát triển; việc kìm giá và điều chỉnh sốc
tác động tiêu cực đến nền kinh tế, chưa kể hiện tượng đầu cơ chờ tăng giá làm méo mó
nhu cầu, chuyển khá nhiều nguồn lực cho đại lý; phần lớn người tiêu dùng không được
thông tin đầy đủ về cơ chế điều hành và lợi ích mà Nhà nước đem lại cho nhân dân
nên thường xuyên có phản ứng tiêu cực sau mỗi lần điều chỉnh giá (kể cả tăng và
giảm), từ đó chưa tạo được sự đồng thuận trong xã hội; thẩm lậu xăng dầu qua biên
giới ngày càng phức tạp, khó kiểm soát; Nhà nước thất thu ngân sách kể cả lúc giá
thấp hơn và cao hơn nước lân cận do thẩm lậu xăng dầu qua biên giới. Hệ quả rất xấu
của cơ chế bù giá xăng dầu kéo dài (mà người tiêu dùng vẫn hiểu là bù lỗ cho doanh
nghiệp đầu mối) là việc khó chấp nhận điều chỉnh tăng giá, kể cả mức rất thấp và phản
ứng mạnh trước thông tin doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu không có hiệu quả mà

luôn được Nhà nước bù lỗ. Cũng cần khẳng định rằng, chỉ khi Nhà nước bảo đảm đủ
cân đối ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu thì mới có thể áp dụng biện pháp bù giá. Đây
chính là điểm khác biệt so với giai đoạn trước, khi mà nguồn ngoại tệ từ dầu thô và các
nguồn dự trữ tập trung khác của Nhà nước đã đủ lớn.
c. Giai đoạn từ cuối năm 2008 đến nay:
- Có thể nói, giai đoạn này tuy rất ngắn nhưng đã bộc lộ nhiều nhất những bất cập
của cơ chế điều hành giá và thuế xăng dầu. Việc tiếp tục can thiệp giá và áp dụng một
cơ chế điều hành trong điều kiện giá xăng dầu thế giới biến động rất nhanh chóng theo
hai xu hướng ngược nhau đã dẫn đến một nghịch lý là: trong thời kỳ giá thế giới đã
giảm sâu, Nhà nước vẫn phải bỏ một số tiền bù giá tương đương, thậm chí cao hơn so
với giai đoạn giá thế giới tăng đỉnh điểm; phân khúc số tiền bù giá cho từng giai đoạn
trong năm 2008 có thể thấy rõ nhận định này (khoảng 12 ngàn tỷ đồng /11 ngàn tỷ
đồng). Khái quát lại, từ khi công bố chấm dứt bù giá đến nay, doanh nghiệp vẫn không
có thực quyền về xác định giá bán như các văn bản quy định; Nhà nước không có biện


pháp kiểm soát các doanh nghiệp kết cấu giá bán xăng để hình thành nguồn trả nợ
ngân sách, tạo ra sự mấp mô về giá bán, doanh nghiệp không bình đẳng trong cạnh
tranh; các văn bản mới tiếp tục ra đời song cũng không đi vào thực tế (barem thuế
nhập khẩu, quỹ bình ổn giá); cơ chế đăng ký giá kéo dài mang nặng tính xin cho (phê
duyệt), các cơ quan truyền thông khai thác và đưa ra thông tin về tăng giảm giá rất
sớm, không những không có tính định hướng dư luận mà tạo ra áp lực nặng nề cho cả
doanh nghiệp và cơ quan quản lý, nguồn lực từ doanh nghiệp đầu mối chuyển qua đại
lý rất khó kiểm soát sự minh bạch và đúng đắn của các nhu cầu ở trước thời điểm tăng
giá. Trầm trọng hơn là xã hội không thừa nhận hoạt động kinh doanh xăng dầu là phải
có lãi (dù rất thấp) như tất cả các hoạt động kinh doanh khác, trong khi dễ dàng chấp
nhận thông tin về hoạt động ngân hàng có thể lãi hàng ngàn tỷ đồng trong 6 tháng
2009.
d. Các lực lượng tham gia thị trường xăng dầu:
- Từ sau khi có Nghị định 84/NĐ-CP (vào năm 2009), chúng ta đã có thêm 4 doanh

nghiệp đều là doanh nghiệp ngoài quốc doanh gia nhập vào cơ cấu là các doanh nghiệp
được làm đầu mối kinh doanh xuất nhập khẩu và bán lẻ xăng, dầu. Tính đến nay, thị
trường xăng dầu đã có 13 doanh nghiệp (cả Nhà nước và tư nhân) hoạt động. Trong đó
Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil)
chiếm thị phần lớn. Trong đó, Petrolimex chiếm 48 - 50% thị phần, PV Oil chiếm 15 16%.
- Sở dĩ có thị phần này, là do trước kia việc nhập khẩu xăng dầu cho các nhu cầu
dân sự của nền kinh tế chủ yếu là do Petrolimex và PV Oil thực hiện. Và để từng bước
khắc phục sự bất cập trong việc doanh nghiệp chiếm thị phần lớn chi phối, từ năm
2011, Chính phủ đã thực hiện cổ phần hóa công ty mẹ Petrolimex. Thời gian tới sẽ tiếp
tục thực hiện việc sắp xếp, tái cơ cấu với tập đoàn này.
2.2. Các yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến ngành xăng dầu (E).
- Thị trường xăng dầu Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào thế giới:
Xăng dầu tiêu dùng trong nước hiện nay chủ yếu phải nhập khẩu, giá trong nước
phụ thuộc vào sự biến động của giá thị trường thế giới. Giá xăng dầu thế giới luôn dao
động và tăng ở mức cao do tình hình bất ổn chính trị ở Trung Đông và Bắc Phi. Một số
dự báo cho rằng giá dầu thô trong thời gian tới có khả năng tiếp tục tăng do tình hình
thế giới tiếp tục bất ổn và nhu cầu sử dụng trong mùa đông tăng cao. Trên thị trường


Singapore – thị trường cung cấp sản phẩm xăng dầu chủ chốt của nước ta cũng có diễn
biến rất thất thường.

(Nguồn: Petrolimex)
- Phân phối xăng dầu còn mang tính độc quyền:
+ Thực hiện nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 Chính phủ, chúng ta đã
có 13 đầu mối nhập khẩu xăng dầu và phân phối xăng dầu bao gồm cả tư nhân, về cơ
bản đã đáp ứng được nhu cầu xăng dầu cho nhu cầu sản xuất và đời sống trong nước.
+ Độc quyền trong ngành xăng dầu có tính lịch sử. Trước đây, tất cả các yêu cầu
xăng dầu do Tổng công ty xăng dầu đảm nhận, đến nay chúng ta cho phép doanh
nghiệp đầu mối khác. Nhưng do vai trò của Tổng công ty xăng dầu và hệ thống phân

phối hình thành nhiều năm nay, nên thị phần phân phối của Petrolimex chiếm khoảng
60% - là lực lượng chủ lực trong đáp ứng nhu cầu xăng dầu cả nước. Nếu không có tập
đoàn/tổng công ty nhà nước vì lợi ích đất nước, chịu lỗ, theo yêu cầu Chính phủ trước
yêu cầu của đời sống nhân dân họ vẫn duy trì hoạt động.
+ Theo Nghị định 84, hiện nay việc đa dang hóa các hình thức phân phối xăng dầu,
thành phần tham gia vào ngành xăng dầu bước đầu thực hiện. Tuy nhiên, đó vẫn là các
doanh nghiệp trong nước và do nhà nước điều tiết, chưa có sự tham gia của các doanh
nghiệp nước ngoài.


- Hoạt động kinh doanh xăng dầu còn nhiều bất cập: Qua kết quả kiểm tra của Ban
chỉ đạo 127 Trung ương, Chi cục Quản lý thị trường các tỉnh, thành phố trên cả nước
trong việc chấp hành các quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009
của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu đã phát hiện một số tồn tại như: một số doanh
nghiệp đầu mối, tổng đại lý ký hợp đồng đại lý với các tổng đại lý, đại lý không đủ
điều kiện; có nhiều doanh nghiệp thực hiện mua bán xăng dầu với nhiều đầu mối, mua
bán xăng dầu ngoài hệ thống phân phối của mình; doanh nghiệp đầu mối, tổng đại lý
thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, kiểm soát các đơn vị trong hệ thống phân phối
của mình; phần lớn doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ việc đăng ký hoặc chậm đăng
ký hệ thống phân phối…
- Điều hành giá xăng dầu nửa vời:
+ Hai nút thắt lớn nhất là điều kiện kinh doanh của hệ thống phân phối xăng dầu bị
bó hẹp và cào bằng giá bán lẻ. Mặc dù đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế được tham gia kinh doanh xăng dầu; đồng thời trao cho DN quyền được
định giá bán lẻ theo cơ chế thị trường, dựa trên công thức tính giá chung do Nhà nước
quy định. Tuy nhiên, từ khi thực hiện đến nay, diễn biến giá xăng dầu lúc tăng vọt như
con ngựa bất kham, khi “đông cứng” trái ngược với xu hướng giá thế giới. Theo chỉ
đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương đang phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu,
chuẩn bị xây dựng nghị định sửa đổi bổ sung thay thế Nghị định 84 và các thông tư
hướng dẫn thực hiện.

+ Còn tồn tại thị trường ngầm trong kinh doanh xăng dầu: Các doanh nghiệp có
đăng ký kinh doanh xăng dầu đều được tham gia thị trường nhưng lại chỉ được thực
hiện cơ chế mua bán 1+1. Tức là tổng đại lý chỉ được ký hợp đồng với một doanh
nghiệp đầu mối, đại lý chỉ được ký hợp đồng bán lẻ xăng dầu cho một tổng đại lý hoặc
một doanh nghiệp và chỉ được mua bán xăng dầu với các doanh nghiệp trong cùng hệ
thống phân phối. Quy định này hạn chế việc tự do kinh doanh của các tổng đại lý, đại
lý vì triệt tiêu quyền lựa chọn đối tác có giá cả cạnh tranh cũng như có điều kiện cung
ứng hàng tốt nhất. Quan trọng hơn, không có tự do thương mại thì không thể có giá thị
trường.
+ Bỏ lỡ cơ hội giảm giá: Quy định giá bán xăng dầu được thực hiện theo cơ chế thị
trường song công thức tính giá cơ sở thì chưa phải là giá cạnh tranh. Về nguyên tắc thì
xăng dầu là mặt hàng thuộc danh mục bình ổn và giá do doanh nghiệp quyết định


nhưng thực chất, Nhà nước vẫn khống chế giá bán lẻ. Thay vì khống chế giá tối đa như
trước đây, cơ quan quản lý khống chế giá bằng tỉ lệ tối đa.
2.3. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến ngành xăng dầu (S).
- Sự gia tăng dân số:
+ Tốc độ tăng dân số khá nhanh đặc biệt là ở hai khu vực đô thị lớn nhất là Hà Nội
và TP.Hồ Chí Minh. Theo số liệu của Tổng cục thống kê vừa công bố, dự báo năm
2012 dân số Việt Nam sẽ vượt ngưỡng 88 triệu người tăng 1.04% so với năm 2010 bao
gồm: dân số nam 43,47 triệu người, chiếm 49,5 tổng dân số cả nước, tăng 1,1%; dân
số nữ 44,37 triệu người, chiếm 50,5%, tăng 0,99%. Dân số khu vực thành thị là 26,88
triệu người, chiếm 30,6% tổng dân số cả nước, tăng 2,5% so với năm 2010; dân số khu
vực nông thôn chiếm 60,96 triệu người, chiếm 69,4%, tăng 0,41%.
+ Theo viện nghiên cứu phát triển TP Hồ Chí Minh và đại diện ngân hàng Thế giới
tại Việt Nam vừa công bố báo cáo đánh giá đô thị hóa tại Việt nam. Ông Dean Cira,
chuyên gia trưởng về đô thị của Ngân hàng Thế giới cho rằng, Việt Nam đang ở giai
đoạn đầu của đô thị hóa và chuyển dần sang giai đoạn giữa. Tỉ lệ dân đô thị trên toàn
quốc tăng 3.4 % /năm so với 34% dân số Việt Nam sống ở đô thị. Khoảng 20 - 30 năm

nữa dân số Việt nam sẽ sống ở thành thị.
- Thu nhập bình quân đầu người:
+ Tính theo tỷ giá hối đoái, GDP đầu người của Việt Nam đã tăng từ mức 114 USD
năm 1991 lên 1.061 USD năm 2010. Đến năm 2012 thì tốc độ tăng trưởng kinh tế
(GDP) tăng 5,2%, đưa quy mô nền kinh tế đạt khoảng 136 tỷ USD, với thu nhập bình
quân đầu người đạt khoảng 1.540 USD/người/năm.
+ Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với
Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore. Tốc độ tăng dân số
của Việt nam là khá cao nhưng thu nhập trung bình của người Việt Nam vẫn còn
khoảng cách rất xa so với các nước trong ASEAN và Trung Quốc, dù đã được cải thiện
nhiều do đổi mới và mở cửa cách đây hơn một phần tư thế kỷ. Trong khi đó, cơ hội để
Việt Nam đuổi kịp Trung Quốc và các nền kinh tế ASEAN sẽ vẫn là viễn cảnh xa vời,
nếu thiếu đi những động lực cải cách hơn nữa. Bên cạnh đó, so với các quốc gia
ASEAN khác, dù thu nhập của người Việt Nam đã dần được thu hẹp trong 20 năm
qua, khoảng cách vẫn còn rất lớn ở vào thời điểm hiện tại. Tiến sĩ Phạm Hồng Chương


và các đồng sự ở ĐH Kinh tế Quốc dân cho biết, GDP bình quân đầu người của Việt
Nam theo PPP chưa bằng 1/2 của Philippines, hay Indonesia, khoảng 1/5 của Thái Lan,
1/10 của Malaysia năm 1991. Con số này đã vượt qua mức 3/4, 1/3 và 1/5 của các
nước trên sau gần 20 năm.
- Sự tăng trưởng về đời sống vật chất và tinh thần:
+ Trong những năm gần đây, việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập với nền
kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới đã làm cho nền kinh tế Việt Nam
phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Sự phát triển của nền kinh tế đã có
ảnh hưởng trực tiếp tích cực đến đời sống của người dân. Đời sống của người dân đã
dần dần phát triển và từng bước cải thiện và nâng cao rõ rệt.
+ Nếu như ở Việt nam khoảng một hai thập niên trước đây, chiếc xe gắn máy mang
tính thiểu số được vị nể với tư các là một sản phẩm tân kỳ, một tài sản lới hơn là một
phương tiện giao thông thì trong những năm gần đây,chiếc xe gắn máy đã trở nên phổ

biến hơn và hầu như trở thành một phương tiện giao thông của đại đa số người dân.
Hiện nay có những gia đình có 1,2 thậm chí có đến 3, 4 chiếc xe gắn máy trong nhà.
- Tốc độ cơ giới hóa:
+ Trong cơ cấu tham gia giao thông đô thị ở Việt nam, xe gắn máy chiếm vị trí đầu
bảng với tỷ lệ khoảng 61%, nghĩa là cứ 10 người dân thì có tới 6 người sử dụng xe
máy. Chỉ riêng ở TP Hồ Chí Minh đã có 5 triệu xe máy, ở Hà Nội thì con số này xấp xỉ
3 triệu, còn không kể đến một số lượng xe không nhỏ ở các vùng khác.
+ Theo thống kê vào tháng 8/2011 của Bộ Giao thông Vận tải thì số lượng xe máy
đang lưu hành trên thị trường đã đạt đến 33,4 triệu chiếc và sẽ còn tiếp tục tăng trong
tương lai. Số lượng ôtô hiện nay vào khoảng 1,5 triệu chiếc...
- Nhu cầu và thói quen tiêu dùng:
+ Qua những phân tích và con số nêu trên ta có thể thấy nhu cầu sử dụng xăng dầu
là rất lớn và xăng dầu là một mặt hàng thiết yếu trong cuộc sống của người dân Việt
Nam. Hành vi tiêu dùng xăng của người dân Việt Nam khá đơn giản khi quyết định
chọn loại xăng sử dụng, mức độ người tiêu dùng chịu ảnh hưởng từ phía người bán và
mọi người là khá cao. Người tiêu dùng có quan tâm đến việc tìm kiếm các thông tin có
liên quan trong tiêu dùng nhưng mức độ quan tâm của họ không nhiều. Các tiêu chí
được người tiêu dùng quan tâm để so sánh giữa các cửa hàng là cửa hàng nhà nước,


cửa hàng có vị trí thuận lợi cho xe dừng, cửa hàng bán xăng đúng chất lượng, cửa hàng
có nhân viên phục vụ vui vẻ nhanh và cửa hàng bán xăng đủ số lượng.
+ Tuy nhiên, phần lớn người tiêu dùng rất ít nhận được mức độ hài lòng tối ưu so
với các tiêu chí của họ. Song trước khi đi xa, đại bộ phận người tiêu dùng đều quyết
định đến với cửa hàng xăng dầu thường để đổ xăng dự phòng. Thực trạng giá xăng
tăng không làm cho người tiêu dùng phản ứng nhiều đối với việc phải hạn chế sử dụng
xe gắn máy lại.
+ Cách thức đổ xăng phổ biến nhất của người tiêu dùng là đổ theo túi tiền hay theo
một mức tiền cố định. Hành vi sau khi mua của người tiêu dùng không quá phức tạp,
tỷ trọng giữa nhóm có quan tâm so sánh về chất lượng cũng như số lượng không có sự

cách biệt đáng kể. Tuy nhiên người tiêu dùng đã bị mất lòng tin đối với chất lượng
phục vụ của ngành xăng dầu, có quá nhiều các vụ cháy và nổ ô tô, xe máy trên cả nước
mà nguyên nhân chính là chất lượng xăng dầu. Xăng dầu đã bị pha thêm các chất phụ
gia khác để tăng lợi nhuận.
2.4. Các yếu tố công nghệ, kỹ thuật ảnh hưởng đến ngành xăng dầu (T).
- Tiêu chuẩn xăng dầu:
+ Hiện tại, tiêu chuẩn nhiên liệu xăng dầu của Việt Nam mới chỉ tương đương với
tiêu chuẩn Euro II, tức là xăng Việt Nam vẫn có hàm lượng lưu huỳnh tới 500 ppm,
benzen 2,5% và áp suất Reid là từ 43-75 kPa.
+ Đối với dầu diesel, loại sử dụng cho phương tiện giao thông có hàm lượng lưu
huỳnh cao nhất là 500ppm còn loại sử dụng trong công nghiệp có hàm lượng lưu
huỳnh là 0,25%.
+ Việt Nam đã áp dụng các tiêu chuẩn nhiên liệu xăng dầu Euro II từ tháng Giêng
năm 2007, tuy nhiên cho tới nay, Bộ Khoa học và Công nghệ vẫn chưa hoàn thành
xong các chỉ số hàm lượng tiêu chuẩn cho xăng và dầu diesel.
+ Theo hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn khí thải Euro, với tiêu chuẩn Euro III, hàm
lượng lưu huỳnh cho xăng và dầu diesel được xác định lần lượt không quá 150 ppm và
350 ppm. Cao hơn là tiêu chuẩn Euro IV với hàm lượng lưu huỳnh cho cả hai loại
nhiên liệu không vượt quá 50 ppm. Tiêu chuẩn Euro V là tiêu chuẩn cao nhất hiện nay
với quy định hàm lượng lưu huỳnh dưới 10 ppm.


- Chất lượng lượng xăng dầu:
+ Theo ước tính, hiện nay trên cả nước có khoảng 13.000 đại lý xăng dầu. Trong số
đó, khoảng 3.000 cửa hàng là trực thuộc các đầu mối. 10.000 đại lý còn lại, chiếm đến
75% là mạng lưới các DN tư nhân.
+ Vấn đề nổi cộm trong nghành xăng dầu hiện nay là việc gian lận xăng dầu bằng
nhiều cách như: đong đo gian lận, pha trộn xăng dầu chất lượng kém. Đây là vấn đề
nóng hổi mà gần đây các cơ quan chức năng cũng như báo chí đã can thiệp và điều
phối nhằm hạn chế tối đa tình trạng này. Mặc dù đã có những chế tài (quy định hiện

hành tại Nghị định 104/2011/NĐ-CP) quy định các hình thức xử lý đối với việc gian
lận xăng dầu xong dường như cũng chưa loại bỏ được hoàn toàn tình trạng này.
- Loại bỏ xăng A83, chuyển sang sử dụng A92 và A95:
+ Theo nguồn tin của VnExpress (21/12/2012), Bộ khoa học Công nghệ và Bộ
Công Thương đã thống nhất trình Thủ Tướng phương án không sử dụng loại xăng A83
trên thị trường. Theo 2 bộ, việc sử dụng nhiều loại xăng trên thị trường, trong đó có
xăng A83 sẽ là cơ hội cho gian lận thương mại, vì vật việc ngừng sản xuất sẽ tạo tâm
lý an toàn hơn cho người dân.
+ A83 là dòng xăng có chỉ số octan thấp là 83% nếu đem trộn A83 vào A92 hoặc
A95, trị số octan của xăng sẽ giảm, động cơ xe sẽ nhanh chóng bị nóng, tăng hảo mồn,
nhanh dẫn tới hư hỏng động cơ.
+ Xăng A83 chứa nhiều lưu huỳnh và tạp chất nên khi sử dụng sẽ xả thải ra nhiều
khí S02 gây ô nhiễm môi trường.
+ Các phương tiện sử dụng loại xăng này rất ít (1 số loại xe công nghệ cũ trong
quân đội và các loại ghe thuyền ở Nam Bộ) vì thế mức tiêu thụ cũng rất ít sẽ dấn đến
tình trạng gian lận chất lượng xăng dầu.
- Như chúng ta đã biết, dầu lửa là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái
tạo được nhưng nhu cầu sử dụng của con người thì ngày càng tăng lên. Trong tương lai
năm, mười năm nữa nguồn cung cấp dầu thô cho thế giới sẽ không tăng lên bằng sức
gia tăng của nhu cầu dùng nhiên liệu này. Hai khối dân lớn nhất thế giới ở Trung Quốc
và Ấn Ðộ càng ngày càng tiêu thụ nhiều xăng dầu hơn. Sắp tới ngày hơn một tỷ dân
của mỗi nước này sẽ dùng nhiều dầu lửa hơn dân Mỹ.


- Có thể nói là thế giới sẽ còn đủ dầu lửa dùng trong 100 năm nữa, dù mỗi ngày
bơm lên 100 triệu thùng, so với số sản xuất hiện nay khắp thế giới mới có 86 triệu
thùng một ngày nhưng đã đến lúc chúng ta cần giảm lượng dầu bơm lên mỗi ngày để
bắt đầu tiết kiệm năng lượng.
- Kỹ thuật khai thác hiện nay chỉ lấy được một phần ba số dầu dự trữ trong các mỏ
dầu dưới đất; những loại khác như trong cát, lấy được với tỷ lệ thấp hơn. Nhưng kinh

nghiệm cho thấy thế nào kỹ thuật cũng được cải tiến, cho nên chúng ta yên tâm hơn. Ở
nước ARap Saudi, nơi chứa một phần tư số dầu dự trữ của trái đất, kỹ thuật thay đổi đã
giúp nhiều mỏ dầu lấy được hai phần ba số dầu dưới đất thay vì một phần ba, tức là
tăng gấp đôi.
- Một yếu tố sẽ khiến số dầu tiêu thụ giảm bớt khi giá lên cao là các nguồn năng
lượng mới. Brazil cũng là nước đang phát triển việc chế tạo ethanol bằng đường, để
pha vào xăng, với tỷ lệ cao nhất thế giới. Hiện nay người ta chưa sản xuất ethanol
nhiều vì “xăng còn rẻ!” Nhưng khi xăng lên giá thì việc sản xuất ethanol sẽ lên cao
hơn, nhu cầu dùng dầu thô sẽ giảm đi. Ngoài ra, vì giá xăng lên các công ty sản xuất
xe hơi sẽ chế nhiều xe dùng điện chung với xăng, giảm bớt áp lực trên giá dầu.
- Nhận thức được tiềm năng thị trường Việt Nam, một số doanh nghiệp trong nước
đã tiến hành đầu tư xây dựng các nhà máy ethanol tại các địa phương có nhiều nguyên
liệu. Một số công ty nước ngoài đến từ Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc cũng
đang đẩy mạnh việc tìm kiếm đối tác đầu tư trong nước. Các doanh nghiệp tư nhân
Việt Nam xây dựng nhà máy sản xuất ethanol thường là các nhà kinh doanh sắn lát
khô hoặc sản xuất tinh bột sắn có mối quan hệ với địa phương và có kinh nghiệm trong
việc thu mua nguyên liệu. Đa số các doanh nghiệp này sử dụng công nghệ sản xuất
ethanol từ Trung Quốc với chi phí đầu tư thấp, đặc biệt là chi phí đầu tư cho hệ thống
xử lý chất thải. Tuy nhiên cho tới thời điểm hiện nay chưa có doanh nghiệp nào xây
dựng và vận hành thành công nhà máy sản xuất ethanol nhiên liệu.
- Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đã đi tiên phong trong việc đầu tư xây dựng
và phân phối nhiên liệu sinh học ở Việt Nam. Các công ty thành viên của Tập đoàn đã
đầu tư ba nhà máy ethanol tại ba miền Bắc, Trung, Nam với công suất mỗi nhà máy
100 triệu lít một năm đủ để cung cấp cho nhu cầu ethanol pha xăng trong tương lại ở
Việt Nam. Các nhà máy ethanol của Tập đoàn sử dụng công nghệ tiên tiến của Mỹ và
Ấn độ. Các công nghệ này đã được thực tế kiểm chứng mức độ thành công và hiệu quả
tại Thái Lan.


- Bảng tóm tắt các dự án xây dựng Nhà máy ethanol nhiên liệu tại Việt Nam như sau:

Tên nhà máy

Công suất

Ngày hoạt động

Chủ đầu tư

Tiến độ

dự kiến
Nhà máy Đại Lộc,

100

Quảng Nam

Triệu lít/năm

Nhà máy Cư-Dút,

50

Đắc Nông

Triệu lít/năm

Nhà máy Tam Nông,

100


Phú Thọ

Triệu lít/năm

Tháng 3/2009 Công ty Đồng Xanh Đang hoàn thành lắp đặt máy

Tháng 12/2008

Triệu lít/năm

Tháng 6/2011

Triệu lít/năm

PV OIL

hợp đồng EPC

Petrosetco, NMLD
Tháng 7/2011

Bình Sơn thuộc

Đã động thổ khởi công ký

Petrovietnam

hợp đồng EPC


Liên doanh

100
Nhà máy Bình Phước

Đang chạy thử

Công ty PVB, thuộc Đã động thổ khởi công ký

100
Nhà máy Dung Quất

Công ty Đại Việt

ITOCHU Nhật bản Dự kiến quý I năm 2010 ký
Tháng 7/2011

và PV OIL

hợp đồng EPC và khởi công

- Ngoài ra Tổng Công ty Dầu Việt Nam cũng ký biên bản hợp tác với Nhà máy
Đường Lam Sơn và một đối tác của Nga để nghiên cứu đầu tư xây dựng nhà máy sản
xuất butanol sử dụng làm nhiên liệu tại Việt Nam...
II/ PHÂN TÍCH CÁC LỰC LƯỢNG CẠNH TRANH CỦA NGÀNH XĂNG
DẦU (THEO MÔ HÌNH MICHAEL E. PORTER, 1980S) TẠI DOANH NGHIỆP
XĂNG DẦU THÀNH LINH:
1. Mô hình các lực lượng cạnh tranh của Michael E.Porter:



2. Giới thiệu về doanh nghiệp Xăng dầu Thành Linh:
2.1. Giới thiệu về công ty:
- Tên công ty: Công ty TNHH Thành Linh, với thương hiệu Xăng dầu “XUÂN
TIẾN”.
- Địa chỉ : Km 44 Quốc lộ 2 xã Tân Tiến Huyện Vĩnh Tường Tỉnh Vĩnh Phúc.
- Ngày thành lập : 15 tháng 5 năm 2003.
- Giấy phép kinh doanh số: 0913366976 so Sở kế hoạch – Đầu tư tỉnh vĩnh Phúc
cấp ngày 15/5/2003.
- Vốn điều lệ ban đầu là 40 tỷ đồng .
- Số điện thoại/ Fax : 0211.38218.

(Hình ảnh mặt bằng kinh doanh của Công ty xăng dầu Thành Linh)
2.2. Ngành nghề kinh doanh chính:
- Mua bán xăng dầu.
- Mua bán, sửa chữa ô tô các loại.
- Nuôi chuột phục vụ thí nghiệm và sản xuất vắc xin viêm não Nhật Bản....
- Hình thức kinh doanh: Bán lẻ.
3. Phân tích các lực lượng cạnh tranh với Doanh nghiệp xăng dầu Thành
Linh:
3.1. Khách hàng (quyền lực mặc cả):


- Khác với các ngành kinh doanh khác như Bảo hiểm, Ngân hàng, lương thực thực
phẩm... thì quyền lực mặc cả thuộc về khách hàng, khách hàng có quyền mặc cả, lựa
chọn nhà cung cấp dịch vụ phù hợp với nhu cầu của mình. Tuy nhiên, với ngành kinh
doanh xăng dầu thì giá cả đã được các cơ quan quản lý nhà nước ấn định và doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu chỉ là kênh phân phối hàng hóa đến người tiêu dùng nên
quyền lực mặc cả không thuộc về khách hàng.
- Quyền lực của khách hàng được thể hiện duy nhất ở đây thông qua việc có thể lựa
chọn mua hàng hóa (xăng dầu) của doanh nghiệp xăng dầu Thành Linh hoặc mua của

các doanh nghiệp khác trên địa bàn.
- Do hình thức kinh doanh của Công ty Thành Linh là bán lẻ xăng dầu và trụ sở
Công ty nằm trên mặt đường Quốc lộ 2 đi các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang,
Hà Giang... nên khách hàng là người dân trên địa bàn, là khách đi đường liên tỉnh, là
các cơ quan đóng trên địa bàn, các công ty có máy móc công trình, là các tàu thủy ở
cảng sông Hồng, là những nhà máy trong các khu công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc...
3.2. Đối thủ cạnh tranh hiện tại:
- Đối thủ cạnh tranh của Doanh nghiệp Xăng dầu Thành Linh là các doanh nghiệp,
cửa hàng tư nhân kinh doanh xăng dầu trên cùng địa bàn. Tuy nhiên, doanh nghiệp có
nhiều lợi thế mà các doanh nghiệp khác không có được:
+ Vị trí của công ty là trung tâm tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh phúc là một tỉnh vùng châu
thổ sông Hồng phía bắc của Việt Nam. Thành phố Vĩnh Yên cách Hà Nội 50 km và
cách Sân bay Quốc tế Nội Bài 30 km.
+ Trụ sở của Công ty nằm trên mặt đường Quốc lộ 2 đi các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú
Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang... và ngược lại là vị trí là cửa ngõ đi Hà Nội và các tỉnh
của vùng châu thổ sông Hồng và nằm gần vùng kinh tế trọng điểm phía bắc Hà Nội.
+ Mặt bằng kinh doanh rộng 30.000m2 với 500m mặt đường, hệ thống bể chứa lớn.
Vì vậy công ty Thành Linh rất có lợi thế về lĩnh vực kinh doanh xăng dầu.
3.3. Đối thủ cạnh tranh tiền năng tương lai:
- Là những đối thủ sẽ ra nhập ngành kinh doanh xăng dầu trên cùng địa bàn trong
tương lai. Tuy nhiên, đây là ngành kinh doanh có điều kiện nên các doanh nghiệp
muốn tham gia cũng rất khó. Đây là ngành kinh doanh đòi hỏi rất nhiều điều kiện cũng
như mặt bằng kinh doanh.
- Các điều kiện để thành lập doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu hiện tại:
+ Thành lập công ty, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân (tư cách pháp nhân) và phải
có ngành nghề kinh doanh xăng xầu trong giấy phép kinh doanh.


- Có hồ sơ đầy đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu bao gồm: Đơn đề nghị cấp
Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh (CN ĐKKD) xăng dầu; Bản sao hợp lệ

Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp chủ sở hữu cửa hàng, trạm
bán lẻ xăng dầu; Tài liệu chứng minh cửa hàng có mặt bằng kinh doanh; Bản kê trang
thiết bị cửa hàng, trạm bán lẻ xăng dầu; Đào tạo nghiệp vụ, kiểm định, phòng chống
cháy nổ...
+ Ngoài ra, một điều kiện rất khó nữa là địa điểm dự kiến mở cửa hàng (cây xăng)
kinh doanh xăng dầu nằm trong quy hoạch được phép mở cây xăng của Ủy ban nhân
dân thành phố hoặc sở công thương địa phương....
Đây là những điều kiện rất khó cho những doanh nghiệp mới muốn tham gia kinh
doanh xăng dầu để cạnh tranh với công ty trên cùng địa bàn.
3.4. Nhà cung ứng (quyền lực của nhà cung cấp):
- Hiện nay, quy định của Nhà nước chỉ cho phép tổng đại lý chỉ được ký hợp đồng
với một doanh nghiệp đầu mối, đại lý chỉ được ký hợp đồng bán lẻ xăng dầu cho một
tổng đại lý hoặc một doanh nghiệp và chỉ được mua bán xăng dầu với các doanh
nghiệp trong cùng hệ thống phân phối. Quy định này hạn chế việc tự do kinh doanh
của các tổng đại lý, đại lý vì triệt tiêu quyền lựa chọn đối tác có giá cả cạnh tranh cũng
như có điều kiện cung ứng hàng tốt nhất.
- Doanh nghiệp xăng dầu Thành Linh là một đại lý lớn của Tổng công ty xăng dầu
Quân đội MIPECO ( MIPECORP) trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Vì vậy, doanh nghiệp
đã nhận được nhiều ưu đãi từ nhà cung cấp như thời gian cung ứng hàng, số lượng đặt
hàng, thời hạn thanh toán... tuy nhiên, doanh nghiệp cũng phải chịu những điều kiện
kinh doanh như những doanh nghiệp khác (giá bán, chất lượng hàng hóa....). Vì vậy,
quyền lực vẫn thuộc về nhà cung cấp.
3.5. Sản phẩm thay thế:
- Hiện nay xăng dầu vẫn là nhiên liệu chính trong tất cả các máy móc công nghệ
trên thế giới. Trong tương lai đã nhà nghiên cứu cũng đang sản xuất sản phẩm thay thế
như chiết xuất nhiên liệu thay thế xăng dầu từ giấy phế liệu, xăng sinh học, nhiên liệu
Ethanol, động cơ xăng điện....
- Tuy nhiên, thời gian nghiên cứu còn dài, số lượng máy móc sử dụng được những
công nghệ mới còn hạn chế.
- Tâm lý người dân khi sử dụng các sản phẩm mới còn e ngại vì chưa được chứng

minh nhiều trong thực tế.


- Dầu lửa là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái tạo được. Có nhiều dự
báo khác nhau về trữ lượng dầu lửa trên thế giới, tuy nhiên để khai thác cạn nguồn dầu
lửa cũng như sản xuất được các sản phẩm thay thế cũng như máy móc công nghệ
tương ứng thì thế giới phải mất hàng trăm năm nữa. Vì vậy, trong thời gian tới, xăng
dầu vẫn là nhiên liệu chính của nền kinh tế.
KẾT LUẬN:
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế chính sách của Nhà nước, tuy nhiên
xăng dầu vẫn là một mặt hàng thiết yếu, thời gian kinh doanh dài, có hiệu quả cao và
đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp nên rất nhiều doanh nghiệp muốn tham gia
nhưng rào cản là rất lớn. Với những lợi thế sẵn có của mình, doanh nghiệp xăng dầu
Thành Linh sẽ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, đưa sản phẩm xăng dầu đến
tay người tiêu dùng và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.



×