Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

ƯU TIÊN TRONG vấn đề GIÁO dục TRẺ tự kỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.83 KB, 8 trang )

ĐÂU LÀ ƯU TIÊN SỐ MỘT TRONG VẤN ĐỀ GIÁO DỤC TRẺ TỰ KỶ

Nhằm giới thiệu và trình bày về Hội Chứng Tự Kỷ tôi đã lần lượt xuất bản
ba tác phẩm khác nhau.
Cuốn sách thứ nhất mang tựa đề « Trẻ Em Tự Kỷ », xuất bản lần đầu tiên
vào năm 2005, trên các tờ báo thông tin vi tính, ở trong và ngoài Nước. Một
cách đặc biệt trong tác phẩm nầy, tôi đã khảo sát 5 triệu chứng, nhằm giúp
đỡ cha mẹ và những những người có liên hệ xa gần, trong vai trò phát hiện
những trẻ em mang hội chứng tự kỷ, từ những giây phút đầu tiên, khi một
vài rối loạn vừa mới thoáng lộ diện.
Càng phát hiện sớm, như tôi đã nhấn mạnh, chúng ta càng hội tụ nhiều cơ
may, khả dĩ giúp đỡ những trẻ em nầy mau chóng thích nghi với đời sống và
môi trường xã hội.
Hẳn thực, từ 0 đến 6 tuổi, trẻ em đang còn ở trong giai đoạn tăng trưởng và
phát triển, trên mọi bình diện, thuộc đời sống cơ thể cũng như trong đời sống
xã hội, từ những sinh hoạt vui đùa với bạn bè cùng trang lứa đến những qui
luật cần tuân hành ở môi trường học đường…Cũng trong thời gian và lứa
tuổi nầy, hệ thần kinh trung ương hay là não bộ, với ba giai tầng khác nhau
là Thân Não (Brainstem), Hệ Viền (Limbic) và Tân Vỏ Não (Neocortex),
còn ở trong tình trạng mềm dẽo, dễ uốn nắn và điều chỉnh. Thậm chí những
chương trình mang tên là bẩm sinh hay di truyền còn tùy thuộc vào khả năng
tác động của môi trường giáo dục gia đình. Những quan hệ của cha mẹ,
giống như nước tưới, đất màu hay là ánh sáng mặt trời, có thể mở ra hai con
đường : làm cho hạt giống bẩm sinh phát triển thành cây lớn mạnh, hay là
tàn lụi ung thối, vì không hội tụ đầy đủ điều kiện dưỡng sinh thuận lợi.
Cuốn sách thứ hai, xuất bản vào năm 2006, với tựa đề « Nguy Cơ Tự Kỷ , từ
0 đến 7 tuổi », đề xuất hai mục đích rõ rệt :
Thứ nhất, để can thiệp một cách khoa học và hữu hiệu, nghĩa là có khả năng
mang lại những thành quả cụ thể và khách quan, cho con em đang có những
rối loạn thuộc hội chứng tự kỷ, chúng ta cần cưu mang trong nội tâm, thái độ
sáng suốt và tỉnh thức. Người làm cha mẹ, các giáo viên cũng như chuyên


viện thuộc nhiều ngành ngề khác nhau, không thể « chầm chày may rủi »,
nhắm mắt đưa chân, áp dụng một cách máy móc tự động những chương
trình có sẵn trong tầm tay, hay là những phương pháp trừng trị và ức chế.
Tư duy cấu trúc, trái lại, đề nghị chúng ta hãy ý thức một cách sáng suốt :
Tôi đang ở đâu ? Bắt đầu từ khởi điểm nào ? Đi đến đâu ? Đi con đường
nào ? Vì lý do gì ? Đi với phương tiện nào ? Đi theo những bước tiến lên từ
dễ đến khó như thế nào ? Sau một thời gian tác động hay là can thiệp, chúng
ta cần làm gì, nhằm đánh giá công việc và kết quả ? Khi nhận thấy mình đã


đi sai đường, chúng ta sẽ vận dụng những biện pháp chuyển hóa như thế
nào ?
Một câu hỏi cuối cùng, nhưng rất quan trọng mà chúng ta thường bỏ quên,
nằm trong lãnh vực xúc động : chúng ta thực hiện bao nhiêu động tác đi lên
ấy, với một thái độ và tâm trạng như thế nào ? Hạnh phúc và thoải mái, an
lạc và tự tin ? Hay là xao xuyến, căng thẳng và loạn động, nhất là với một ý
đồ toàn năng, siêu ý định và siêu ý chí ? Cho nên, chúng ta có xu thế áp đặt
từ ngoài và từ trên, những chương trình phản ảnh tham vọng của chúng ta,
thay vì lắng nghe, tìm hiểu nhu cầu chính đáng của trẻ em.
Ngoài ra – đây là mục đích thứ hai của tác phẩm – mỗi trẻ em tự kỷ là một
thế giới đặc thù và riêng biệt. Vừa khi ra khỏi lòng mẹ, và thậm chí trong lúc
còn ở trong tử cung, bất kỳ trẻ em nào không phải là một loại « vườn không
nhà trống ». Chúng ta muốn trồng gì vào đó, thì trồng. Xây gì lên trên ấy, thì
xây. Trái lại, trong mỗi tế bào thần kinh của não bộ, thể theo lối nhìn và kết
quả nghiên cứu công phu của tác giả Douglas M. ARONE, bao nhiêu
chương trình đã được cài đặt và khắc sâu đậm nét.
Trong tầm tay và điều kiện cụ thể của mình, môi trường có trách nhiệm làm
những gì, từ khi trẻ em vừa sinh ra chào đời ?
- Trước hết, để vun tưới và củng cố những chương trình cần củng cố và vun
tưới ?

- Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi, để chuyển hoá, uốn nắn lại hay là điều
chỉnh những gì đã bắt đầu có hướng đi lệch lạc ?
- Sau cùng, khi mầm mống tự kỷ đã có mặt, môi trường có thể làm được
những gì tức khắc, không chần chờ, hẹn rày hẹn mai, để cản trở mầm mống
ấy ngày ngày trở nên một cây cổ thụ, « một sự đã rồi », lúc trẻ em lên 7
tuổi ?
Môi trường là ai, nếu không phải là chính chúng ta tất cả, không trừ sót một
ai ?
Thay vì xuyên qua liếc nhìn lẫn tránh hay là lời nói xiên xẹo, nhằm đổ lỗi, tố
cáo cho các bậc làm cha mẹ … ai trong chúng ta cảm thấy mình có vai trò
nâng đỡ các bà mẹ trẻ đang khổ đau, tê liệt ? Phải chăng chúng ta hãy bước
lại gần, giải thoát những mặc cảm tội lỗi vô căn cứ, đang đè nặng lên tâm tư
của họ ?
Ngoài ra, nhằm chu toàn ba trách vụ vừa được nói tới, là : Vun tưới, Chuyển
hóa và Cản trở, chúng ta không thể không học.
Học nhìn đứa con, với một lối nhìn trinh nguyên, trong trắng, chưa có
vết tích của khổ đau bóp méo và xuyên tạc.
Học nghe đứa con, với vành tai xôn xao, chưa vướng mắc vào một nỗi
lo sợ đang trấn áp mọi sức sống vươn lên.


Học tiếp xúc và trao đổi, thậm chí với đứa con đang gặp những khó
khăn lớn lao, trong lãnh vực quan hệ xã hội thông thường, hằng ngày.
Hẳn thực, trước khi có khả năng phát huy ngôn ngữ đang được sử dụng
trong môi trường gia đình, phải chăng đứa bé sơ sinh đã « chuyện trò » với
người mẹ bằng cách nầy hay cách khác, bắt đầu với « tiếng khóc chào đời ».
Trong câu chuyện đầu tiên ấy, phải chăng đứa con đã được đón nhận và chấp
nhận vô điều kiện, với tư cách là một con nguời toàn bích và toàn diện, đang
từ từ mở ra cánh cửa nội tâm, để thu hóa những đóng góp của môi trường và
thế giới bên ngoài ? Mỗi đứa con có một tốc độ nhanh hay chậm khác nhau.

Một gốc tre, chẳng hạn, từ ngày được trồng xuống lòng đất, phải đợi chờ
chung quanh 3 năm, mới có thể nảy ra một chồi măng đầu tiên. Một người tự
kỷ cũng vậy, giống như trường hợp của Sean BARON, phải đợi chờ 25 năm,
mới bắt đầu trao đổi chuyện trò qua lại với người mẹ sinh ra mình.
Chính vì bao nhiêu lý do vừa được giới thiệu một cách sơ phác, cuốn sách
thứ ba nầy về Hội Chứng Tự Kỷ, mang tựa đề : « Phát huy những quan hệ xã
hội, trong vấn đề giáo dục trẻ em tự kỷ ».
Lý do đầu tiên thúc dục tôi xếp đặt quan hệ xã hội, lên hàng ưu tiên số một,
vì tất cả trẻ em tự kỷ đang gặp những khó khăn trầm trọng và chủ yếu, trong
lãnh vực nầy.
Lý do thứ hai phản ảnh những thành quả mới nhất, trong các công trình
nghiên cứu về Hội Chứng Tự Kỷ, ở Âu Tây cũng như ở Bắc Mỹ. Hẵn thực,
đầu năm 2006, trong một tác phẩm có tầm cỡ quốc tế, tác giả Daniel
GOLEMAN đã nhấn mạnh vai trò của Trí Thông Minh Xã Hội, trong mọi
lãnh vực sinh hoạt thuộc đời sống làm người.
Trí thông minh xã hội bắt đầu chớm nở, khi trẻ sơ sinh nhìn thẳng vào hai
mắt của người mẹ.
Trí thông minh xã hội đã có mặt, nảy mầm đâm mộng, vào những lúc hai mẹ
con sung sướng trao đổi nụ cười với nhau, nhất là sau khi trẻ sơ sinh đi vào
lứa tuổi 2-3 tháng.
Trí thông minh xã hội đã có mặt, khi đứa bé biết ngoảnh mặt nhìn nơi khác,
trong một vài giây đồng hồ, nhằm giải tỏa những căng thẳng đang leo thang
trong nội tâm của mình. Chính lúc ấy, nếu ý thức được rằng những kích
thích hiện tại của mình đang vượt quá ngưỡng chịu đựng của đứa con, bà mẹ
sẽ biết dừng lại. Làm được như vậy, bà đang giúp đứa con phát huy trí thông
minh xã hội của mình, bằng cách học chọn lựa và quyết định khi nào mở ra,
khi nào đóng lại khả năng tiếp thu và hội nhập của mình.
Ngoài ra, khi trí thông minh xã hội được ngày ngày phát triển như vậy, một
đường giây thần kinh sẽ xuất hiện trong não bộ, nhằm nối kết các trung tâm
khác nhau của Hệ Viền và Tân Vỏ Não. Nhờ vào đó, những xung năng tự

nhiên và bồng bột của Hạnh Nhân (Amygdala) sẽ từ từ nhận được ánh sáng


điều hướng và điều hợp của Thùy Trán (Frontal) thuộc Tân Vỏ Não đưa
xuống. Ngược lại, Hạnh Nhân thuộc Hệ Viền gửi lên những tin tức, sau khi
tham cứu Kho tàng hoài niệm là Hải Mã (Hippocampus). Dựa vào đó, Thùy
Trán có thể đề xuất những chương trình hành động vừa có tình, vừa có lý,
vừa phản ảnh những giá trị và ý nghĩa làm người, vừa thích ứng với những
nhu cầu của thực tế và thực tại.
Khi hiểu rõ những cơ chế sinh hoạt của Trí thông minh xã hội, được thể hiện
một cách cụ thể trong những đường dây thần kinh đi lên và đi xuống như
vậy, cha mẹ, người giáo viên và các chuyên viên có thể hợp tác với nhau.
Cùng nhau, họ sẽ sáng tạo những dụng cụ, những phương tiện, những cách
làm, nhằm bổ túc những gì đang còn thiếu vắng, điều chỉnh lại những gì
đang sai lệch và kiện toàn những gì chưa hoàn chỉnh, trong bản thân và đời
sống của một trẻ em có nguy cơ tự kỳ.
Trong tinh thần và ý hướng giáo dục như vậy, cuốn sách thứ ba nầy sẽ lần
lượt trình bày và giới thiệu trong những chương kế tiếp, những trọng điểm
chính yếu như sau :
Trong chương Một, tôi sẽ trùng tuyên, một cách đầy đủ và tổng hợp
về 3 Triệu Chứng chính qui và đặc hiệu thuộc hội chứng tự kỷ Vồng Cầu
(Spectrum Autism). Thay vì chỉ mô tả những hiện tượng bên ngoài, tôi sẽ
nhấn mạnh một sự kiện có tầm mức quan trọng, trong lãnh vực quan hệ tiếp
xúc và trao đổi. Hẳn thực, khi từ giả cung lòng ấm cúng của người mẹ, đứa
bé sơ sinh cần một cung lòng ấm cúng khác, để lớn lên và phát triển, trong
môi trường xã hội. Cung lòng ấm cúng nầy không còn là Tử Cung của bà
mẹ. Cung lòng nầy được kết dệt bằng những nụ hôn, bằng những bàn tay
xoa bóp. Bằng những giọng hò ru con, người mẹ và những ai « đại diện
mẹ », gọi về trong giấc mơ và tâm tuởng của con, cả một giang sơn đất
nước, bao nhiêu tầng tầng lớp lớp anh chị em đồng bào. Trong khung cảnh

hồn thiêng sông núi ấy, khi nằm một mình trong nôi đứa bé đã biết nhếch
miệng mỉm cười – một nụ cười sinh lý - « với Bà Mụ, Bà Tiên, Bà Âu Cơ ».
Nụ cười vô thức ấy sẽ từ từ chuyển qua nụ cười xã hội có ý thức, nếu có
người đang có mặt với con, chớp thời cơ, để nhìn con, khen con, chuyện trò
với con. Bắc lên cho con những nhịp cầu, với người có mặt, cũng như với
người không có mặt, nhưng đang hiện diện tràn đầy, để kiến tạo một vòng
cung bao bọc chiếc nôi của con.
Chương Hai sẽ liệt kê và trình bày 5 loại sinh hoạt khác nhau, nhưng
bổ túc và kiện toàn cho nhau, nhằm hình thành, xây dựng và không ngừng tô
điểm nội tâm của con người. Tôi đồng ý một phần nào với Simon BARONCOHEN, khi tác giả nầy khẳng định rằng trẻ em tự kỷ không có NỘI TÂM.
Nhưng tôi muốn nhấn mạnh : Nội tâm, trong tầm nhìn của tác giả, chỉ là
Thinking hay là Thinking Mind, nghĩa là Tư Duy mà thôi. Thể theo lối nhìn


của tôi, tư duy chỉ là một công đoạn duy nhất, thuộc về một quá trình gồm
có nhiều thành tố khác như : Năm giác quan, Xúc động, Ngôn ngữ và Quan
hệ qua lại giữa người với người. Vì lý do sư phạm và vấn đề ngôn ngữ, tôi
không thể KHÔNG phân biệt trong và ngoài, truớc và sau, giữa 5 thành tố
ấy. Tuy nhiên, trong thực tế sinh hoạt, năm thành tố mà tôi vừa liệt kê, tác
động qua lại hai chiều, giao thoa chằng chịt với nhau, cưu mang và phát huy
nhau, nhưng cũng có thể cản trở và hạn chế nhau. Bao nhiêu nhận xét ấy
nhằm nhấn mạnh một sự kiện chất chứa nhiều ý nghĩa : khi trẻ em không có
hay là từ chối quan hệ, phải chăng đó là một cách khẳng định rằng : Tôi
muốn, tôi cần một loại quan hệ hoàn toàn khác. Thay vì những loại quan hệ
độc chiều, như tố cáo, trừng phạt, áp đặt…để làm người và thành người, tôi
cần nhất là những quan hệ đồng cảm và lắng nghe. Khi tôi không nói, không
nhìn, chính khi ấy, tôi đang diễn tả mình, với một loại « ngôn ngữ không
lời ». Sở dĩ tôi rút lui, thu mình trong vỏ ốc tự kỷ, phải chăng vì tôi đang cần
một quan hệ an toàn. Và loại quan hệ an toàn ấy đang còn vắng mặt, một
cách trầm trọng, trong môi trường giáo dục ngày hôm nay. Ai trong chúng ta

có khả năng nhạy bén, để lắng nghe, ghi nhận và tôn trọng ý nghĩa của « câu
chuyện không lời » ấy ?
Chương Ba phản ảnh công trình nghiên cứu và tổng hợp của Daniel
GOLEMAN. Toàn bộ tác phẩm của tác giả nầy, nhằm trả lời một cách rốt
ráo cho vấn nạn : Trí Thông Minh Xã Hội là gì ? Trong hiện tại, quan niệm
về Trí Thông Minh Tổng quát, đang được dạy dỗ trong môi trường học
đường, đã đẩy đưa toàn thể nhân loại khắp đó đây, từ đông qua tây, từ bắc
xuống nam, vào vòng sản xuất, tiêu thụ, ô nhiễm môi trường, chế tạo vũ khí
và bốc lột con người. Cho nên đã đến lúc, vấn đề cần được đặt ra và khảo sát
về Trí Thông Minh Xã Hội, nhằm lột trần và phơi bày một cách can đảm,
trước mắt mọi người, hai câu hỏi cơ bản.
- Câu hỏi thứ nhất : Mục đích của con người sinh ra trong trời đất, phải
chăng là SỐNG HẠNH PHÚC ?
- Câu hỏi thứ hai : Khi hai con người lại gần, trao đổi và tiếp xúc với nhau,
phải chăng họ tìm cách tạo ra cho nhau mọi điều kiện thuận lợi, để giúp
nhau thành người ? Trong thực tế của xã hội ngày nay, con người khắp nơi,
trên mặt địa cầu, có xu thế tranh chấp, tàn sát, hoại diệt lẫn nhau, trên mọi
bình diện, thậm chí trong những cộng đoàn và cộng đồng mang tính cách tôn
giáo, với chí hướng phục vụ nhân loại. Còn có chăng một loại người vẫn
ngày ngày thắp sáng lý tưởng làm người và cố quyết sống tình người với
nhau ?
Trong Chương Bốn, một câu hỏi quan trọng được nêu lên : Trí Thông
Minh Xã Hội có những cơ sở và tổ chức thần kinh như thế nào ?


Các nhà khoa học về Thần Kinh Não Bộ đã khẳng định : Không có ba loại
cấu trúc thần kinh đặc thù và chuyên môn, dành cho ba loại Trí Thông Minh
khác nhau như Tổng Quát, Xúc Động và Quan Hệ Xã Hội. Trái lại, khi hoạt
động và phát triển, mỗi loại trí thông minh sáng tạo và củng cố những đường
dây chuyên biệt cho mình. Nhằm gửi tin đi, hay là nhận tin đến, những

đường dây thần kinh nầy nối kết lại với nhau các trung tâm đã có sẵn thuộc
3 giai tầng cấu trúc là : Thân Não, Hệ Viền và Tân Vỏ Não. Một cách đặc
biệt, Trí Thông Minh Xã Hội hoạt động với hai đường dây chính yếu. Đường
thứ nhất mang tên là Đai lộ phía trên (High Road), nối kết Thùy Trán và các
Thùy khác thuộc Tân Vỏ Não với Cấu Trúc Hạnh Nhận thuộc Hệ Viền.
Đường thứ hai mang tên là Đại lộ phía dưới (Low Road), phát xuất từ Hạnh
Nhân và có liên hệ với những cơ quan thuộc Giai tầng Thân Não và Tiểu
Não.
Điều đáng chúng ta quan tâm một cách đặc biệt là càng hoạt động một cách
tích cực, Trí Thông Minh Xã Hội càng củng cố và tăng cường những đường
dây thần kinh não bộ của mình, về mặt lượng cũng như về mặt phẩm. Thêm
vào đó, bao lâu trí thông minh xã hội càng được chúng ta vận dụng và kích
hoạt, khác với những tin tưởng và thành kiến trước đây, những tế bào thần
kinh vẫn luôn luôn được tái sinh và đổi mới, thậm chí khi chúng ta đã già
nua, nhưng vẫn còn minh mẫn. Thêm vào đó, các điểm giao liên giữa các tế
bào, còn mang tên chuyên môn là xi-nắp, càng ngày càng nhân ra thêm
nhiều, nếu có nhu cầu đổi mới hay là thay thế. Nói một cách vắn gọn, càng
vận dụng một cách tích cực Trí Thông Minh Xã Hội, để đáp ứng những nhu
cầu của cuộc sống, chúng ta càng tái tạo và đổi mới Thần Kinh Não Bộ. Và
do đó, hiện tượng lão hóa càng bị đẩy lui về sau.
Chương Năm sẽ bổ túc chương Bốn, bằng cách trình bày thêm vai trò của
những loại hóa chất được các loại xi-nắp thần kinh tiết ra và di chuyển theo
đường máu, như adrenalin, dopamin, oxytocin, endorphin…
Chương Sáu sẽ bàn thêm về quan hệ tác động qua lại giữa Bẩm sinh và môi
trường, hay là giữa gên và ảnh hưởng của giáo dục.
Hẳn thực, nếu giả thuyết về « nguồn gốc hay là nguyên nhân của hội chứng
tự kỷ là Gen hay là Bẩm Sinh » một ngày nào đó được chứng minh, một
cách khoa học và khách quan, chúng ta cũng chưa thể nào khẳng định một
cách dứt điểm rằng : Một trẻ em mang Gen tự kỷ, sẽ suốt đời là người tự kỷ.
Trường hợp Gen không được kích hoạt, để có thể nẩy mầm đâm mộng, nhờ

vào ảnh hưởng giáo dục có khả năng tạo ra cho trẻ em những quan hệ xã hội
tích cực, xây dựng, an toàn và vui tươi, sung sướng, làm sao một trẻ em có
thể trở nên người tự kỷ ? Nếu trong vòng 3 năm đầu tiên, chương trình tự kỷ
có sẵn trong tế bào thần kinh, không được môi trường kích động, khởi động,


nghĩa là được chuyển biến thành hiện thực, chương trình ấy sẽ bị vô hiệu
hóa và tạn lụi vĩnh viễn.
Trong chương Bảy, tiếp theo những hệ luận vừa được trình bày, trong
chương vừa qua, tôi sẽ đề nghị một số sinh hoạt nhằm phát huy quan hệ xã
hội, trong đời sống của trẻ em có nguy cơ tự kỷ, từ 0 đến 7 tuổi.
Mục tiêu cần nhắm tới, và ngày ngày chuyển biến thành hiện thực, bằng
những động tác cụ thể, là tạo cho trẻ em những quan hệ hài hòa, có mặt, lắng
nghe, tôn trọng và vui tươi.
Về mặt kỹ thuật, chúng ta sử dụng những hình ảnh của trẻ em và những
người thân như cha, mẹ, anh, chị em…, những cuốn phim ghi hình trực tiếp,
khi trẻ em buồn, sợ, giận, vui sướng.
Tất cả những phương tiện nầy, cọng với ngôn ngữ hồn nhiên và sống động
của chúng ta, nhằm phản ảnh cho trẻ em thấy mình, nghe mình, nhìn vào
khuôn mặt của mẹ và của cha, trên các tấm hình.
Mục dích cuối cùng mà chúng ta luôn luôn nhắm tới, trong những sinh hoạt
vui chơi và phản ảnh, như vừa được trình bày, là kích thích những tế bào
hình suốt (spindle), cũng như những tế bào phản ảnh (mirror neurons), có
mặt trong các đường dây thần kinh sau đây :
đường dây nối kết Hạnh Nhân với Thùy OFC (Orbito-Frontal Cortex,
Trán-Ô mắt),
đường dây nối kết Hạnh nhân với Thùy ACC (Anterior Cingulae
Cortex, Trước Đai)
Hai đường dây thần kinh não bộ « đi lên và phía trên nầy » hoạt động mạnh,
khi chúng ta thiết lập những quan hệ xây dựng và hài hòa với người khác,

trong bất cứ môi trường xã hội nào.
Chương Tám là chương cuối cùng, đặc biệt dành cho những người có trách
vụ giáo dục và phục vụ trẻ em có nguy cơ tự kỷ. Nhằm giúp đỡ một cách
hữu hiệu con em và học sinh của mình, phải chăng cha mẹ và các giáo viên,
hơn ai hết, cần hiểu rõ những điều gì nên làm và nên tránh, khi thiết lập quan
hệ với trẻ em, cũng như khi phản ảnh những xúc động của các em.
Để kết luận cuốn sách bàn về vấn đề thiết lập và phát huy những quan hệ với
trẻ em có nguy cơ tự kỷ, phải chăng chúng ta cần lắng nghe lại những lời
nhắn nhủ của Tổ Tiên và Cha Ông, qua các câu ca dao và tục ngữ sau đây :
Có công mài sắt ắt ngày thành kim.
Kiến tha lâu đầy tổ.
Nước chảy đá mòn.
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.


Nhờ những bài học nầy làm điểm tựa, chắc chắn chúng ta tất cả có thể « dời
núi, lấp sông », cho trẻ em, vì trẻ em và với trẻ em.
Lausanne, Thụy Sĩ
Ngày 17-12-2007
NGUYỄN văn Thành
Sách tham khảo :
1) Daniel GOLEMAN – Social Intelligence - Hutchinson, London 2006.
2) Judy & Sean BARRON – Moi, l’enfant autiste – Plon 1933.
- There’s a boy in here – Simon&Schuster, N.Y. 1991.
3) Jacques Salomé – Heureux qui communique – Albin Michel Paris 1993.
4) M.B. Rosenberg – Enseigner avec bienveillance – Jouvence 2006.




×