Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN PHƯƠNG PHÁP LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN GIẢI THÍCH LỚP 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.57 KB, 14 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm:
PHƯƠNG PHÁP LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN GIẢI THÍCH LỚP 7
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI:
Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề đã được đề cập, bàn luận và
thực hiện trong nhiều năm qua. Với việc thực hiện giảng dạy theo chương trình
sách giáo khoa mới thì đổi mới phương pháp dạy học càng được thúc đẩy và
phát huy một cách có hiệu quả. Phát huy tính tích cực trong học tập được xem
như một nguyên tắc dạy học đảm bảo chất lượng và hiệu quả, chuyển từ lấy giáo
viên làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm trung tâm là một xu hướng tất
yếu có tính lịch sử.
Với các môn học nói chung và môn Ngữ văn nói riêng đổi mới dạy học đã
trở thành vấn đề cấp thiết và điểm mấu chốt. Nếu trong giờ giảng văn người thầy
chú ý tích hợp thì học sinh sẽ chú ý đến mọi mặt của vấn đề hơn, các em phát
huy mạnh mẽ hơn nữa tư duy của mình.
II. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong đời sống của con người nhu cầu giải thích đóng vai trò vô cùng
quan trọng bởi những gì chúng ta biết chỉ là hạt cát nhỏ bé giữa một sa mạc kiến
thức mênh mông. Gặp một hiện tượng, một sự kiện, một vấn đề mới mẻ con
người chưa biết thì nhu cầu giải thích nảy sinh. Chính vì thế mà văn giải thích
xuất hiện.
Đối với học sinh lớp 7 để các em hiểu được và làm được bài văn giải thích
đã là khó chứ chưa nói là làm hay, làm tốt. Trong suốt một thời gian dài được
phân công giảng dạy môn Ngữ văn 7, qua những lần kiểm tra bài viết của học
sinh, tôi thấy kết quả làm bài của các em rất thấp. Đa số bài viết nội dung sơ sài,
không có ý văn và vốn từ nghèo nàn. Không những thế có bài còn thể hiện
những hạn chế như: chưa định hướng được các bước làm bài văn nghị luận giải
thích, trình bày luận điểm chưa rõ ràng, từ ngữ lặp… Xuất phát từ thực tế đó tôi
thấy cần thiết phải rèn luyện cho các em kỹ năng xây dựng dàn bài với hệ thống
câu hỏi gợi mở để các em biết tư duy, sáng tạo, dễ dàng nắm bắt được cách làm
bài văn nghị luận giải thích một vấn đề. Đó là lí do chính khiến tôi viết đề tài


này.
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
1. Phạm vi áp dụng:
- Áp dụng cho dạy làm văn nghị luận nói riêng và dạy Ngữ văn THCS nói
chung.
2. Đối tượng nghiên cứu:
- Làm văn nghị luận lớp 7.
- Học sinh THCS.
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Nhiệm vụ về lý luận: Nghiên cứu tài liệu, chương trình SGK, nghiên cứu về
phương pháp dạy văn nghị luận nói chung và dạy cách làm văn nghị luận lớp 7
nói riêng.

1


- Nhiệm vụ thực tiễn: Nghiên cứu thực trạng của việc dạy làm văn nghị luận
trong trường THCS .
Đưa ra hướng giải quyết một số khúc mắc về phương pháp dạy học, từ đó có
thêm kinh nghiệm để dạy tốt phần tập làm văn, đáp ứng nhu cầu đổi mới chương
trình Ngữ văn THCS hiện nay.
IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
- Góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy làm văn nghị luận giải thích và để học
sinh yêu thích giờ học văn hơn.
- Khi áp dụng đề tài này, giáo viên đã giúp học sinh tích cực và hào hứng hơn
khi viết bài văn, đồng thời cũng thu được những kiến thức và kinh nghiệm bổ
ích cho bản thân.
- Rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:


Văn Nghị luận là loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người
nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Nó là một trong những kiểu văn bản quan
trọng trong đời sống xã hội của con người, có vai trò rèn luyện tư duy, năng lực
diễn đạt những quan điểm tư tưởng sâu sắc trước đời sống. Trước tác của các
nhà tư tưởng, nhà lí luận, nhà khoa học, nhà chính trị đều viết dưới hình thức
nghị luận. Có thể nói: không có văn nghị luận thì khó có thể hình thành các tư
tưởng mạch lạc và sâu sắc. Có năng lực nghị luận là một điều kiện cơ bản để con
người thành đạt trong cuộc sống
Văn Nghị luận thực chất là văn bản lí thuyết, văn bản nói lí lẽ nhằm phát
biểu các nhận định, tư tưởng, suy nghĩ, quan điểm thái độ trước vấn đề đặt ra.
Do đó muốn làm văn nghị luận tốt thì người ta phải có khái niệm, có quan điểm,
phải có chủ kiến rõ ràng, biết sử dụng khái niệm, biết tư duy lô gic. Đồng thời
biết sử dụng các thao tác phân tích, tổng hợp, qui nạp, diễn dịch, so sánh, suy lí.
nói chung là biết tư duy trừu tượng. Đây là loại hình văn bản tương đối khó đối
với học sinh nói chung, nhất là với học sinh trung học cơ sở. Những người có
thói quen tư duy cụ thể, cảm tính, ít năng lực suy luận sẽ cảm thấy khó làm văn
nghị luận. Những người ít có bản lĩnh chủ kiến càng thấy khó trình bày quan
điểm của mình. Chính vì vậy văn bản nghị luận sẽ rèn luyện năng lực tư duy, kĩ
năng nghị luận và tinh thần làm chủ cho học sinh.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
- Bước sang học kì II của lớp 7 các em được học về văn Nghị luận. Nhu cầu
nghị luận rất phong phú nên việc học văn nghị luặn là rất cần thiết. Trong đời
sống ta gặp các văn bản nghị luận dưới dạng các ý kiến nêu ra trong cuộc họp,
các bài xã luận, bình luận, bài phát biểu ý kiến trên báo chí.
- Đối với học sinh khối 7, văn nghị luận còn rất mới lạ và khó, các em lại ít đọc
sách, báo, tài liệu, ít cập nhật thông tin mang tính thời sự… nên kiến thức về
cuộc sống còn nhiều hạn chế vì thế không thể tránh khỏi lúng túng, vụng về khi
làm bài.
Với đề tài này tôi đi vào phân môn Tập làm văn của môn Ngữ văn 7 mà cụ

thể là văn nghị luận giải thích. Trong Văn nghị luận có nghị luận chứng minh và
nghị luận giải thích nhưng tôi nhận thấy các em học sinh khi đứng trước một đề
2


văn nghị luận chứng minh các em vẫn dễ dàng tìm được các dẫn chứng và lí lẽ
để làm sáng tỏ vấn đề. Riêng với đề văn nghị luận giải thích các em vô cùng bối
rối vì không thể làm một bài văn chỉ bằng vài câu văn giải thích ngắn gọn…
Chính vì vậy là một giáo viên dạy môn Ngữ văn 7 đã nhiều năm tôi rất trăn trở
với những khó khăn mà các em học sinh gặp phải nên tôi quyết định viết đề tài
này với mong muốn giúp học sinh có thể tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn
mà các em gặp phải khi làm văn nghị luận giải thích. Bằng một hệ thống câu hỏi
gợi mở khi lập dàn ý bài văn nghị luận giải thích.
Kết quả kiểm tra bài viết về văn nghị luận giải thích năm 2015– 2016:
Điểm 0 - 2
2 < Điểm < 5
Điểm 5-7,8
Điểm 9-10
Tổng
số HS SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
35
5
14

13
37
16
46
1
3
Kết quả trên cho thấy, có đến 51% học sinh điểm yếu kém so với chỉ tiêu
chất lượng đầu năm xây dựng, tỉ lệ học sinh yếu kém cao, học sinh trung bình
trở lên và học sinh khá, giỏi còn thấp. Chính vì vậy, bản thân tôi đã trăn trở, suy
nghĩ tìm ra phương pháp dạy học phù hợp hơn để nâng cao chất lượng dạy học
phân môn Tập làm văn nói chung và dạy cách làm bài văn nghị luận nói riêng.
Trước hết cần hiểu văn bản nhật dụng không phải kiểu văn bản hay
phương thức biểu đạt mà là cách gọi có tính quy ước một loại văn bản mà nội
dung của nó đề cập tới các vấn đề gần gũi, thiết yếu trong đời sống của con
người như quan hệ giữa thiên nhiên- môi trường, con người....
Tùy theo mỗi văn bản, mỗi khối lớp, mỗi đối tượng mà GV cần soạn
giảng phù hợp. Sau đây là một số biện pháp đã thực hiện.
III. CÁC BIỆN PHÁP:
Văn nghị luận là dùng ý kiến lí lẽ của mình để bàn bạc, để thuyết phục người
khác về một vấn đề nào đó. Để thuyết phục được ý kiến phải đúng và thái độ
phải đúng. Có thể gọi ý kiến là lý còn thái độ là tình. Có khi ý kiến đúng mà thái
độ không đúng thì cũng kém giá trị và tác dụng. Có ý kiến đúng và thái độ đúng
rồi lại phải có cách nghị luận hợp lý nữa.
Yêu cầu bài văn nghị luận: Phải đúng hướng, phải trật tự, phải mạch lạc,
phải trong sáng, phải sinh động, hấp dẫn, sáng tạo. Hệ thống câu hỏi gợi mở
trong dàn ý bài văn nghị luận giải thích là quá trình dẫn dắt học sinh đi tìm kiến
thức bằng cách đặt câu hỏi chi tiết, cụ thể hướng học sinh biết hình dung vấn đề
trong mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp để tìm ý cho bài văn. Một dàn ý tốt sẽ
giúp các em viết bài tốt, diễn đạt có chiều sâu.
- Đa số học sinh không có thói quen lập dàn ý trước khi làm bài Tập làm văn

vì ngại khó hơn nữa các em lúng túng không biết tìm ý bằng cách nào. Làm thế
nào để phát huy tính tích cực ở học sinh? Thiết nghĩ thay vì cho học sinh làm
theo văn mẫu thì ta nên hướng dẫn học sinh thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở
giúp các em tự tìm ý cho bài viết. Để qua đó sẽ rèn luyện cho học sinh có kỹ
năng tìm ý và làm dàn ý cho những bài viết sau này.
Các biện pháp cụ thể:
1. Quy trình làm bài văn:
Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý
3


- Đề yêu cầu giải thích vấn đề gì?
Có khi vấn đề cần giải thích được nêu ra một cách trực tiếp (ví dụ: giải thích
về "lòng nhân đạo", giải thích về "lòng khiêm tốn",...) nhưng cũng có khi đề bài
gián tiếp đưa ra vấn đề bằng cách mượn hình ảnh, câu văn, câu tục ngữ, ca dao,
thành ngữ, ..., ví dụ: Nhân dân ta có câu tục ngữ: "Đi một ngày đàng, học một
sàng khôn". Hãy giải thích nội dung câu tục ngữ đó. Trước những đề bài dạng
này, khi xác định vấn đề (luận điểm) chính cần giải thích phải lưu ý:
Cắt nghĩa được hình ảnh, câu văn, câu tục ngữ, thành ngữ, ... nêu ra ở đề bài.
Nghĩa là phải tiến hành giải thích từ ngữ, nghĩa gốc, nghĩa chuyển,... của hình
ảnh, câu văn... để nắm được nội dung của chúng từ đó mới xác định được chính
xác vấn đề cần giải thích.
- Liên hệ với thực tế đời sống, với những ý kiến trong sách vở,... khác để xác
định những biểu hiện cụ thể của vấn đề. Ví dụ, với yêu cầu giải thích câu tục
ngữ "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn", một mặt cần tìm những ví dụ cụ
thể trong thực tế (đi tham quan để hiểu biết thêm những điều mới lạ, những
khám phá của con người trước những miền đất mới, em đã từng thất bại khi làm
một việc gì đó nhưng vì thế mà em có được kinh nghiệm để bây giờ có thể làm
tốt được việc ấy,...), mặt khác cần liên hệ với những câu ca dao, tục ngữ tương
tự (Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng; Đi cho

biết đó biết đây, Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn;...) thậm chí liên hệ đến
những dẫn chứng có ý nghĩa tương phản: Ếch ngồi đáy giếng,...
Bước 2: Lập dàn bài
Lập dàn bài theo bố cục ba phần:
- Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần giải thích hoặc giới thiệu câu tục ngữ, thành
ngữ, ca dao, câu văn,... và nêu ra nội dung của nó. Ví dụ: Giới thiệu câu tục ngữ
"Đi một ngày đàng, học một sàng khôn" và ý nghĩa về sự đúc kết kinh nghiệm
và thể hiện mơ ước đi nhiều nơi để mở mang hiểu biết.
Thường phần mở bài rất quan trọng (là chìa khóa cho toàn bộ bài văn) nó
không chỉ đơn thuần là sự thông báo của văn bản mà còn làm cho người đọc
người nghe có thể đi vào đề tài một cách dễ dàng, tự nhiên, hứng thú và ít nhiều
hình dung được các bước đi của bài viết song có lẽ đây là phần khó nhất, trước
một đề bài Tập làm văn, tôi thấy các em lúng túng, cắn bút suy nghĩ rồi diễn đạt
một cách gượng gạo, khô khan, kể cả học sinh khá giỏi cũng rơi vào trường hợp
này… Phần mở bài gồm có 3 phần: Gợi - Đưa - Báo : tức là Gợi ý ra vấn đề cần
làm - sau khi gợi thì ĐƯA vấn đề ra - cuối cùng là BÁO - tức là phải thể hiện
cho biết mình sẽ làm gì. Có thể đưa ra một vấn đề tương tự/ hoặc trái ngược để
liên tưởng đến vấn đề cần giải quyết, sau đó mới tạo móc nối để ĐƯA vấn đề ra,
cách này thường dùng khi cần GT về câu nói, tục ngữ, suy nghĩ.
Để giúp các em bớt bối rối, bế tắc khi viết mở bài tôi thường đặt câu hỏi gợi
mở và yêu cầu các em trả lời để cụ thể hóa nội dung.
- Thân bài: Giải thích vấn đề (luận điểm) đã giới thiệu ở phần Mở bài
+ Giải thích các từ ngữ, khái niệm, ví dụ: Đi một ngày đàng nghĩa là gì? Một
sàng khôn nghĩa là gì? "nhân đạo" là gì? "khiêm tốn" là thế nào? "phán đoán" là
gì? "thẩm mĩ" là gì?
4


+ Giải thích các ý nghĩa mở rộng của vấn đề, liên hệ với thực tế, với các dẫn
chứng khác

+ Giải thích ý nghĩa khái quát của vấn đề đối với cuộc sống của con người, lí
giải sâu vấn đề
Chú ý cân nhắc cách sắp xếp các ý giải thích để làm sáng rõ, nổi bật vấn đề
- Kết bài: Nhấn mạnh ý nghĩa của vấn đề vừa làm sáng tỏ
Bước 3: Viết bài
- Mở bài: Có thể viết theo các cách:
+ Giới thiệu thẳng vào vấn đề cần giải thích, ví dụ: Đi một ngày đàng, học
một sàng khôn là câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm học tập của nhân dân ta, qua
đó thể hiện ước mơ vươn tới những chân trời mới để mở mang hiểu biết.
+ Đi từ vấn đề có ý nghĩa đối lập, dẫn tới vấn đề cần giải thích, ví dụ: Em cứ
nhớ mãi hình ảnh một chú ếch không huênh hoang, kiêu ngạo, không chịu mở
rộng tầm mắt để dẫn tới hậu quả bị chết bẹp dưới chân trâu. Thế mới thấy thấm
thía lời răn dạy của cha ông ta: Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Còn gì
thú vị hơn khi được đi đến những chân trời mới, ở những nơi cho ta bao điều
mới lạ, kì thú.
+ Đi từ cái chung đến cái riêng, dẫn dắt vào vấn đề, ví dụ: Cha ông ta để lại
cho con cháu muôn đời cả một kho tàng ca dao, tục ngữ. Đó cũng là cả một kho
tàng kinh nghiệm quý báu. Ta có thể tìm thấy ở đó những lời khuyên răn bổ ích
về việc phải mở mang tầm hiểu biết, đi đây đi đó để trau dồi vốn sống, vốn tri
thức.
- Thân bài: Mỗi ý giải thích nên viết gọn thành một đoạn. Chú ý đến việc lựa
chọn cách dẫn dắt từ Mở bài đến Thân bài, từ đoạn này chuyển sang đoạn khác.
- Kết bài: Cách Kết bài phải hô ứng với cách Mở bài; thâu tóm được những
ý chính đã triển khai trong phần Thân bài.
Bước 4: Đọc lại và sửa chữa.
2. Ví dụ cho đề bài sau:
Ông cha ta đã từng dạy: “ Không thầy đố mày làm nên” Em hãy giải
thích câu tục ngữ trên.
Phần mở bài:
Câu hỏi 1:

? Đọc xong đề bài em sẽ nêu vấn đề
như thế nào?
Câu tục ngữ trên khẳng định vai trò
Câu hỏi gợi mở: - Câu tục ngữ trên
quan trọng của người thầy đối với sự
đề cập đến vấn đề gì? Vai trò, tình
nghiệp giáo dục.
cảm hay trách nhiệm của người
Truyền thống “ tôn sư trọng đạo”
thầy ?
luôn được nhân dân ta coi trọng, đề
Em liên tưởng đến đạo lí truyền
cao nhằm tôn vinh vai trò của người
thống nào của dân tộc ta? Đạo lí đó
thầy trong sự nghiệp giáo dục…
Nhắc nhở chúng ta phải biết ơn, kính trọng
có được xã hội đề cao không?
thầy, cô giáo.

Câu hỏi 2: Em hiểu được điều gì qua Những câu hỏi trên giúp các em hiểu
lời dạy đó?
sâu hơn vấn đề, các em đã biết đề cập,
dẫn dắt vào bài tự nhiên, dễ dàng.
5


Để thao tác này trở thành kỹ năng của
các em, tôi thường yêu cầu học sinh
làm như sau.
Mở bài: Nêu vấn đề; Trích dẫn; Nhận định.

Vấn đề: Tư tưởng, đạo lí, nhận định, quan điểm…
Trích dẫn: Lời dạy, lời kêu gọi, lời khuyên….
Nhận định: Khẳng định vai trò, tính đúng đắn, nhắc nhở bổn phận..
Phần Thân bài:
Thân bài thực chất là một tập hợp các đoạn văn nhỏ nhằm giải quyết một
vấn đề chung. Để tìm ý cho phần thân bài thì có thể dùng các công thức sau
đâyđể đặt câu hỏi nhằm tìm ý càng nhiều và dồi dào càng tốt, sau đó có thể sử
dụng toàn bộ hoặc một phần ý tưởng để hình thành khung ý cho bài văn: Gì Nào - Sao - Do - Nguyên - Hậu
Gì: Cái gì, là gì
Nào: thế nào
Sao: tại sao
Do: do đâu
Nguyên: nguyên nhân
Hậu: hậu quả
Phần này hướng học sinh đi vào phần trọng tâm, giải quyết vấn đề. Ở phần
này đòi hỏi học sinh phải trình bày được hệ thống các luận điểm, luận cứ khoa
học, rõ ràng biết dựng đoạn và chuyển đoạn sao cho nội dung liền mạch, chặt
chẽ, thống nhất với nhau.
Song đây là phần các em dễ bị hạn chế về cách diễn đạt, các ý chồng chéo
lên nhau, trùng lặp. Để khắc phục khó khăn này tôi hướng dẫn các em biết định
hướng trình tự giải quyết vấn đề thường thì trình tự bài văn giải thích sẽ đi từ:
Giải thích nghĩa đen
Giải thích nghĩa bóng
Giải thích cơ sở chân lí
Giải thích phương pháp vận dụng.
Tương ứng ba phần trên tôi thường yêu cầu học sinh viết ba đoạn văn:
Đoạn 1: GV đặt câu hỏi để HS giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng theo trình tự:
Giải thích từng từ ngữ-> giải thích từng vế -> giải thích cả câu.
Câu hỏi 3:
? Câu tục ngữ có mấy nghĩa? Em hãy

giải thích nghĩa của câu tục ngữ đó?
? Các từ ngữ: không thầy, đố mày, làm
nên nghĩa là gì?
? Ý nghĩa của cả câu tục ngữ là gì?

-Không có sự hướng dẫn của thầy
-Ý thách đố nhằm phủ nhận
-Sự thành đạt trong học tập, trong công
danh sự nghiệp của người học.
- Đề cao vai trò quan trọng của người
thầy đối với sự thành công của trò.

Việc giải thích nghĩa của câu tục ngữ tôi cũng yêu cầu các em đóng khung.
Nghĩa đen
6


Nghĩa bóng
Nghĩa cả câu
Với thao tác cơ bản này, học sinh vận dụng rất nhanh, những bài viết sau đó
tôi cảm nhận các em đã biết cách giải thích vấn đề một cách nhẹ nhàng hơn, đầy
đủ và khoa học.
Đoạn 2: GV đặt câu hỏi để HS tìm luận điểm sau đó gợi mở để tìm luận cứ:
Câu hỏi 4:
? Vì sao người Thầy có vai trò quan trọng trong sự nghiệp của trò?
Thầy mang lại cho ta những gì?
Trong bước đường ta chiếm lĩnh tri thức và học làm người thầy đã làm gì cho
ta?
Công lao của thầy đối với ta có lớn lao không? Có thể so sánh công lao của
người thầy vối công lao của ai?

Trong cuộc sống có ai thành đạt, có công danh sự nghiệp mà không do một phần
dạy bảo của thầy không?
Luận điểm 1: Người thầy giữ vai trò quan trọng quyết định sự thành công của
trò.
Luận cứ: - Thầy cung cấp kiến thức, mở mang tầm nhìn , sự hiểu biết, dạy cho ta
những điều hay, lẽ phải, giúp cho ta trở thành con người hoàn thiên về trí, đức…
Có thể ví công ơn của thầy như công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ…
Luận điểm 2: Không có thầy trò sẽ không đạt được thành công lớn trong sự
nghiệp.
Luận cứ: Người xưa đã có câu: có thầy giỏi mới có trò giỏi và thực tế cho thấy
những học trò thành danh, đỗ đạt cao đều nhờ vào công uốn nắn, dạy dỗ của
người thầy..
Đoạn 3: GV hướng dẫn HS liên hệ thực tế.
Câu hỏi 5: Em sẽ thực hiện nội dung lời dạy như thế nào cho phù hợp với thực
tế hiện nay?
Gợi mở: Vị trí vai trò của thầy và trò ngày nay?
Việc học của trò có thể thiếu bóng dáng của người thầy không?
- Ngày nay thầy giữ vai trò chủ đạo, trò tích cực, tự giác tìm hiểu kiến thức dưới
sự hướng dẫn của thầy.
Tóm lại với cách triển khia nội dung phần thân bài theo ba đoạn như trên cùng
với các câu hỏi gợi mở tôi thấy có hiệu quả trong việc hướng dẫn các em lập dàn
ý cho bài văn nghị luận giải thích. Bài văn các em làm rõ rang, mạch lạc, không
trùng lặp các ý.
Phần Kết bài:
Có công thức Tóm - Rút - Phấn để thực hiện phần này :
Tóm: tóm tắt vấn đề
Rút: rút ra kết luận gì
Phấn: hướng phấn đấu, suy nghĩ riêng của bản thân
Mỗi em đều có cách viết phần kết bài riêng nhưng nó phải phù hợp với phần
đặt vấn đề: trước sau hô ứng nhau, có như thế thì bài văn mới trọn vẹn.

7


Kết bài của bài văn giải thích thường khẳng định vấn đề và liên hệ trách nhiệm
của bản thân .
Câu hỏi 6: Qua lời dạy trên em có suy nghĩ gì về trách nhiệm, bổn phận của
người học trò đối với vai trò của người thầy?
- Lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy.
- Tình cảm không thể thiếu của mỗi chúng ta.
- Một cách để rèn luyện nhân cách, đạo đức cho thế hệ trẻ.
Như vậy khi làm bài văn nghị luận giải thích tôi yêu cầu học sinh lập dàn ý bằng
hệ thống câu hỏi gợi mở từ câu 1 đến câu 6. Và khi các em đã thành thạo các
thao tác ở cả ba phần Mở bài , Thân bài, Kết bài thì tôi yêu câu học sinh nắm bắt
theo sơ đồ tư duy sau:
Mở bài:
-Nêu vấn đề
-Trích dẫn
-Nhận định.
Thân bài: Giải quyết vấn đề theo trình tự sau:
-Giải thích nghĩa đen
-Giải thích nghĩa bóng
-Giải thích cơ sở chân lí
-Giải thích phương pháp vận dụng.
Kết bài: -Kết thúc vấn đề.
-Trách nhiệm của bản thân.
Bằng việc kiên trì dẫn dắt các em học sinh từng bước, từng bước theo tến
trình trên khi tìm hiểu một đề văn nghị luận giải thích đa số các em học sinh đã
nắm bắt được cách lập dàn ý bài văn nghị luận giải thích mà trước đây các em
rất lo lắng, bối rối.
IV. HIỆU QUẢ MANG LẠI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

- Khi áp dụng đề tài này, giáo viên đã giúp học sinh tích cực và hào hứng hơn
khi làm văn, đồng thời cũng thu được những kiến thức và kinh nghiệm bổ ích
cho bản thân.
- Viết bài văn hay hơn, đáp ứng được yêu cầu của bài văn giải thích nói riêng và
văn nghị luận nói chung.
- Từ những giải pháp trên tôi đã áp dụng vào quá trình dạy học sinh cách làm bài
tập làm văn nghị luận giải thích. Qua bài kiểm tra, kết quả đạt được như sau:
Tổng
số HS
35

Điểm 0 - 2
SL
%
0
0

2 < Điểm < 5
SL
%
1
3

Điểm 5-7,8
SL
%
24
69

Điểm 9-10

SL
%
10
28

V. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG VÀ TRIỂN KHAI:
Qua kết quả giảng dạy trên tôi nhận thấy rằng những giải pháp tôi đưa ra
trong đề tài hoàn toàn có thể thực hiện được đối với học sinh trường THCS. Kết
quả thực nghiệm cho thấy học sinh có sự hào hứng với giờ học, gắn bài học với
thực tiễn nhanh và hiệu quả. Giờ học trở nên hứng thú hơn, tạo tâm lý nhẹ nhàng
thoải mái cho học sinh ở những tiết học sau.
8


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. KẾT LUẬN:
Như vậy, để giờ dạy văn nghị luận nói chung và dạy văn nghị luận giải thích
nói riêng đạt hiệu quả cao, học sinh phải hứng thú với bài học và tiếp thu bài có
hiệu quả. Người giáo viên phải tạo tâm thế học tập cho học sinh bằng cáh sử
dụng nhiều phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc trưng bộ môn, tìm tòi, sưu
tầm tài liệu, đồ dùng học tập để gây hứng thú cho học sinh. Văn nghị luận nó
vốn rất khô khan dễ gây chán nản cho học sinh nên người giáo viên cần phải tạo
được sự thoải mái trong tiết học, không nên gò bó hoặc áp đặt học sinh theo sự
sắp đặt của giáo viên mà nên để học sinh tự phát hiện, tự nêu lên suy nghĩ của
mình. Giáo viên nên định hướng kiến thức để học sinh khỏi sai lạc vào những
vấn đề khác. Giáo viên khuyến khích học sinh tìm tòi thêm kiến thức văn học
bên ngoài chương trình để các em có kho tri thức làm văn nghị luận đạt hiệu quả
cao. Như vậy để giờ làm văn đạt kết quả cao, đáp ứng mục tiêu bài học, người
giáo viên cần phải đa dạng hoá các biện pháp dạy học, các cách tổ chức dạy học,
các phương tiện dạy học theo hướng hiện đại hoá.

2. KIẾN NGHỊ.
Mỗi người giáo viên cần quan tâm hơn nữa để phát huy những tài năng sẵn có
còn tiềm ẩn trong mỗi cá nhân học sinh, giúp các em phát huy vốn tri thức của
nhân loại để phục vụ tốt cho nhiệm vụ học tập của mình. Trau chuốt hành văn,
diễn đạt trong sáng, có logic, tính liên kết cao.

9


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Chuẩn kiến thức kỹ năng - Phạm Thị Ngọc Trâm (chủ biên) NXB Giáo dục
Việt Nam.
2. Một số kiến thức- kỹ năng và bài tập nâng cao Ngữ văn 7 – Nguyễn Thị
Mai Hoa, Đinh Chí Sáng.NXB Giáo dục.
3. Tuyển tập 150 bài văn hay lớp 7- Thái Quang Vinh, Lê Thị Nguyên. NXB
Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.

10


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI.
II. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
1. PHẠM VI ỨNG DỤNG.

2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.

IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ..
III. CÁC BIỆN PHÁP.
III. CÁC BIỆN PHÁP.
III. CÁC BIỆN PHÁP.
III. CÁC BIỆN PHÁP.
III. CÁC BIỆN PHÁP.
IV. HIỆU QUẢ MANG LẠI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
V. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG VÀ TRIỂN KHAI.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. KẾT LUẬN.
2. KIẾN NGHỊ.

11

1
1
1
1

1
1
2
2
2

3
4
5
6
7
8
8
9
9


12


13


14



×