Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Áp dụng pháp luật về phòng, chống tham nhũng qua thực tiễn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ NGUYÊN THÀNH

¸P DôNG PH¸P LUËT VÒ PHßNG, CHèNG THAM NHòNG
QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ NGUYÊN THÀNH

¸P DôNG PH¸P LUËT VÒ PHßNG, CHèNG THAM NHòNG
QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này, kính đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Nguyên Thành


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT PHÕNG,
CHỐNG THAM NHŨNG .......................................................................8
1.1.
Khái niệm, đặc điểm của tham nhũng ...................................................... 8
1.1.1. Khái niệm tham nhũng ........................................................................ 8
1.1.2. Đặc điểm của tham nhũng ................................................................. 12
1.1.3. Nguyên nhân và tác hại của tham nhũng .......................................... 16

1.2.
Khái niệm, nội dung cơ bản và vai trò của pháp luật phòng,
chống tham nhũng ...................................................................................... 22
1.2.1. Khái niệm về pháp luật phòng, chống tham nhũng .......................... 22
1.2.2. Các văn bản về phòng, chống tham nhũng ....................................... 23
1.2.3. Nội dung cơ bản của pháp luật phòng, chống tham nhũng ............... 24
1.2.4. Vai trò của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ......................... 31
1.3.
Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật phòng, chống tham nhũng ...... 36
1.3.1. Áp dụng pháp luật về phòng, chống tham nhũng là một trong
những hình thức thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ...... 36
1.3.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật về phòng, chống tham nhũng ................ 38
1.4.
Các tiêu chí ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật về
phòng, chống tham nhũng....................................................................... 40
1.4.1. Yếu tố pháp luật ................................................................................ 40
1.4.2. Ý thức pháp luật của cán bộ áp dụng pháp luật về phòng, chống
tham nhũng ........................................................................................ 41
1.4.3. Đạo đức, bản lĩnh của cán bộ áp dụng pháp luật về phòng,
chống tham nhũng ............................................................................. 43
1.4.4. Dư luận xã hội, tính tích cực pháp lý của người dân và các tổ
chức xã hội về phòng, chống tham nhũng ......................................... 44


1.5.
1.5.1.
1.5.2.
1.5.3.

Các điều kiện đảm bảo áp dụng pháp luật về phòng, chống

tham nhũng ...................................................................................... 46
Sự hoàn thiện của pháp luật phòng, chống tham nhũng và các
văn bản pháp luật có liên quan .......................................................... 46
Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của
cán bộ trong các cơ quan phòng, chống tham nhũng ........................... 47
Sự phân công, phối hợp, kiểm soát việc áp dụng pháp luật về
phòng, chống tham nhũng giữa các cơ quan ..................................... 47

Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG Ở TỈNH THANH HÓA GIAI
ĐOẠN 2007-2016............................................................................. 49
2.1.
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội tỉnh Thanh Hóa ............ 49
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên ............................................................................. 49
2.1.2. Đặc điểm kinh tế ............................................................................... 50
2.1.3. Đặc điểm văn hóa - xã hội ................................................................ 52
2.1.4. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội ảnh
hưởng đến áp dụng pháp luật về phòng, chống tham nhũng
tỉnh Thanh Hóa................................................................................. 53
2.2.
Tình hình áp dụng pháp luật về phòng, chống tham nhũng tại
tỉnh Thanh Hóa ........................................................................................... 54
2.2.1. Áp dụng pháp luật về phòng ngừa tham nhũng ................................ 54
2.2.2. Áp dụng pháp luật phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng ........ 69
2.2.3. Thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng và hợp
tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng .......................................... 76
2.2.4. Tồn tại, hạn chế, nguyên nhân .......................................................... 77
2.3.
Đánh giá chung ................................................................................ 81
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT

VỀ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TẠI TỈNH THANH
HÓA THỜI GIAN TỚI ............................................................................83
3.1.
Quan điểm áp dụng pháp luật phòng, chống tham nhũng
tại tỉnh Thanh Hóa .......................................................................... 83
3.1.1. Áp dụng pháp luật phòng, chống tham nhũng phải bảo đảm sự
lãnh đạo toàn diện của các cấp ủy Đảng; phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội ...................... 85


3.1.2.

Áp dụng pháp luật phòng, chống tham nhũng phải góp phần
phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, chính quyền trong
sạch, vững mạnh................................................................................ 86
3.1.3. Áp dụng pháp luật phòng, chống tham nhũng trên cơ sở vừa tích
cực, chủ động phòng ngừa, vừa kiên quyết đấu tranh, trong đó
phòng ngừa là chính .......................................................................... 87
3.1.4. Áp dụng pháp luật về phòng, chống tham nhũng phải đáp ứng
yêu cầu của việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân .......................................................... 89
3.1.5. Áp dụng pháp luật phòng, chống tham nhũng phải kế thừa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của quê hương Thanh Hóa;
chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của nước ngoài ..................................................................... 90
3.2.
Các giải pháp cơ bản áp dụng pháp luật phòng, chống tham
nhũng thời gian tới...................................................................................... 91

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; bổ sung,
sửa đổi, hoàn thiện các quy định về quản lý kinh tế - xã hội để
phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tham nhũng ........................ 91
3.2.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các giai đoạn áp dụng pháp luật về
phòng chống tham nhũng; hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp
và kiểm soát việc áp dụng pháp luật về phòng, chống tham nhũng....... 93
3.2.3. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng áp dụng pháp luật, đạo
đức, bản lĩnh nghề nghiệp của cán bộ áp dụng pháp luật về
phòng, chống tham nhũng ................................................................. 95
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng,
các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội ............... 97
3.2.5. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức, ý thức, trách nhiệm về công tác phòng, chống tham nhũng ....... 101
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ ............................................................................................. 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 106
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 109


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANQG :

An ninh quốc gia

BLHS :

Bộ luật Hình sự

HĐND :


Hội đồng Nhân dân

KTXH :

Kinh tế - xã hội

MTTQ :

Mặt trận Tổ quốc

Nxb :

Nhà xuất bản

PCTN :

Phòng, chống tham nhũng

QPAN :

Quốc phòng - an ninh

TAND :

Tòa án Nhân dân

TTHC :

Thủ tục hành chính


UBKT :

Ủy ban Kiểm tra

UBND :

Ủy ban Nhân dân

VKSND:

Viện Kiểm sát Nhân dân

XHCN :

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU PHỤ LỤC

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1.

Thống kê một số kết quả chủ yếu công tác PCTN trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2007-2016

109


Bảng 2.2a.

Thống kê số liệu thụ lý và kết quả xét xử các tội phạm
tham nhũng của hai cấp TAND tỉnh Thanh Hóa

1133

Bảng 2.2b.

Thống kê số liệu kết quả xét xử các tội phạm về tham
nhũng của hai cấp TAND tỉnh Thanh Hóa

1144

Bảng 2.3.

Tình hình tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công
tác PCTN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

1157

Bảng 2.4.

Kết quả thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thực hiện
Luật PCTN

118

Số hiệu



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực, ăn sâu bám rễ trong mọi
chế độ xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, quốc gia giàu hay nghèo,
phát triển hay kém phát triển. Một số nơi trên thế giới, tham nhũng làm suy
kiệt xã hội, gây xáo trộn, mất ổn định chính trị. Chừng nào còn nhà nước thì
còn phải đấu tranh PCTN. PCTN là công việc khó khăn, phức tạp, cần sự
quyết liệt và kiên trì, là chính sách ưu tiên của nhiều quốc gia và sự nỗ lực
của cả cộng đồng quốc tế.
Ở Việt Nam, tham nhũng xuất hiện ở nhiều ngành, nhiều địa phương,
nhưng chủ yếu là ở các khu vực đang được đầu tư xây dựng, tập trung ở một
số ngành trọng điểm có chức năng trực tiếp quản lý tiền, hàng, vật tư của Nhà
nước như ngân hàng, tài chính, giao thông vận tải, dự trữ quốc gia, đầu tư
nước ngoài, thương mại, xuất nhập khẩu, thực hiện các chính sách an sinh xã
hội… Nhận thức đầy đủ tính nghiêm trọng và sự nguy hại của tham nhũng, trải
qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ trương,
giải pháp tích cực để PCTN. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng khẳng định:
Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng
phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta,
nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững
mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn
của chế độ [10].
Thanh Hóa là tỉnh có diện tích rộng, dân số đông, thành phần dân cư đa
dạng, nhiều vùng miền, nhiều đơn vị hành chính; Đảng bộ tỉnh là đảng bộ lớn
có đầu mối tổ chức cơ sở đảng và số lượng đảng viên đứng thứ 2 cả nước (sau

1



Đảng bộ thành phố Hà Nội). Những năm qua, trên địa bàn tỉnh đã và đang
triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án phát triển KTXH có tác động
lan tỏa, tạo động lực thúc đẩy phát triển. Thực hiện chủ trương, nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tác PCTN ở Thanh Hóa đã có nhiều
chuyển biến tích cực; nhận thức của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính
trị và Nhân dân về PCTN được nâng lên. Tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ
làm công tác PCTN được bổ sung, hoàn thiện và từng bước đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ. Công tác thanh tra, kiểm tra, xây dựng và hoàn thiện các quy định
về công khai, minh bạch được quan tâm; các vụ việc tham nhũng được xử lý
nghiêm minh, đúng pháp luật, có tác dụng phòng ngừa cao, tạo được niềm tin
trong Nhân dân, góp phần tạo môi trường ổn định cho sự phát triển KTXH
của tỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình KTXH của
tỉnh còn gặp không ít khó khăn do địa bàn, địa hình phức tạp, giao thông gặp
nhiều trở ngại, trình độ dân trí không đồng đều, cơ sở hạ tầng, đời sống
Nhân dân đa phần còn khó khăn. Công tác PCTN, việc tuyên truyền để cán
bộ, đảng viên và Nhân dân thấy rõ quyết tâm chính trị của Đảng trong việc
lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ngăn chặn và từng bước đẩy lùi
tham nhũng, lãng phí chưa thật sự đồng bộ. Một số địa phương, đơn vị, cấp
uỷ, chính quyền chưa thật sự quan tâm đúng mức công tác PCTN. Việc tiêu
cực, lãng phí, tham nhũng trên một số lĩnh vực như: Đất đai, xây dựng cơ
bản, quản lý tài nguyên - khoáng sản,... gây bức xúc trong Nhân dân, nhưng
phát hiện để xử lý còn ít. Việc phát hiện tham nhũng trong nội bộ các cơ
quan, đơn vị còn hạn chế; có nơi có biểu hiện né tránh hoặc ngại va chạm.
Sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra và các cơ quan tư pháp trong xử lý tham
nhũng chưa kịp thời. Hoạt động của các cơ quan nội chính có lúc, có nơi
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ…


2


Nguyên nhân dẫn đến tình hình trên là do hệ thống chính sách pháp
luật, cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế của Nhà nước có mặt chưa đồng
bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, tạo kẻ hở để các đối tượng lợi
dụng; còn thiếu các quy định và biện pháp cần thiết để phục vụ công tác đấu
tranh PCTN. Công tác chỉ đạo, kiểm tra PCTN của cấp uỷ, chính quyền, thủ
trưởng một số địa phương, đơn vị chưa thật sự thường xuyên. Các cơ quan
chuyên trách về PCTN mới đi vào hoạt động, chưa rõ ràng về chức năng,
nhiệm vụ. Tính tiên phong, gương mẫu trong PCTN và nhận thức đầy đủ về
tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ nạn tham nhũng đối với Đảng và chế độ
của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn yếu...
Áp dụng pháp luật về PCTN qua thực tiễn tại tỉnh Thanh Hóa đang đặt
ra đòi hỏi phải có nhiều hơn nữa sự nghiên cứu, tổng hợp đúc rút kinh
nghiệm, bổ sung lý luận khoa học và đề xuất các giải pháp có tính toàn diện,
đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả công tác PCTN trên địa bàn tỉnh, góp phần
ổn định tình hình an ninh chính trị, thúc đẩy phát triển KTXH, phấn đấu thực
hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2020 Thanh Hóa trở thành tỉnh khá của cả
nước. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Áp dụng pháp luật về PCTN
qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tham nhũng và công tác PCTN là đề tài nhận được sự quan tâm rất lớn
của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, những người làm công tác thực tiễn và
toàn xã hội. Kết quả của sự quan tâm đó là có nhiều đề tài, sách, báo, luận
văn, luận án và các công trình khoa học khác nghiên cứu về tham nhũng, công
tác PCTN ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Thứ nhất, liên quan đến đề tài đã có một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu như sau: “Bàn thêm về vấn đề đấu tranh PCTN” của Nguyễn Mạnh
Kháng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 (1997); “Đấu tranh chống tham


3


nhũng ở nước ta”, Ban Nội chính Trung ương (1998); "Tội phạm kinh tế thời
mở cửa", Nguyễn Xuân Yêm, Nguyễn Hòa Bình, Nxb Công an Nhân dân
(2003), Hà Nội; “Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những nội dung cơ
bản của luật PCTN” của Đinh Văn Minh, Nxb Chính trị quốc gia (2005);
"Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực trạng sai phạm, thất thoát, lãng
phí được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra nhằm góp phần ngăn
ngừa tham nhũng trong đầu tư xây dựng ở nước ta", Phạm Ngọc Đản, Đề tài
nghiên cứu khoa học, Văn phòng Chính phủ (2006), Hà Nội; "Công tác đấu
tranh PCTN trong xây dựng cơ bản", Lê Thế Tiệm và đồng nghiệp, Nxb
Công an Nhân dân (2006), Hà Nội; "Nhận diện tham nhũng và các giải pháp
PCTN ở Việt Nam hiện nay", của tác giả Phan Xuân Sơn, Nxb Chính trị quốc gia
(2010); "Một số vấn đề lý luận - thực tiễn 30 năm đổi mới (1986-2016) về tư
pháp - nội chính, PCTN, lãng phí", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2015); “Tội
phạm tham nhũng thực trạng và một số giải pháp” của đại tá, PGS,TS Đỗ Anh
Tuấn, Phó Cục trưởng Bộ Công an, Tạp chí Nội chính (2016). "Đấu tranh PCTN
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng" của Phan Đình Trạc, Tạp chí
Nội chính số 41 (2017); "Tăng cường công tác PCTN trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa" của Lê Nguyên Thành, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 255 (2017), Học viện
Hành chính Quốc gia; "Nâng cao vai trò của cấp ủy đảng trong công tác PCTN
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" của Lê Nguyên Thành, Tạp chí Nội chính số 46
(2017), Ban Nội chính Trung ương Đảng.
Thứ hai, một số luận văn thạc sỹ nghiên cứu về PCTN, như: “PCTN từ
phương diện giáo dục pháp luật đối với cán bộ, công chức bộ máy hành chính
Nhà nước” của Nguyễn Thị Kim Nhung, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
(2014); “Vai trò của Thanh tra nhà nước trong PCTN ở Việt Nam hiện nay”
của Lương Văn Liệu, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2011);“Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo Luật hình sự Việt

4


Nam” của Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
(2014); “Đổi mới tư duy pháp lý trong đấu tranh PCTN ở nước ta hiện nay”
của Ngọ Duy Hiểu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001); “Hoàn
thiện hệ thống pháp luật về PCTN ở Việt Nam hiện nay” - của Nguyễn Anh
Tuấn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2006); “PCTN dưới góc độ
quản lý hành chính nhà nước” của Nguyễn Mai Anh, Viện Nhà nước và Pháp
luật, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh (2008); “Pháp chế XHCN trong công tác đấu tranh PCTN ở Việt
Nam hiện nay”, của Nguyễn Thu Hiền, Học viện Chính trị Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh (2010)...
Qua khảo sát trên cho thấy, có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề tham
nhũng dưới các góc độ khác nhau, những kết quả nghiên cứu trên rất có ý nghĩa
đối với khoa học nói chung. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học chuyên
ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật về "Áp dụng pháp luật về PCTN
qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa". Bản thân học viên là một cán bộ đang công tác
tại Văn phòng Tỉnh ủy Thanh Hóa.
Qua thực tiễn theo dõi việc áp dụng pháp luật về PCTN trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa, nhận thấy cần phải phát huy những kết quả đã đạt được, đồng thời
tiếp tục nghiên cứu để tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về công
tác đấu tranh PCTN trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ hơn các vấn đề về lý
luận và thực tiễn của việc áp dụng pháp luật về PCTN, qua đó đề ra những
phương hướng, giải pháp bảo đảm đấu tranh PCTN trên địa bàn tỉnh Thanh

Hóa nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu thực tế đang đặt ra trong tiến trình hội
nhập quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5


3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích nêu trên luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật PCTN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật PCTN, tình trạng
tham nhũng và đấu tranh, PCTN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa thời gian qua
thông qua việc tổng kết những kết quả đã đạt được, chỉ rõ thành công và hạn
chế cũng như nguyên nhân của thành công và hạn chế đó.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp bảo đảm đấu tranh PCTN trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về PCTN qua
thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu tập trung làm rõ thực trạng về áp dụng pháp luật
PCTN tại tỉnh Thanh Hóa trong 10 năm, từ năm 2007 đến hết năm 2016.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đặc biệt
là lý luận về áp dụng pháp luật đồng thời luận văn còn được thực hiện trên cơ
sở bám sát các chủ trương, đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam về nhà nước và pháp luật; về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; về cải cách tư pháp trong
giai đoạn hiện nay; coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục pháp luật cho Nhân dân nhằm nâng cao ý thức pháp luật nói chung và ý
thức pháp luật về PCTN nói riêng cho các cá nhân, tổ chức.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là của chủ nghĩa Mác -

6


Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên
cứu cụ thể: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử cụ thể, phân tích
tài liệu thứ cấp…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Sau khi luận văn hoàn thành có thể có một số đóng góp mới sau:
- Phân tích làm rõ và làm phong phú hơn cơ sở lý luận về áp dụng pháp
luật PCTN; xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm
đấu tranh PCTN tại tỉnh Thanh Hóa.
- Luận văn cung cấp cơ sở lý luận của đấu tranh PCTN, từ đó làm cơ sở
cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCTN và nâng cao chất
lượng, hiệu quả về áp dụng pháp luật PCTN.
- Đánh giá khách quan toàn diện về thực trạng áp dụng pháp luật về
PCTN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa; đồng thời, xác định các yêu cầu và luận
chứng các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật PCTN trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong việc áp dụng pháp luật
PCTN ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện quy chế
lãnh đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới, và cũng có
thể là nguồn tư liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu liên quan đến áp
dụng pháp luật PCTN.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT PHÕNG, CHỐNG
THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tham nhũng
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực mang tính lịch sử, gắn bó
hữu cơ với sự tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước. Tham nhũng nảy
sinh, tồn tại và phát triển do sự hư hỏng, biến chất, tha hóa của những người
có chức quyền đã làm biến dạng quyền hạn được trao quyền. Tham nhũng
thường gắn với quan liêu. Quan liêu là tiền đề của tham nhũng và thường là
để thực hiện tham nhũng.
Trong các dạng quyền lực xã hội thì quyền lực nhà nước là một dạng
quyền lực rất dễ bị lợi dụng để tham nhũng. Vì vậy, có thể khẳng định rằng
tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ xã hội với những biểu hiện và mức độ khác
nhau, tùy thuộc bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, mỗi vùng
lãnh thổ trong từng giai đoạn phát triển. Tham nhũng luôn song hành với
quyền lực; nhiều người xem tham nhũng là “bóng tối vươn theo quyền lực”,
thậm chí là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực. Khi nào các hình thức quyền
lực chính trị còn bị “tha hóa”, quyền lực nhà nước còn bị lợi dụng thì nguy cơ
xảy ra tham nhũng còn hiện hữu.
Tham nhũng không phải là khái niệm nhất thành, bất biến. Trong tiếng
Anh là “corruption” với nghĩa thối nát, sai lệch, vi phạm, ý rằng những quan
chức nhà nước đã vi phạm luân thường đạo lý xã hội hoặc các luật lệ nhằm
tìm kiếm nguồn lợi cho bản thân, gia đình, bạn bè, đảng phái, hoặc các nhóm

người có liên quan khác. Tham nhũng thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau nên rất khó định nghĩa và cũng khó phát hiện.

8


Theo Tài liệu hướng dẫn của Liên Hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế
chống tham nhũng năm 1969, định nghĩa tham nhũng là “sự lợi dụng quyền
lực nhà nước để trục lợi riêng”. Theo Từ điển Bách khoa của Thụy Sĩ: “Tham
nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm
trong bộ máy Nhà nước đó là hành vi phạm pháp luật để phục vụ lợi ích cá
nhân”. Nhà nước Áo coi “Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột”.
Từ điển bách khoa của Brue khaus - Đức coi “Tham nhũng là hiện tượng mất
phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền hành”.
Từ điển Tiếng Anh (The Oxford Unabriged Dictionary) định nghĩa: “Tham
nhũng là sự bóp méo hoặc phá hoại tính liêm chính trong thực hiện công vụ
bởi hối lộ hay thiên vị”. Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank) tham nhũng
là sự: “lạm dụng quyền lực công cộng nhằm lợi ích cá nhân”. Tổ chức Minh
bạch Quốc tế (Transparency International –TI) cho rằng, tham nhũng là hành
vi của “người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để
phục vụ cho lợi ích cá nhân”.
Công ước của Liên hợp Quốc về PCTN (United Nations Convention
Against Corruption - UNCAC) được thông qua ngày 31/10/2003 là kết quả nỗ
lực đàm phán của nhiều quốc gia, (đến ngày 01/7/2009, có 136 quốc gia trên
thế giới phê chuẩn, tham gia; Việt Nam phê chuẩn Công ước ngày 30/6/2009),
nhưng cũng không đưa ra định nghĩa về tham nhũng mà chỉ có một số điều
khoản mô tả các loại hành vi tham nhũng, đồng thời yêu cầu các quốc gia trong
khuôn khổ luật pháp và điều kiện thực tế của mình có trách nhiệm xử lý
nghiêm những hành vi tham nhũng, như: Hối lộ, tham ô, biển thủ công quỹ,
hoặc hành vi của công chức lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản,...

Ở Việt Nam, trước năm 1990, khái niệm tham nhũng ít được sử dụng.
Trước đó, khi nói về tham nhũng, các chính trị gia, các nhà khoa học và Nhân
dân thường chỉ rõ các biểu hiện của tham nhũng dưới các dạng hành vi cụ thể

9


như tham ô, hối lộ, quan liêu… mà chưa khái quát thành một khái niệm chung
nhất. Văn bản pháp luật sớm nhất của Nhà nước sử dụng thuật ngữ “tham
nhũng”, quy định việc xử lý hành vi tham nhũng là Quyết đinh số 240-HĐBT,
ngày 26/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về đấu tranh
chống tham nhũng. Tiếp đó các văn bản pháp luật khác quy định trực tiếp về
đấu tranh chống tham nhũng lần lượt được ban hành, như: Pháp lệnh chống
tham nhũng năm 1998; Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh
chống tham nhũng năm 2000; Luật PCTN năm 2005; Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật PCTN năm 2007, năm 2012.
Trong Từ điển tiếng Việt “Tham nhũng” được định nghĩa là: “Lợi dụng
quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của” [36, tr.910]. Theo định nghĩa
này, có lẽ đối tượng tham nhũng ở nước ta chưa được khái quát đầy đủ, vì ở
Trung Quốc, Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a hay Sin-ga-po,…, người ta đều khẳng
định, công chức nhà nước nhận hối lộ cũng là tham nhũng. Nếu hiểu tham
nhũng như các nước đó định nghĩa thì đối tượng tham nhũng ở nước ta không
chỉ là những người có chức vụ “lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và
lấy của”, mà còn bao gồm cả những công chức, viên chức “nhận hối lộ” từ
các thành phần dân cư khác nhau trong xã hội để giải quyết các yêu cầu công
việc của họ có liên quan đến TTHC - pháp luật của Nhà nước.
Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam đưa ra khái niệm:
“Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, tham ô, nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái
chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế tài chính vì động cơ vụ lợi gây thiệt hại

cho tài sản nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của
cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị xã hội” và “tham ô tài sản là hành vi
của người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mà họ có trách
nhiệm quản lý” [31, tr. 1065]. Từ điển Luật học xác định “Tham nhũng là

10


hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây
thiệt hại cho tài sản nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn
của các cơ quan, tổ chức” [35, tr.695].
Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 thì
tham nhũng là "hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi,
gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt
động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức". Tại khoản 2 Điều 1 Luật PCTN số
55/2005/QH11, tham nhũng được hiểu là "hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi". Như vậy, khái niệm
về "tham nhũng" tại 2 văn bản nêu trên có sự khác nhau, thể hiện sự thay đổi
về nhận thức và quan điểm của nhà lập pháp về tham nhũng. Cũng như nhiều
nước khác trên thế giới, tham nhũng ở Việt Nam có biểu hiện đa dạng dưới
nhiều hình thức, ở trong nhiều lĩnh vực khác nhau; vì vậy, việc mô tả, liệt kê
những hành vi tham nhũng và những đặc điểm cụ thể của nó là không cần
thiết và dẫn tới việc "bỏ lọt". Hơn nữa, khái niệm pháp lý đòi hỏi phải có sự
khái quát cao, phản ánh đầy đủ, chính xác về hiện tượng pháp lý. Vì vậy, khái
niệm "tham nhũng" được quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật PCTN năm 2005
có tính khái quát cao hơn, phản ánh đầy đủ hơn về tham nhũng.
Mặc dù được nhìn nhận theo nhiều cách khác nhau, song "tham nhũng"
cũng được hiểu khá thống nhất trong văn hóa pháp lý ở các nước trên thế giới
và có thể hiểu về "tham nhũng" theo hai nghĩa:

Theo nghĩa rộng, "tham nhũng" bao gồm mọi hành vi của bất kỳ người
nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng
chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ được giao để trục lợi cá nhân. Chủ thể của
hành vi tham nhũng có thể là cán bộ, công chức, viên chức hoặc người khác
thuộc khu vực công hay khu vực tư.

11


Theo nghĩa hẹp, "tham nhũng" là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Người có chức vụ, quyền
hạn chỉ giới hạn ở những người trong khu vực công, tức là ở các cơ quan, tổ
chức, đơn vị trong hệ thống chính trị có sử dụng ngân sách của nhà nước, vốn,
tài sản của nhà nước. Việc giới hạn trong khu vực công nhằm áp dụng các
biện pháp PCTN thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm, góp phần nâng cao hiệu
quả đấu tranh PCTN.
Ở bất cứ quốc gia nào, quan niệm đúng đắn về tham nhũng và xác định
rõ ràng về các dấu hiệu của tham nhũng là một trong những yếu tố quan trọng
bảo đảm tính hiệu quả trong đấu tranh PCTN. Khái niệm về tham nhũng theo
quy định của Luật PCTN ở Việt Nam hiện nay là tương đối phù hợp với điều
kiện phát triển KTXH, phù hợp với tình hình tham nhũng và đặc điểm của
cuộc đấu tranh PCTN trong giai đoạn hiện nay. Nhưng trong xu thế hội nhập
quốc tế, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, thì
rất khó có thể phân biệt “khu vực công” và “khu vực tư”. Đặc biệt, trong quá
trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và việc xã hội hoá, chuyển giao
một số lĩnh vực cho các khu vực phi nhà nước tham gia thì càng khó xác định
ranh giới giữa “công” và “tư”.
Ngày nay, quan niệm phổ biến trên thế giới cho rằng tham nhũng là sử
dụng quyền lực “công” để phục vụ lợi ích “tư”, nhưng khái niệm “công” được

hiểu rộng hơn trước nhiều. Khái niệm “công” ngày nay không hoàn toàn đồng
nghĩa với “nhà nước” mà gần đồng nghĩa với khái niệm “của chung” (tức là
hành vi tham nhũng không chỉ có trong các cơ quan trong bộ máy nhà nước
mà có cả ở các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội…).
1.1.2. Đặc điểm của tham nhũng
Có thể nói, khái niệm tham nhũng theo khoản 2 Điều 1 Luật PCTN

12


2005 là khái niệm đầy đủ và khoa học nhất ở Việt Nam từ trước tới nay. Khái
niệm này đã chỉ rõ bản chất của tham nhũng, đồng thời khái quát hoá được
các dạng hành vi cụ thể của tham nhũng. Trên cơ sở khái niệm này, có thể rút
ra được những đặc trưng pháp lý của tham nhũng, từ đó nhận diện và đấu
tranh chống tham nhũng có hiệu quả hơn.
Tham nhũng có các dấu hiệu đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tham nhũng là tập hợp những hành vi của con người, trái với
đạo đức xã hội và pháp luật. Tham nhũng không dùng để chỉ một hành vi vi
phạm cụ thể, mà nó bao quát những hành vi có cùng tính chất. Các dạng hành
vi cụ thể của tham nhũng đã được Điều 3 Luật PCTN và mục A, chương XXI
BLHS 1999 ghi nhận. Tựu trung lại đó là hành vi “tham ô, hối lộ hoặc cố ý
làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi”. Những hành vi về tham nhũng đều là
hành vi trái với các chuẩn mực đạo đức xã hội và được ghi nhận trong pháp
luật là cần thiết phải bị trừng trị. Tham nhũng phá vỡ mối quan hệ đạo đức
giữa cá nhân với xã hội, theo đó người có hành vi tham nhũng chống đối, đi
ngược lại với yêu cầu đạo đức của xã hội. Trên bình diện pháp luật người có
hành vi tham nhũng sẽ bị pháp luật xử lý nghiêm minh, có nghĩa rằng pháp
luật quy định hành vi tham nhũng là một loại vi phạm pháp lý có thể bị xử lý
kỷ luật, hành vi hoặc hình sự.
Thứ hai, tham nhũng chỉ được thực hiện bởi chủ thể là những người có

chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn được hiểu là người có một
vị trí nhất định trong xã hội, vị trí người đó có được có thể là “do bổ nhiệm,
do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc
không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền
hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ” (Khoản 2, Điều 227 BLHS 1999).
Người có chức vụ là người có một chức danh nhất định phù hợp với pháp luật
hoặc Điều lệ hoạt động của tổ chức, có thể được hưởng phụ cấp từ chức danh

13


đó. Người có quyền hạn được hiểu là người tuy không có chức danh nhưng có
quyền hạn nhất định do được giao một công việc cụ thể. Những chủ thể này
đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong hoạt động công vụ.
Người lợi dụng chức vụ thì sử dụng quyền hạn đó, người lạm dụng thì làm
những việc vượt ra ngoài phạm vi chức năng, nhiệm vụ (chức vụ, quyền hạn)
của mình. Họ đã coi chức vụ, quyền hạn của mình như là phương tiện, là thế
mạnh để thực hiện hành vi bất hợp pháp.
Khái niệm người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam không chỉ được
hiểu là những cán bộ, công chức giữ những chức vụ quản lý trong bộ máy nhà
nước hoặc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Theo Luật PCTN,
người có chức vụ, quyền hạn bao gồm:
- Cán bộ, công chức, viên chức;
- Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội Nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ; sỹ quan,
hạ sỹ quan chuyên môn, kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc công an Nhân dân;
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước, cán bộ lãnh
đạo, quản lý người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
- Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong
thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.

Nhìn chung, yếu tố quyền lực là dấu hiệu đầu tiên và cũng là đặc trưng cơ
bản nhất của hành vi tham nhũng. Xét về lý luận, trong các xã hội dân chủ,
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Nhân dân thực hiện quyền lực của mình
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước do
Nhân dân lập ra. Như vậy, việc thực hiện quyền lực nhà nước vừa là quyền vừa
là nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước và mục
đích của việc thực hiện quyền lực đó là nhằm phục vụ Nhân dân, vì lợi ích của
Nhân dân. Thế nhưng, có một số cán bộ, công chức đã coi quyền lực đó như là

14


quyền lực của riêng mình, đã thực hiện quyền lực đó vì lợi ích cá nhân của mình.
Như vậy, khác với những hành vi vi phạm pháp luật khác, chủ thể của hành vi
tham nhũng là người có quyền lực, giữ chức vụ nhất định và được giao những
quyền hạn nhất định. Người không có chức vụ, quyền hạn có thể tham gia
tham nhũng với vai trò đồng phạm.
Đây cũng là dấu hiệu phân biệt hành vi tham nhũng với những hành vi
vi phạm pháp luật khác tuy cũng có yếu tố vụ lợi nhưng không phải tham
nhũng vì nó được thực hiện bởi những người không có chức vụ, quyền hạn,
như: Hành vi trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,...
Thứ ba, hành vi tham nhũng là hành vi cố ý. Mục đích tham nhũng là lợi
dụng chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tiền của hoặc lợi ích vật chất
của Nhà nước, của xã hội, của Nhân dân. Trong hành vi tham nhũng, người
tham nhũng phải sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như một phương tiện
đề mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình hoặc cho người khác. Người
có chức vụ, quyền hạn có thể có hành vi vi phạm pháp luật thông thường
nhưng không phải trên cơ sở lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thì không
phải là hành vi tham nhũng. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật có thể bao gồm cả việc lợi dụng ảnh hưởng của chức vụ,

quyền hạn hay vị trí công tác của người có hành vi tham nhũng.
Thứ tư, mục đích của hành vi tham nhũng là “vì vụ lợi”, nhằm thu lợi
bất chính. Cái thôi thúc chủ thể tham nhũng thực hiện hành vi lúc này không
phải là chức trách, bổn phận, lợi ích của Nhà nước, xã hội hay Nhân dân, mà
là lợi ích của chính chủ thể - lợi ích bất hợp pháp. Thông qua rất nhiều thủ
đoạn khác nhau, chủ thể tham nhũng đã chiếm đoạt tiền, tài sản hoặc “nhận”
được một lợi ích vật chất nhất định. Mục đích vụ lợi có thể được hiểu là người
có chức vụ quyền hạn đã dùng ảnh hưởng của mình để mang lại lợi ích cho
vợ, con, người thân… Khái niệm vụ lợi biểu hiện rất đa dạng trong thực tế.

15


Lợi ích có thể là tiền, tài sản, nhưng cũng có thể là lợi thế về chính trị. Tính
điển hình của hành vi tham nhũng là biểu hiện tham ô, hối lộ, đút lót, làm trái
quy định của pháp luật về chấp hành nhiệm vụ được giao.
Thứ năm, tham nhũng là sự biến dạng theo hướng tiêu cực của hành vi
công vụ, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Tham
nhũng là hành vi đối lập, đi ngược lại với hành vi nhằm thực hiện công vụ.
Chính vì vậy mà tham nhũng đã làm cho tính đúng đắn trong hoạt động của
các cơ quan, tổ chức bị xuyên tạc. Tham nhũng có thể cản trở hoạt động bình
thường của cơ quan, tổ chức, gây trì trệ hoặc làm cho các hoạt động đó vượt
ra ngoài phạm vi luật định. Tính đúng đắn trong hoạt động của cơ quan, tổ
chức bị xuyên tạc cũng đồng nghĩa với việc uy tín cơ quan, tổ chức bị giảm
sút. Trên bình diện xã hội, người ta coi tham nhũng như là một tệ nạn “tệ
tham nhũng”, “nạn tham nhũng”, bởi nó “tương đối phổ biến trong xã hội,
xấu xa và có tác hại lớn”. Do tính phổ biến rộng rãi và tác hại nhiều mặt của
tham nhũng về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, truyền thống, đạo lý mà ở
nước ta, tệ tham nhũng ngày nay đã được ví như là “quốc nạn”, cần phải đấu
tranh diệt bỏ nhằm đảm bảo một Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh.

1.1.3. Nguyên nhân và tác hại của tham nhũng
1.1.3.1. Nguyên nhân của tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có nguồn gốc từ chủ nghĩa cá
nhân mà cụ thể là lòng tham, là khuyết tật tự nhiên mang tính bản năng, là
một phần thuộc về bản chất đời sống con người. Tham nhũng ra đời gắn liền
với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển
của bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước và các quyền lực công khác. Tham
nhũng tồn tại ở mọi chế độ với những mức độ khác nhau. Khi Nhà nước và
quyền lực chính trị còn tồn tại thì còn có điều kiện để xảy ra tham nhũng.
Có nhiều nguyên nhân và điều kiện phát sinh tham nhũng, trong đó có
một số nguyên nhân cơ bản sau:
16


Thứ nhất, tham nhũng phát sinh do nhu cầu thoả mãn bất hợp pháp lợi
ích của những người có chức vụ, quyền hạn. Là một thực thể sinh học, con
người cần có những nhu cầu tối thiểu để duy trì đời sống cá nhân và tồn tại.
Nhu cầu của con người là hết sức phong phú và thường xuyên có sự biến đổi.
Khi nhu cầu này được thoả mãn thì nhu cầu mới lại xuất hiện.
Khi con người xuất hiện nhu cầu thì cũng là lúc con người hướng nhận
thức của mình tới hoạt động tìm phương tiện nhằm thoả mãn nhu cầu. Trong
quá trình tìm kiếm phương tiện để thoả mãn các nhu cầu, con người sẽ tham
gia vào hệ thống các quan hệ xã hội nhất định, trong đó có quan hệ lợi ích.
Trên thực tế, lợi ích là cái thoả mãn và đáp ứng nhu cầu. Lợi ích là khâu trực
tiếp tạo động cơ tư tưởng thúc đẩy hành động của con người càng mạnh mẽ.
Sự kích thích mạnh mẽ có lợi ích có thể thúc đẩy con người theo các chiều
hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Theo chiều hướng tích cực, con
người sẽ có những suy nghĩ, sáng kiến độc đáo, góp phần thúc đẩy tiến bộ
chung của toàn xã hội. Theo chiều hướng ngược lại, vì lợi ích mà con người
có thể hành động bất chấp luật pháp, chà đạp lên đạo lý, phá vỡ mọi chuẩn

mực xã hội. Những người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi tham
nhũng là người hành động theo chiều hướng thứ hai.
Thứ hai, hệ thống chính trị chậm đổi mới, hoạt động của bộ máy Nhà
nước kém hiệu quả; những hạn chế trong quản lý, điều hành nền kinh tế và
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội là nguyên nhân
phát sinh tham nhũng. Một quốc gia quản lý tốt phải có bộ máy nhà nước tốt.
Ở nước ta, sự quản lý, lãnh đạo, điều hành đất nước là sự thống nhất và phối
hợp giữa vai trò lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm quản lý của Nhà nước và sự
tham gia tích cực, có hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội thông qua
việc tuyên truyền, vận động Nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Tuy nhiên, sự không rõ ràng trong phân cấp, phân công vai trò, chức

17


×