Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

SKKN Phương pháp học bài và làm bài tập ở nhà của học sinh lớp yếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.36 KB, 13 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
LỜI NÓI ĐẦU
Sau một thời gian giảng dạy tại trường tôi nhận thấy sự phức tạp của vấn đề
và sự khó khăn của học sinh lớp yếu khi gặp phải khi học môn toán trong quá
trình học bài cũ và làm bài tập về nhà. Nên tôi đã dành một phần thời gian của
mình để nghiên cứu “Phương pháp học bài và làm bài tập ở nhà của học sinh
lớp yếu”. Với hy vọng mang lại hữu ích cho học sinh nên tôi đã hoàn thành đề
tài. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song cũng còn có những hạn chế nên chắc chắn
đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy mong được sự góp ý, phê bình của
Quý thầy cô cùng các bạn để đề tài được hoàn thiện tốt hơn và phong phú hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.

1

1


PHẦN II – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
a) Cơ sở lý luận:
Toán học là môn khoa học tự nhiên gây nhiều hứng thú cho học sinh, nó là
môn học rất quan trọng không thể thiếu trong quá trình học tập, nghiên cứu và
cả cuộc sống hàng ngày. Một nhà toán học và sư phạm nổi tiếng đã nói: “Toán
học được xem là một khoa học chứng minh”.
Nhưng đó chỉ là một khía cạnh, toán học phải được trình bày dưới hình thức
hoàn chỉnh. Muốn vậy người học phải nắm vững các kiến thức toán học từ thấp
đến cao, phải học toán thường xuyên liên tục, biết quan sát, dự đoán phối hợp và
sáng tạo, phải tự lực tiếp thu kiến thức qua hoạt động đích thực của bản thân.
Ngày nay học sinh luôn được tiếp cận với nhiều kiến thức khoa học tiên tiến,
với nhiều môn học mới lại đầy hấp dẫn nhằm hoàn thiện và bắt kịp công cuộc
đổi mới, phát triển toàn diện của đất nước. Trong các môn học ở trường phổ


thông, toán học được xem là môn học cơ bản, là nền tảng để các em phát huy
năng lực của bản thân trong việc tiếp thu và học tập các môn khoa học khác. Tuy
nhiên để học sinh học tập tốt môn toán thì giáo viên phải cung cấp đầy đủ lượng
kiến thức cần thiết, cần đổi mới các phương pháp dạy học, làm cho các em trở
nên yêu thích toán học hơn, vì có yêu thích mới dành nhiều thời gian để học
toán. Từ đó các em tự ý thức trong học tập và phân bổ thời gian hợp lý đảm bảo
yêu cầu học tập của thời đại mới.
b) Cơ sở thực tiễn:
Muốn đạt kết quả cao trong học tập môn toán, ngoài sự tập trung chú ý trong
nghe giảng, tích cực phát biểu ý kiến, hoc sinh còn cần phải chăm chỉ học bài và
làm bài ở nhà.
Ông cha ta có câu “văn ôn, võ luyện” hay Bác Hồ đã dạy: “học phải đi
đôi với hành”. Nếu ta chỉ học tập trên lớp mà không ôn bài,
không vận dụng kiến thức đã học để giải bài tập cũng như liên hệ với thực tiễn
cuộc sống thì trước hết là tư duy kém phát triển ảnh hưởng rất lớn đến việc hình
thành nhân cách con người chỉ cần bắt chước theo những mẫu mực đúng đắn và
thường xuyên thực hành. “Không có chìa khoá nào thần kì để mở mọi cửa ngõ,
không có hòn đá thần kì để biến mọi kim loại thành vàng”.
2

2


Do đó vấn đề học bài và làm bài tập ở nhà trở thành vô cùng quan trọng đối
với tất cả học sinh. Hiện nay, do thay đổi chương trình và phương pháp giảng
dạy nên vấn đề học bài và làm bài tập ở nhà cần phải đặt lên vị trí hàng đầu. Vấn
đề này trở thành một chuyên mục mà nhiều thầy cô giáo phải quan tâm. Nhưng
học bài và làm bài tập ở nhà như thế nào cho đạt được kết quả cao trong học tập
lại là một việc làm không đơn giản. Bởi vì nó là một vấn đề trọng tâm mang tính
chất tổng hợp lại phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan. Không

thể áp dụng máy móc cho tất cả các bài học, bài tập hay các đối tượng mà phải
linh hoạt, uyển chuyển theo nội dung kiến thức cần truyền thụ, theo trọng tâm
yêu cầu của từng bài giảng để phù hợp với cách học nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
2. Mục đích nghiên cứu:
Chỉ ra những hoạt động cụ thể học sinh cần phải làm gì.
Chỉ ra những phương pháp học bài và làm bài tập ở nhà.
Nâng cao chất lượng học tập.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ khái quát: Nêu những phương pháp học bài và làm bài ở nhà theo
nội dung chương trình mới.
Nhiệm vụ cụ thể:
Tìm hiểu thực trạng học sinh.
- Những phương pháp đã thực hiện
- Những chuyển biến sau khi áp dụng
- Bài học kinh nghiệm
4. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 6B, 6C trường THCS Đỉnh Bàn.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Tìm hiểu tình hình học tập của học sinh.
- Phương pháp đọc sách và tài liệu
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp đàm thoại nghiên cứu vấn đề
6. Cơ sở nghiên cứu:
Hai lớp 6 (yếu) củaTrường THCS Đỉnh Bàn
3

3



PHẦN II - NỘI DUNG
I. Thực trạng nảy sinh kinh nghiệm:
1) Đặc điểm tình hình lớp:
- Khối lớp 6 có số lượng học sinh không đồng đều về nhận thức gây khó khăn
cho giáo viên trong việc lựa chọn phơng pháp phù hợp. Nhiều học sinh có hoàn
cảnh khó khăn xa trường, thiếu cả về vật chất lẫn tinh thần, lại nằm trong vùng
bị ô nhiễm biển nặng kinh tế cực kỳ khó khăn, cha mẹ đi làm ăn xa , chủ yếu ở
nhà với người thân và ông bà,do đó việc đầu tư về thời gian và sách vở cho học
tập bị hạn chế nhiều và ảnh hưởng không nhỏ đến sự nhận thức và phát triển của
các em.
- Sau khi nhận lớp và dạy một thời gian tôi đã tiến hành điều tra cơ bản thì
thấy:
+ Lớp 6B là lớp chủ nhiệm. Số em lười học bài, lười làm bài tập chiếm
khoảng 55%; số học sinh nắm chắc kiến thức và biết vận dụng vào bài tập có
khoảng 30%, số học sinh biết phối hợp các kiến thức, kỹ năng để học toán chiếm
khoảng 15%.
+ Lớp 6C: Số em lười học và lười làm bài tập chiếm khoảng 65%; số em
nắm chắc kiến thức và biết vận dụng chiếm khoảng 20%, số các em biết phối
hợp các kiến thức kỹ năng để học toán chiếm khoảng 15%
2) Thực trạng học sinh:
Đa số học sinh hay thỏa mãn trong học tập, các em cho rằng các kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa là những kiến thức đầy đủ nhất và chỉ cần học
thuộc lòng nó để vận dụng vào làm các bài tập là xong. Thường sử dụng sách
giải bài tập chép và đối phó, sử dụng nó một cách thụ động, không có hướng dẫn
của anh chị hay phụ huynh trong gia đình. Chính vì vậy học sinh tiếp thu một
cách thụ động, không cần suy nghĩ mày mò để tự mình khám phá ra kiến thức
mới như một khái niệm, một định lý hay một tính chất nào đó...và những kiến
thức đó không ăn sâu trong học sinh, làm cho học sinh quen khi vận dụng vào
làm các bài tập .Cụ thể qua điều tra ban đầu:
4


4


5

5


Lớp TS
Giỏi
HS TS
%
6B 38
0
0
6C 38
0
0
Tổng 76
0
0
3) Nguyên nhân:

Khá
TS
2
2
4


Tb
Yếu
Kém
% TS %
TS %
TS %
5,3 06
15,8 24
63
06 15,8
5,3 05
13
21
55,3
10 26,3
5,3 11
14,5 45
59,2
16 21,1

Các em chưa có ý thức tự giác trong học tập, chưa có kế hoạch về thời gian
hợp lý khi tự học ở nhà.
Còn ham chơi, học còn mang tính chất để lấy điểm, chưa nắm vững hiểu sâu
kiến thức toán học, không tự ôn luyện một cách thường xuyên có hệ thống.
Trong lớp chưa thật tập trung chú ý vào bài giảng của thầy cô chưa chịu đào
sâu suy nghĩ để phát triển ra các kiến thức mới.
Chưa biết sử dụng đúng sách giáo khoa, sách nâng cao vừa sức, còn hiện tượng dấu dốt không chịu học hỏi bạn bè.
Để khắc phục những tình trạng trên nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh và
làm cho học sinh yêu thích môn toán hơn. Tôi đã tiến hành các biện pháp giáo
dục dưới đây:

II) Tự học, tự rèn luyện và tự giác trong học tập
Ai cũng hiểu muốn có trí thức thì mỗi con người đều phải tự học, tự rèn luyện
không ai có thể học thay được cho mình, mà phải tự lao động để kiếm sống.
Trong cuộc đời, bố mẹ, thầy cô giáo không thể nắm tay dẫn dắt, che chở cho các
em mãi được. Do đó vai trò tự học tự rèn luyện giải bài tập là yếu tố cơ bản nhất
quyết định thắng lợi. Mỗi thành công là 99% mồ hôi và nước mắt, chỉ còn lại
1% là bẩm sinh.
Hướng dẫn học sinh học bài và làm bài tập ở nhà trước hết cần phải xác định
cho các em ý thức học tập tụ giác. Cụ thể học tập vừa là quyền lợi vừa là nghĩa
vụ; vừa là học vừa cũng là chơi vì chơi để mà học, học để mà chơi. Không câu
nệ, gò bó các em, bắt các em phải học nhiều bằng cách ra nhiều câu hỏi và bài
tập. Chỉ nên ra những câu hỏi trọng tâm, bài tập đơn giản dễ hiểu, dễ nhớ đáp
ứng với yêu cầu nội dung bài giảng là đủ. Như vậy tự học ở nhà , rèn luyện cho

6

6


các em thói quen độc lập suy nghĩ, không lùi bước trước những câu hỏi khó ,
bài tập khó.
III) Tinh thần vượt khó hăng say hứng thú trong học và làm bài:
- Trước hết phải đề cao tinh thần ý chí vượt khó khăn, say sưa yêu thích
môn học.
- Học toán quả thật không phải chuyện dễ. Bởi vì toán học đòi hỏi tư duy
lập luận logic chính xác, chặt chẽ. Kết quả lại phải đúng với thực tế, yêu cầu
cường độ học tập cũng như thời gian nhiều hơn so với các môn khác. Nếu không
có tinh thần vượt khó thì không thể hoàn thành nhiệm vụ.
- Một khái niệm, một định nghĩa, công thức, định lí, ….chưa hiểu hay một
bài toán chưa giải được có thể làm cho em chán nản, thiếu tự tin rồi đi đến nản

chí và không muốn học môn toán. Hễ có giờ toán là các em lo sợ. Các thầy cô
giáo phải hiểu tâm lí học toán của học sinh để khắc phục nhược điểm “Sợ học
môn toán”. Mặt khác kiến thức toán học thực sự có mối liên hệ móc xích, hữu
cơ xuyên suốt trong chương trình toán học ở tất cả các lớp.
- Không hiểu kiến thức cơ bản ở lớp dưới thì khó có thể lĩnh hội các kiến
thức ở lớp cao hơn. Thông thường các em chưa thực sự thành thạo kĩ năng thực
hiện các phép tính nên ảnh hưởng tới tiếp thu bài mới, đó là chưa nói đến việc
giải các bài tập. Từ đó đâm ra ngại khó, lười học, lười suy nghĩ, và sẽ không
hứng thú học toán.
- Nhưng ở đời cũng không thiếu những ví dụ về những cái lúc đầu thì sợ,
dần dần bớt sợ, đi đến làm quen, cuối cùng là thích là say mê. Khi đã bắt đầu
yêu thích toán rồi thì sẽ tự giác học tập, say sưa học tập, nhưng cuối cùng học
tập đạt kết quả cao, thì phải thường xuyên rèn luyện phương pháp học tập. Tất
cả mọi công việc, không có lòng đam mê, hăng say và chịu khó thì không thể
thành công. Công việc học toán cũng vậy
IV) Cách học bài ở nhà:
- Trước hết học sinh cần phải có phong cách khoa học trong học tập, tự
rèn luyện cho mình các thói quen tốt sau đây:
7

7


- Thói quen tập trung chú ý: nếu khi học các em biết tập trung chú ý thì
hiệu suất học tập sẽ cao hơn, tránh vừa học vừa xem tivi, vừa nghe nhạc…
1) Thói quen làm việc theo thời gian biểu:
Là học sinh biết tập cho mình tự lên thời gian biểu cho từng ngày, từng tuần ,
từng tháng… việc lên thời gian biểu như thế giúp các em hình dung được các
công việc phải làm và có phương án cụ thể điều chỉnh hợp lí khi cần thiết, phảu
tập được thói quen giờ nào việc ấy. Việc hôm nay không để đến ngày mai.

2) Thói quen luyện bài
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh luyện bài khi học bài ở nhà theo trình tự:
+ Những kiến thức thu nhận được ở lớp cần phải được tái diễn trong bộ nhớ
Bằng cách hồi tưởng lại những gì nghe thấy. Học sinh cần 9, 10 phút để hình
dung lại toàn bộ nội dung bài giảng.
+ Sau đó ghi nhận những điều cơ bản trọng tâm của bài và tự làm lại các ví
dụ mà giáo viên đã đưa ra minh hoạ, thực tế cho thấy nhiều học sinh về nhà
không tự ghi lại kiến thức đã nghe, đã hiểu, do đó sau một thời gian lượng kiến
thức bị mai một dần, dẫn tới bị rỗng kiến thức. Khi luyện bài hầu hết những bài
giảng trên lớp được học sinh hồi tưởng lại lần hai góp phần hiểu và nhớ thêm
một lần nữa, do mới học xong nên nhớ được hầu hết các nội dung bài giảng trên
lớp giúp học sinh thuộc nhanh hơn, từ đó không tốn thời gian . Sau khi xào bài
học sinh có thể tự mình đưa ra những ý kiến, nhận xét của bản thân đúng hay
sai? Cần kiểm tra đối chiếu với sách giáo khoa, sách bài tập hay tài liệu tham
khảo…nếu chỗ nào chưa hiểu thì ghi lại hỏi thầy hỏi bạn. Cuối cùng ghi lại vào
sổ tay toán học cho riêng mình.
3) Thói quen đọc sách giáo khoa, và nghiên cứu sách giáo khoa trước khi
đến lớp
Để chủ động trong học tập , học sinh nên bớt chút thời gian đọc trước nội dung
sắp học, sơ bộ nắm được ý chính, cơ bản đến khi học, học sinh chủ động hơn khi
tham gia chiếm lĩnh kiến thức ở trên lớp.
V) Cách làm bài tập:
Để giải bài tập toán ở nhà, trước hết ta cần đọc kĩ đề bài, phân tích và xác định
bài tập cần sử dụng định lí nào, công thức hay khái niệm gì? Đồng thời có thuộc
8
8


kiểu dạng nào, giống hay không giống các bài tập đã học, hay ví dụ trong bài
giảng trên lớp. Từ những kiến thức đã lĩnh hội, ta mới áp dụng để đưa ra quyết

định giải pháp cụ thể đối với bài tập đã cho.Với những bài toán khó quá, không
giải được ta cầnđọc thêm sách tham khảo, hỏi bạn bè, thầy cô giáo để tìm hướng
giải quyết, không nên chép lời giải của sách giáo khoa, hay cách làm của ai đó
mà phải tự mình nghiên cứu suy nghĩ phát hiện rấcch giải của bài toán. Sau khi
giải xong đặt câu hỏi xem có cách nào khác hay hơn, ngắn gọn hơn cách đã giải,
đồng thời thử đề xuất một bài toán tương tự như bài tập đã làm. Cuối cùng ghi
cách giải hay, độc đáo vào sổ tay toán học riêng của mình.
VI) Hướng dẫn học sinh học bài và làm bài tập ở nhà:
Cụ thể đối với bài học “Tập hợp – Phần tử của tập hợp” sách giáo khoa
toán 6 tập một.
Các em nhớ đọc lại để nhớ kĩ lí thuyết, tức là phải nắm được: Tập hợp, kí
hiệu tập hợp, nhận biết phần tử thuộc hay không thuộc tập hợp; số lượng phần tử
của tập hợp, sau đó vận dụng vào làm bài tập được giáo viên ra về nhà dưới hình
thức “ phiếu học tập”.
PHIẾU HỌC TẬP
Câu 1: Hãy cho một ví dụ về tập hợp. Hãy cho một ví dụ về tập hợp số.
Câu 2: Cho biết số phần tử của mỗi tập hởp câu trên. Khi đó , chỉ ra một phần tử
không thuộc tập hợp đó.
Câu 3: Cho biết cách viết tập hợp, có thể viết tập hợp đã chỉ ra ở câu trên theo
những cách nào? Hãy minh hoạ.
Câu 4: Làm bài tập 1, trang 6 SGK.
Câu 5: Bạn Bình nói : Tập hợp các chữ cái có mặt trong từ “Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” là: { A, C , E , G, H , I , M , N ,U , T ,V , X , O} .Theo em bạn Bình nói
đúng hay sai? Tại sao?
Câu 6: Làm bài tập 3, trang 6 SGK
Câu 7: Làm bài tập 4, trang 6 SGK
Câu 8: Làm bài tập 5, trang 6 SGK.
Câu 9: Nối mỗi dòng ở cột bên trái với mỗi dòng ở cột bên phải trong bảng sau,
để được khẳng định đúng.
9


9


1.Tập hợp { x ∈ N ,1 < x < 7} còn có các

a) { 2; 3; 4; 5; 6 }

cách viết khác là
2. Tập hợp { x ∈ N ,0 < x < 7} còn có cách

b) {1; 2; 3; 4; 5;6}

viết khác là
3. Tập hợp { x ∈ N / x 2, x < 10} còn có

c){ 2; 4; 6;8}

cách viết khác là
4. Tập hợp { x ∈ N , x < 6} còn có cách

d) {0;1; 2;3;4;5}

viết khác là
Câu 10: Cho hai tập hợp:

A = {2; 3; 4; 5; 6}
B = {0; 2; 4; 6}

Điền dấu x vào ô trong bảng sau, sao cho câu trả lời là đúng

Câu
1. Số 2 không thuộc cả hai tập hợp đã cho
2. Số 6 thuộc tập hợp A và số 6 cũng thuộc tập hợp B
3. Các số 2, 4, 6 đồng thời thuộc hai tập hợp đã cho
4. Số 3 chỉ thuộc tập hợp A mà không thuộc tập hợp B
5. Không có số nào thuộc tập hợp B mà không thuộc tập hợp A
6. Số 0 thuộc tập hợp B, còn số 5 không thuộc tập hợp A

Đúng

Sai
X

X
X
X
X

VII. Kết quả sau khi sử dụng các biện pháp:
Với phương pháp thực hiện như trên học sinh được tự tìm ra kiến thức cần
biết một cách độc lập tích cực. Do đó học sinh hứng thú, hiểu bài sâu sắc từ đó
vận dụng tốt.Qua dạy đối chứng và kiểm nghiệm bằng kiểm tra trắc nghiệm tôi
thấy chất lượng học tập được nâng lên và có chiều hướng tốt. Số học sinh yêu
thích toán ngày càng nhiêù hơn.Từ đó các em có kế hoạch học hỏi thêm ở SGK,
ở bạn bè, phát huy duy trì niềm say mê học toán của các em.Học sinh đã biết tự
củng cố, ôn luyện các kiến thức bài tập, biết phối hợp các kiến thức đã học vào
bài tập.
Cụ thể qua khảo sát :
Lớp


TS

6B

38

10

Giỏi
TS
%

Khá
TS
10

%
26,3

Tb
TS
16

Yếu
%
TS
%
42,1 10 26,3

Kém

TS
%
02 5,3
10


6C

38
76

08
18

21,1
23,7

13
29

34,2
38,1

13
23

34,2
30,1

04

06

10,6
7,9

VIII. Bài học kinh nghiệm:
1) Đối với người thầy:
- Tâm huyết và tận dụng những buổi sinh hoạt cuối tuần của lớp để tìm ra
nguyên nhân thường nhật của từng đối tượng, nắm bắt số điện thoại từng phụ
huynh để trao đổi với đối tượng
- Phải nỗ lực vượt khó, phải nắm vững kiến thức trọng tâm để có đủ năng lực
xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập dẫn dắt một cách khoa học.
- Phải nắm vững một số kỹ thuật để soạn bài và dạy theo con đường trực quan
phân tích.
- Người thầy phải nắm bắt kịp thời theo yêu cầu đổi mới phương pháp giảng
dạy nhất là ở giai đoạn đổi mới phương pháp dạy học.
- Tham khảo các tài liệu có liên quan đến bài giảng, thường xuyên củng cố và
nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
- Giảng dạy phải tường minh, chính xác các kiến thức cơ bản của toán học.
Nghiên cứu kỹ chính xác được rõ mục tiêu của từng bài để xây dựng phương
pháp giảng dạy cho phù hợp.
- Khuyến khích động viên học sinh, khen chê kịp thời, đúng lúc. Chú ý giúp
và phân công học sinh khá giúp đỡ các em có học lực trung bình, yếu nắm được
kiến thức cơ bản, mở rộng kiến thức cho học sinh khá .
2) Đối với trò:
- Học sinh phải thật sự nỗ lực, kiên trì, vượt khó và phải thực sự hoạt động trí
óc, phải có óc phân tích một bài toán, biết nắm vững đặc thù của các bài toán để
có thể đa bài toán về dạng quen thuộc đã biết cách giải.
- Phải cần cù chịu khó, ham học hỏi, sử dụng sách tham khảo vừa sức, hiệu quả.
- Học đi đôi với hành để củng cố khắc sâu kiến thức cơ bản của toán học.


11

11


PHẦN III - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Học bài và làm bài tập ở nhà phải có tinh thần tự lực tự cường đồng thời phải
thấy được đó là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi học sinh. Bởi vì công việc này
không ai có thể học thay, làm thay được. Do đó muốn đạt kết quả cao trong học
tập thì ai cũng phải làm bài tập. Nếu chăm chỉ học tập cùng với sự giúp đỡ,
hướng dẫn của thầy cô giáo và bạn hữu thì chắc chắn rằng các em sẽ học hành
tiến bộ.
Nếu có sự tiến bộ trong học tập thì đó là động lực thúc đẩy tinh thần phấn
khởi say mê, ham thích học toán và có lòng đam mê, tình yêu toán học nghĩa là
“Cái gì thuộc về con người thì không xa lạ đối với tôi”.
2. Kiến nghị
- Sáng kiến kinh nghiệm có ý nghĩa với công tác giảng dạy cho bộ môn toán
của trường THCS.
- Khả năng phát triển của sáng kiến là nghiên cứu thêm tính năng lực tự học
ở nhà và thái độ học tập tại lớp của học sinh yếu
- Nguyện vọng: Nâng cao chất lượng học tập của học sinh yếu nói riêng và
chất lượng học đại trà của trường THCS Đỉnh Bàn nói chung.

12

12



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở trờng THCS.
2 Sách hướng dẫn giảng dạy môn toán lớp 6
3 Sách toán nâng cao chọn lọc 6 (Phan Thanh Quang, Lê Khắc Bảo, Nguyễn Vĩnh
Cận )
4 Để học tốt toán 6 (Lê Hồng Đức, Đào Thiện Khải, Lê Hữu Trí, Lê Bích Ngọc)
5 Giải bằng nhiều cách các bài toán 6 (Nguyễn Đức Tấn)
6 Toán nâng cao 6 (Phan Văn Đức)
7 Luyện tập toán 6 (Nguyễn Bá Hòa)

13

13


MỤC LỤC

14

14



×