Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.72 KB, 20 trang )

SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
A- MỞ ĐẦU
I – Đặt vấn đề
1- Cơ sở lý luận của vấn đề
Như ta đã biết môn Giáo dục công dân ở trường THCS nhằm trang bị cho học sinh những
hiểu biết cơ bản, phù hợp với lứa tuổi và hệ thống các giá trị đạo đức, pháp luật của con ng ười
Việt Nam. Trên cơ sở đó hình thành và phát triển cho học sinh ý thức, hành vi của người công
dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chương trình môn Giáo dục công dân bậc THCS
được xây dựng dựa trên cơ sở các môn khoa học cơ bản như: Đạo đức học, Luật học và một số
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước Việt Nam trong giai đọan hiện nay.
Môn Giáo dục công dân tích hợp nhiều nội dung giáo dục xã hội cần thiết cho các công dân trẻ
tuổi như: Giáo dục kỹ năng sống, giáo dục văn hoá hoà bình, giáo dục môi trường, giáo dục giới
tính-sức khoẻ sinh sản vị thành niên, giáo dục phòng tránh HIV/AIDS. Quá trình dạy học môn
GDCD là quá trình khai thác tiểm năng và phát triển tâm lực học sinh, phát triển tính tích cực
hoạt động nhận thức và năng lực tự hoàn thiện của học sinh. Về nội dung môn GDCD hướng học
sinh vươn tới những giá trị cơ bản của người công dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Đó là những giá trị tốt đẹp, thể hiện sự thống nhất giữa tính truyền thống
với tính hiện đại, tính dân tộc với nhân loại. Về chương trình môn GDCD ở trường THCS đảm
bảo tính liên thông với chương trình môn Đạo đức ở Bậc Tiểu học và chương trình GDCD ở
PTTH, đáp ứng mục tiêu giáo dục của cấp
học, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và khả năng nhận thức của học sinh THCS.
Mặt khác nội dung môn GDCD gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực tiễn của học sinh, gắn liền
với các sự kiện trong đời sống đạo đức, pháp luật của địa phương, của đất nước. Từ đó các em
học sinh nhận thức hiểu rõ hơn các vấn đề về pháp luật để có những hành vị, cử chỉ đúng, rèn
luyện tư cách đạo đức làm người có ích cho xã hội. Đồng thời hình thành các năng lực và phẩm
chất học sinh theo hướng đổi mới, góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
trong nhà trường.
2- Cơ sở thực tiễn:
Năm học 2016-2017, năm học đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp; Năm học
tiếp tục thực hiện Chương trình hành động của Bộ GDĐT về thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW


ngày 04/11/2013 của BCH TƯ khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Nghị
quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thông; Quyết định 404/QĐ-TTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng chính phủ về phê
duyệt đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác với CBQL, giáo viên, nhân viên; nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ có nền nếp kỉ
cương; chú trọng giáo dục cho HS về đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, ý thức trách nhiệm của
công dân đối với xã hội, cộng đồng. Thực hiện triệt để dạy học định hướng phát triển năng lực và
phẩm chất học sinh, vận dụng ưu điểm của mô hình THM nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, tự lực, sáng tạo và hợp tác của học sinh; tăng cường kĩ năng thực hành vận dụng kiến thức
vào giải quyết các vấn đề thực tiến; đa dạng hóa hình thức tổ chức dạy học, chú trọng các hoạt
động trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu KHKT; đẩy mạnh ứng dụng CNTT; Tổ chức thi, kiểm tra
đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của HS theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất HS
đảm bảo trung thực, khách quan. Phát triển đội ngũ CBQL, GV về năng lực chuyên môn, kĩ năng
xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất HS;
năng lực tổ chức các hoạt động và đổi mới kiểm tra đánh giá, hoạt động trải nghiệm sáng tạo của
HS nhằm thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.

1


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
Đối với trường THCS Minh Tân, chúng tôi tiếp tục thực hiện phương pháp dạy học và kỹ
thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh. Vận dụng
cách thức tổ chức dạy học theo mô hình trường học mới, chú trọng dạy học sinh cách học, cách
nghĩ; dạy phương pháp tự học; tăng cường rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức.
Chú ý phương pháp dạy và học tích cực: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề; dạy học hợp tác; học
theo hợp đồng; học theo góc; học theo dự án... Kỹ thuật dạy và học tích cực: Kỹ thuật đặt câu
hỏi; kỹ thuật khăn phủ bàn; kỹ thuật mảnh ghép; sơ đồ tư duy; kỹ thuật học tập hợp tác; lắng
nghe và phản hồi tích cực. Đa dạng hóa các hình thức học tập, các hoạt động ngoài trời, ở vườn

trường, phòng thí nghiệm hoặc nơi cơ sở sản xuất ở địa phương, học trên mạng trường học kết
nối; trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học của học sinh, từ đó hình thành các năng lực và
phẩm chất học sinh.
Sau một thời gian nghiên cứu, kết hợp với việc chỉ đạo giáo viên giảng dạy trên lớp, trao
đổi cùng đồng nghiệp, bản thân tôi rút ra kinh nghiệm trong các tiết dạy cần có nhiều hình thức
tổ chức để khai thác kiến thức giúp học sinh củng cố khắc sâu kiến thức đã học, hình thành năng
lực và phẩm chất học sinh. Đó là kinh nghiệm:“ Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn
đề theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong môn GDCD 9". Hy vọng
đề tài góp phần vào việc nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ môn và nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện trong nhà trường.
II- Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1- Đối tượng nghiên cứu
Đề tài“ Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát triển
năng lực, phẩm chất học sinh trong môn GDCD” ở trường THCS. Đối tượng là CBQL, giáo
viên và học sinh lớp 9A, 9B trường THCS Minh Tân – Phù Cừ - Hưng Yên.
2- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về “ Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát
triển năng lực, phẩm chất học sinh trong môn GDCD 9”. Việc tổ chức, chỉ đạo đổi mới
phương pháp dạy học tích cực, áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực, vận dụng dạy học giải
quyết vấn đề và một số hoạt động giáo dục khác góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện ở trường trung học cơ sở. Các văn bản chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT Hưng Yên,
phòng GD&ĐT Phù Cừ. Tài liệu tập huấn kĩ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo trong trường trung học của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tài liệu chuyên môn,
nghiệp vụ khác có liên quan đến tổ chức các hoạt động giáo dục ở nhà trường. Các tình huống và
phương pháp giải quyết vấn đề (xử lý tình huống) trong chương trình dạy học môn GDCD 9.
Thời gian tiến hành từ tháng 9 năm học 2015-2016 đến tháng 3 năm học 2016-2017
nghiệm thu đề tài, đánh giá đề tài và có kết luận thực nghiệm áp dụng trong việc chỉ đạo tổ chức
tốt các hoạt động giáo dục ở nhà trường và chỉ đạo dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong môn GDCD lớp 9 tại trường THCS Minh Tân
trong những năm học tiếp theo.

III- Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài :“ Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát
triển năng lực, phẩm chất học sinh trong môn GDCD 9". tôi áp dụng những phương pháp sau:
1 - Phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu một số tài liệu về phương pháp dạy học, đổi mới phương pháp dạy học tích cực
ở trường THCS của Bộ GD&ĐT. Văn bản chỉ đạo nhiệm vụ năm học của Bộ GD&ĐT; của Sở
GD&ĐT Hưng Yên; phòng GDS&ĐT Phù Cừ. Đặc biệt là các tài liệu tập huấn về quản lí chuyên
môn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Cơ sở lí luận về việc dạy học, quản lí, tổ chức các
hoạt động giáo dục trong nhà trường nhằm phát triển năng lực, phẩm chất học sinh.

2


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
2- Phương pháp quan sát
Quan sát cả giáo viên và học sinh trong quá trình giảng dạy và học tập. Chú ý đến việc xử lý các
tình huống (giải quyết vấn đề) trong bài học. Tập hợp
những biểu hiện, hành vi của khách thể nghiên cứu sau đó kết hợp cùng với các phương pháp
khác để rút ra kết luận cho mỗi đơn vị kiến thức của bài học.
3- Phương pháp điều tra
Để có phương pháp giảng dạy tốt thì người nghiên cứu phải tìm ra được những đặc điểm yêu cầu
của học sinh và những thuận lợi, khó khăn trong quá trình giảng dạy. Tổ chức các hoạt động
trong dạy học môn GDCD, người thực hiện đề tài phải xem sự chuẩn bị bài, vở ghi của học sinh,
đồng thời tìm hiểu kỹ bài soạn để nắm được thực tiễn bộ môn. Khâu then chốt nhất là yêu cầu
giáo viên và học sinh tổ chức thành công phương pháp xử lý tình huống hay(giải quyết vấn đề)
trong giờ dạy GDCD. Qua việc giải quyết vấn đề hình thành năng lực, phẩm chất học sinh Ngoài
ra còn gặp gỡ các em học sinh cùng trao đổi để thấy rõ hơn vấn đề khi giải quyết các tình huống
trong bài học.
4- Phương pháp phỏng vấn

Giáo viên trao đổi với học sinh, đặc biệt đặt ra những câu hỏi để học sinh trả lời đáp ứng những
yêu cầu thắc mắc mà người nghiên cứu cần giải quyết trong đề tài. Đặc biệt là những tình huống
có vấn đề giúp học sinh biết cách giải quyết có hiệu quả nhất.
5- Phương pháp tổng hợp
Đây là khâu tổng hợp thu lượm tất cả những yếu tố, vấn đề đặt ra. Việc tổng
hợp này giúp giáo viên hiểu sâu sắc và chính xác vấn đề nghiên cứu, những thu thập này rất quan
trọng, yêu cầu người thực hiện cần nắm chắc và ghi được một cách khoa học, chính xác để xử lý
tốt và nhanh hơn số liệu thu thập được.
B- NỘI DUNG ĐỀ TÀI SKKN
I- Nhiệm vụ của đề tài
Trên cơ sở nhận thức, tính khoa học và khả năng thực thi, đề tài hoàn thành nhằm mục đích:
Giúp giáo viên cụ thể hoá nội dung bài học theo chương
trình SGK môn GDCD, gắn liền với việc tổ chức bài học theo 5 hoạt động cho học sinh sau khi
học xong chương trình môn học. Thông qua việc vận dụng dạy học phương pháp giải quyết vấn
đề theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9, giáo
viên khuyến khích học sinh biết phân tích vấn đề, liên hệ thực tế, giải quyết tốt các vấn đề trong
bài học một cách tốt nhất, hình thành các năng lực và phẩm chất học sinh. Đánh giá trình độ của
học sinh được thực hiện chủ yếu thông qua việc giải quyết vấn đề (xử lý tình huống), kỹ năng,
phẩm chất cần đạt là một trong những hình thức tổ chức dạy học có hiệu quả trong nhà trường
hiện nay. Đồng thời góp phần vào thực hiện Chương trình hành động của Bộ GDĐT về thực hiện
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCH TƯ khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
Giáo dục và Đào tạo.
II- Tình hình thực trạng nhà trường
1- Đặc điểm tình hình nhà trường.

Năm học 2016-2017, trường THCS Minh Tân có 187 học sinh ở 4 khối, trong đó khối lớp 6
có 45 học sinh, khối lớp 7 có 58 học sinh, khối lớp 8 có 41 học sinh và khối lớp 9 có 43 học sinh.
Đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên và nhân viên là 21, trong đó CBQL có 2, thầy cô trực tiếp đứng
lớp là 16 và 3 nhân viên của tổ hành chính. Trường có Tổ chuyên môn KHXH, Tổ chuyên môn
KHTN và 1 tổ hành chính.

3


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
Đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên, công nhân viên trẻ, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành
mạnh, trình độ chuyên môn vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao, năng động, nhiệt tình trong
tổ chức dạy học và các hoạt động tập thể, thực hiện và chấp hành tốt các quy định của ngành,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
2- Việc quản lí chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ dạy học
Trên cơ sở thực hiện Chỉ thị nhiệm vụ năm học của Bộ GD&ĐT; Nhiệm vụ năm học của Sở
GD&ĐT Hưng Yên; Kế hoạch chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học của phòng GD&ĐT Phù Cừ.
Trường THCS Minh Tân xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học trong đó chú ý
đến việc thực hiện triệt để dạy học định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh, vận
dụng ưu điểm của mô hình THM nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực, sáng tạo và hợp
tác của học sinh; tăng cường kĩ năng thực hành vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề
thực tiến.
Để Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát triển năng lực,
phẩm chất học sinh trong môn GDCD 9 đạt hiệu quả cao, người giáo viên trước hết phải nắm
chắc kiến thức bộ môn, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, áp dụng các kĩ thuật
dạy học tích cực vào giảng dạy, đặc biệt là và cách thức tổ chức dạy học theo 5 hoạt động phù
hợp đối tượng học sinh. Nội dung bám sát yêu cầu cơ bản của môn học trong chương trình
GDCD lớp 9. Trong đó phải chú ý đến yêu cầu về kiến thức; yêu cầu về kỹ năng; thái độ, năng
lực chung, năng lực chuyên biệt, phẩm chất cần đạt, cách thức xử lý tình huống hay (giải quyết
vấn đề) trong giờ dạy GDCD, cách vận dụng vào luyện tập thực hành để xử lý tốt các tình huống
đặt ra.
Sau đây tôi đi vào những vấn đề cụ thể của đề tài:" Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết
vấn đề theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong môn GDCD 9”.
III- Các giải pháp thực hiện đề tài SKKN
1- Những vấn đề lí luận chung về dạy và học tích cực

1.1- Phương pháp dạy và học tích cực là gì?
Thuật ngữ “Phương pháp dạy học tích cực„ được dùng để chỉ những phương pháp giáo
dục/dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Đề cập đến các hoạt
động dạy và học nhằm tích cực hóa các hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của học
sinh. Trong đó, các hoạt động học tập được tổ chức, được định hướng bởi giáo viên, người học
không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích cực tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá kiến
thức, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập
và phát triển năng lực sáng tạo.
Bản chất của dạy và học tích cực là khai thác động lực học tập ở người học để phát triển
chính họ. Coi trọng lợi ích, nhu cầu của cá nhân để chuẩn bị tốt nhất cho họ thích ứng với đời
sống xã hội.
1.2- Đổi mới phương pháp dạy và học tích cực.
Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực chính là phát huy được tính tích cực
nhận thức của học sinh. Nói cách khác là “Dạy học lấy hoạt động của người học làm trung
tâm”. Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực có nghĩa là hoạt động học tập phải
được thực hiện trên cơ sở kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động hợp tác, trong mối quan
hệ tương tác giữa thầy trò, trò-trò trong môi trường học tập thân thiện, an toàn. Trong dạy học
tích cực, học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên đóng vai trò người tổ chức hướng dẫn, đòi hỏi
giáo viên phải có kiến thức sâu, rộng, có kĩ năng sư phạm, đặc biệt phải có tình cảm nghề nghiệp
thì việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực mới đạt hiệu quả. Hoạt động của giáo
viên và học sinh trong dạy học tích cực được thể hiện ở sơ đồ sau:
Người dạy
Người học
4


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9

Định hướng/Hướng dẫn


Nghiên cứu, tìm tòi

Tổ chức

Thực hiện

Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra

Tự kiểm tra, tự điều chỉnh

Về mục đích ta thấy dạy học tích cực có hiệu quả hơn, bài học phải sinh động hơn. Quan hệ
của giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh phải tốt hơn. Hoạt động học tập cũng phong
phú hơn, học sinh được hoạt động nhiều hơn. Giáo viê có cơ hội giúp đỡ học sinh nhiều hơn.
Quan tâm đến nhiều hơn tới sự phát trỉên các nhân, tính sáng tạo của người học.
1. 3- Các dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy và học tích cực
a. Dạy học thông qua các tổ chức hoạt động của HS và chú trọng rèn luyện phương pháp tự
học.
Một trong những yêu cầu của dạy và học tích cực là khuyến khích người học tự lực khám
phá những điều chưa biết trên cơ sở những điều đã biết và đã qua trải nghiệm. Giáo viên nên đưa
người học vào những tình huống có vấn đề để các em trực tiếp quan sát, trao đổi, làm thí nghiệm.
Từ đó giúp học sinh tìm ra những câu trả lời đúng, các đáp án chính xác nhất. Các em còn được
khuyến khích “khai phá” ra những cách giải quyết cho riêng mình và động viên trình bày quan
điểm theo từng cá nhân. Đó là nét riêng, nét mới có nhiều sáng tạo nhất. Có như vậy bên cạnh
việc chiếm lĩnh tri thức, người học còn biết làm chủ cách xây dựng kiến thức, tạo cơ hội tốt cho
tính tự chủ và óc sáng tạo nảy nở, phát triển. Có thể so sánh nếu quá trình giáo dục là một vòng
tròn thì tâm của đường tròn phải là cách tổ chức các hoạt động học tập cho đối tượng người học.
b- Tăng cường hoạt động học tập của mỗi cá nhân, phân phối với hợp tác:
Trong dạy và học tích cực, giáo viên không được bỏ quên sự phân hóa về trình độ nhận
thức, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người học. Trên cơ sở đó người dạy xây dựng các

công việc, bài tập phù hợp với khả năng của từng cá nhân nhằm phát huy khả năng tối đa của
người học. Không có cách dạy cào bằng như phương pháp truyền thống trước đây. Khái niệm
học tập hợp tác ngoài việc nhấn mạnh vai trò của mỗi cá nhân trong quá trình HS cùng nhau làm
việc còn đề cao sự tương tác ràng buộc lẫn nhau. Cái riêng được hòa lẫn vào cái chung và trong
cái chung luôn có cái riêng thống nhất, phù hợp.
C- Dạy và học tích cực quan tâm chú trọng đến hứng thú của người học, nhu cầu và lợi ích
của xã hội.
Dưới sự hướng dẫn của người thầy, học sinh được chủ động chọn vấn đề mà mình quan
tâm, ham thích, tự lực tìm hiểu nghiên cứu và trình bày kết quả. Nhờ có sự quan tâm của thầy và
hứng thú của trò mà phát huy cao độ hơn tính tự lực, tích cực rèn luyện cho người học cách làm
việc độc lập phát triển tư duy sáng tạo, kĩ năng tổ chức công việc, trình bày kết quả.
d- Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tòi.
Thông qua hướng dẫn tìm tòi, giáo viên sẽ giúp các em phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề
và khẳng định học sinh có thể xác định được phương pháp học thông qua hoạt động. Dấu hiệu
đặc trưng này không chỉ đặc biệt có hiệu quả với học sinh lớn tuổi mà còn áp dụng được cho cả
học sinh nhỏ tuổi nếu có tài liệu cụ thể và sự quan tâm của giáo viên. Kinh nghiệm cho thấy đây
5


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
còn là cách để người học tìm lời giải đáp cho các vấn đề đặt ra. Về phía người dạy cần có sự
hướng dẫn kịp thời giúp cho sự tìm tòi của người học đạt kết quả tốt.
e- Kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò.
Đánh giá không chỉ nhằm mục đích nhận biết thực trạng và điều khiển hoạt động học tập
mà còn tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động giảng dạy của giáo viên. Tự
đánh giá không chỉ đơn thuần là tự mình cho điểm số mà là sự đánh giá nỗ lực, quá trình và kết
quả, mức độ cao hơn là người học có thể phản hồi lại quá trình học của mình.
1.4- Một số phương pháp dạy học tích cực trong môn GDCD
1.4.1-Dạy học thông qua các hoạt động :

Hoạt động và giao tiếp là đặc trưng cơ bản của con người. Để hình thành và phát triển nhân
cách người công dân cho thế hệ trẻ, thực hiện được mục tiêu môn GDCD không thể bằng sự lý
thuyết, rao giảng của giáo viên mà phải thông qua các hoạt động và tương tác của chính các em.
Nói cách khác, quá trình dạy học môn GDCD cho học sinh phải là quá trình tổ chức cho các em
hoạt động và tương tác với thầy, với bạn; để thông qua đó các em có thể phát hiện và chiếm lĩnh
nội dung bài học. Các hoạt động này phải do giáo viên thiết kế, dựa trên mục tiêu, nội dung của
bài học; dựa trên trình độ của học sinh và sở trường của giáo viên.
Các hoạt động dạy học môn GDCD rất phong phú, đa dạng, bao gồm các hình thức hoạt
động chủ yếu như:
Thảo luận lớp, thảo luận nhóm.
Đóng vai, diễn tiểu phẩm.
Quan sát, phân tích các tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm.
Xử lý các tình huống. Điều tra thực tiễn.
Nhận xét, phân tích, đánh giá các ý kiến, quan điểm.....
Sưu tầm, tìm hiểu các tranh ảnh, bài báo, các tư liệu có
liên quan đến nội dung bài học và trình bày, giới thiệu sản phẩm sưu tầm được.
Xây dựng các kế hoạch hành động của học sinh.
Xây dựng và thực hiện các dự án thực tiễn.....
Cần lưu ý là các hoạt động dạy học phải được giáo viên thiết kế đan xen nhau một cách hợp
lý trong từng tiết học, để vừa bảo đảm thực hiện được mục tiêu bài học, vừa gây được hứng thú
học tập cho học sinh.
1.4.2- Phương pháp dạy học hợp tác (Nhóm).
Đây là cách dạy trong đó giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động hợp tác với nhau trong
các nhóm nhỏ lẻ để giải quyết các nhiệm vụ học tập, nhằm đạt được mục tiêu học tập.
Trong dạy học môn GDCD, GV cần tạo cơ hội cho học sinh được bày tỏ quan điểm, ý kiến
cá nhân về vấn đề đang học; được nêu những băn khoăn, vướng mắc, đặt câu hỏi cho thầy, cho
bạn; được trao đổi, tranh luận, chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm; được cùng bạn bè xây dựng kế
hoạch, chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh đã được
giao.
Việc dạy học hợp tác sẽ làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề

gay cấn, lúc xuất hiện nhu cầu phối hợp thực sự giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.
Trong hoạt động hợp tác theo nhóm nhỏ, tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn
nắn; ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tương trợ được phát triển. Sự hợp tác trong học tập sẽ giúp
học sinh quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, giúp học sinh hình thành năng
lực hợp tác rất cần thiết với người công dân trong một thế giới phát triển với những sự hợp tác
song phương, đa phương giữa các quốc

6


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
gia và xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Để dạy học hợp tác có kết quả, giáo viên càn xây
dựng môi trường học tập thân thiện, cởi mở, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau trong lớp học.
Tiến trình dạy học hợp tác (nhóm) có thể được chia thành 3 giai đoạn cơ bản:
- Làm việc toàn lớp : Nhập đề và giao nhiệm vụ. Giới thiệu chủ đề. Xác định nhiệm vụ các
nhóm. Thành lập nhóm
- Làm việc nhóm: Chuẩn bị chỗ làm việc.Lập kế hoạch làm việc; Thoả thuận quy tắc làm việc;
Tiến hành giải quyết các nhiệm vụ; Chuẩn bị báo cáo kết quả.
- Làm việc toàn lớp: Trình bày kết quả, đánh giá; Các nhóm trình bày kết quả; Đánh giá kết quả.
* Một số lưu ý
- Có rất nhiều cách để thành lập nhóm theo các tiêu chí khác nhau, không nên áp dụng một
tiêu chí duy nhất trong cả năm học. Số lượng HS/1 nhóm nên từ 4- 6 HS. Nhiệm vụ của các nhóm
có thể giống nhau, hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong một chủ đề
chung.
- Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, luyện tập, củng cố một chủ đề đã học
hoặc cũng có thể tìm hiểu một chủ đề mới.
. - Các câu hỏi kiểm tra dùng cho việc chuẩn bị dạy học nhóm: Chủ đề có hợp với dạy học
nhóm không? Các nhóm làm việc với nhiệm vụ giống hay khác nhau? HS đã có đủ kiến thức
điều kiện cho công việc nhóm chưa? Cần trình bày nhiệm vụ làm việc nhóm như thế nào? Cần

chia nhóm theo tiêu chí nào? Cần tổ chức phòng làm việc, kê bàn ghế như thế nào?
1.4.3- Phương pháp dạy học cách tiếp cận kỹ năng sống.
Kỹ năng sống là khả năng tâm lý-xã hội giúp con người có thể giao tiếp có hiệu quả với
người khác và ứng phó, giải quyết một cách tích cực, có hiệu quả trước những tình huống, vấn đề
của cuộc sống. Các kỹ năng sống chính là cầu nối giúp con người chuyển những kiến thức, thái
độ thành hành động thực tiễn; khắc phục được sự không thống nhất giữa nhận thức và hành vi.
Môn GDCD bao gồm cả việc trang bị kiến thức, bồi dưỡng tình cảm, thái độ và hình thành các
kỹ năng, hành vi của người công dân cho học sinh; trong đó, mục tiêu hình thành hành vi là cái
đích quan trọng nhất cần đạt được của môn GDCD. Vì vậy, việc giáo dục cho học sinh những kỹ
năng sống như: giao tiếp, tự nhận thức, xác định giá trị, ra quyết định, giải quyết vấn đề, ứng phó
với căng thẳng,
biết từ chối, tìm kiếm sự giúp đỡ đáng tin cậy, đặt mục tiêu...là rất cần thiết để giúp các em trở
thành những người công dân tốt của đất nước, có ý thức và hành vi phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức và pháp luật.
1.4.4- Phương pháp dạy học gắn với thực tiễn cuộc sống của học sinh.
Về bản chất, GDCD là môn học giáo dục học sinh cách sống và ứng xử phù hợp với các yêu
cầu của xã hội. Để dạy học môn GDCD có hiệu quả cần gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc
sống của học sinh. Giáo viên cần tăng cường sử dụng các tình huống, các trường hợp điển hình,
các hiện tượng thực tế, các vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội để phân tích, đối chiếu, minh
hoạ cho bài giảng. Đồng thời cũng cần khuyến khích học sinh liên hệ, tự liên hệ, tiến hành điều
tra, tìm hiểu, phân tích, đánh giá các sự kiện trong đời sống thực tiễn của lớp học, nhà trường,
địa phương, đất nước trong quá trình học tập. Đặc biệt cần tạo cơ hội và hướng dẫn học sinh xây
dựng và thực hiện các dự án nhỏ để góp phần vào việc cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội
của lớp học, trường học và địa phương.
1.4.5- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
Nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu chuyện có thật hoặc chuyện
được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra

7



SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
trong cuộc sống thực tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề. Đôi khi nghiên cứu
trường hợp điển hình có thể được thực hiện trên video hay một băng catset mà không phải trên
văn bản viết.
- Các bước nghiên cứu trường hợp điển hình có thể là:
- HS đọc (hoặc xem, hoặc nghe) về trường hợp điển hình
- Suy nghĩ về nó (có thể viết một vài suy nghĩ trước khi thảo luận điều đó với người khác).
- Thảo luận về trường hợp điển hình theo các câu hỏi hướng dẫn của GV.
* Một số lưu ý
- Vì trường hợp điển hình được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nên nó
phải tương đối phức tạp, với các tuyến nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải
là một câu chuyện đơn giản.
- Trường hợp điển hình có thể dài hay ngắn, tuỳ từng nội dung vấn đề song phải phù hợp với chủ
đề bài học, phù hợp với trình độ HS và thời lượng cho phép. Tùy từng trường hợp, có thể tổ chức
cho cả lớp cùng nghiên cứu một trường hợp điển hình hoặc phân công mỗi nhóm nghiên cứu một
trường hợp khác nhau.
1. 4.6- Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “ làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong
một tình huống giả định. `Đây là phương pháp nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề
bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc
“diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau
phần diễn ấy.
* Quy trình thực hiện:
- Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong
đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Lớp thảo luận, nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn; về ý nghĩa của các cách

ứng xử.
- GV kết luận, định hướng cho HS về cách ứng xử tích cực trong tình huống đã cho.
* Một số lưu ý
- Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa
tuổi, trình độ HS và điều kiện, hoàn cảnh lớp học. Tình huống không nên quá dài và phức tạp,
vượt quá thời gian cho phép
- Tình huống phải có nhiều cách giải quyết
- Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho
trước “ kịch bản”, lời thoại.
- Mỗi tình huống có thể phân công một hoặc nhiều nhóm cùng đóng vai
- Phải dành thời gian phù hợp cho HS thảo luận xây dựng kịch bản và chuẩn bị đóng vai
- Cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các nhóm
- Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên đi đến từng nhóm lắng nghe và gợi
ý, giúp đỡ HS khi cần thiết
- Các vai diễn nên để HS xung phong hoặc tự phân công nhau đảm nhận
- Nên khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham gia.
- Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn.......
1.5- Các năng lực và phẩm chất cần đạt trong dạy môn GDCD
* Phẩm chất: Yêu gia đình, quê hương, đất nước; Nhân ái, khoan dung; Trung thực, tự trọng,
chí công vô tư; Tự lập, tự tin, tự chủ và có tinh thần vượt khó; Có trách nhiệm với bản thân, cộng

8


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
đồng, đất nước, nhân loại và môi trường tự nhiên; Tôn trọng, chấp hành kỷ luật, pháp luật và
thực hiện nghĩa vụ đạo đức.
* Năng lực chung:
- Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân: Năng lực tự học; Năng lực giải quyết vấn đề;

Năng lực sáng tạo; Năng lực tự quản lý.
- Nhóm năng lực về QHXH: Năng lực giao tiếp; Năng lực hợp tác
- Nhóm năng lực công cụ: Năng lực sử dụng CNTT và truyền thông; Năng lực sử dụng ngôn
ngữ; Năng lực tính toán
* Năng lực chuyên biệt:
Tự nhận thức về giá trị của bản thân; Tự điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và
chuẩn mực đạo đức XH; Tự chịu trách nhiệm về các hành vi và việc làm của bản thân; Thực hiện
trách nhiệm CD với cộng đồng đất nước; Giải quyết vấn đề về cá nhân và hợp tác giải quyết vấn
đề xã hội.
2- Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát triển năng
lực, phẩm chất học sinh trong dạy học môn GDCD 9.
Như trên đã nêu: Phương pháp và hình thức dạy môn GDCD rất phong phú, đa dạng, bao
gồm cả phương pháp hiện đại (thảo luận nhóm, đóng vai, giải quyết vấn đề, nghiên cứu trường
hợp điển hình, trò chơi, dự án, động não) và các phương pháp truyền thống (thuyết trình, đàm
thoại kể chuyện, nêu gương..); bao gồm cả hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm nhỏ và cá
nhân. Mỗi phương pháp dạy học đều có mặt tích cực và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài
và đòi hởi những điều kiện thực hiện riêng. Vì vậy giáo viên
không nên phủ định hoặc quá lạm dụng một phương pháp dạy học nào. Điều quan trọng là căn
cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào trình độ nhận thức của học sinh và năng lực
sở trường của giáo viên, vào điều kiện của lớp học mà lựa chọn, sử dụng phối hợp các phương
pháp dạy học một cách hợp lí.Trong khuôn khổ của đề tài, tôi đi sâu vào phương pháp chính đó
là:"Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề hình thành năng lực, phẩm chất học sinh
trong dạy học môn GDCD 9".
2.1- Phương pháp giải quyết vấn đề (PP xử lý tình huống).
2.1.1- Về bản chất:
Giải quyết vấn đề (Xử lý tình huống) là xem xét, phân tích những vấn đề/tình huống cụ thể
thường gặp phải trong đời sống hàng ngày và xác định cách giải quyết, xử lý vấn đề/tình huống
đó một cách có hiệu quả.
2.1.2- Quy trình thực hiện:
- Trước hết giáo viên xác định, nhận dạng vấn đề/tình huống.

- Thứ hai:Thu thập thông tin có liên quan đến vấn đề/tình huống đặt ra.
- Thứ ba: Liệt kê các cách giải quyết có thể có.
- Thứ tư: Phân tích, đánh giá kết quả mỗi cách giải quyết (tích cực, hạn chế, cảm xúc, giá trị).
- Thứ năm: So sánh kết quả các cách giải quyết.
- Thứ sáu: Lựa chọn cách giải quyết tối ưu nhất.
- Thứ bảy: Thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn.
- Thứ tám: Rút kinh nghiệm việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác.
2.1.3- Về ưu điểm khi dùng PP giải quyết vấn đề (xử lý tình huống).
- Phương pháp xử lý tình huống (hay PP giải quyết vấn đề) giúp học sinh biết cách giải quyết
tích cực, hiệu quả đối với những khó khăn, thách thức của cuộc sống thực tiễn để có một cuộc
sống có chất lượng, an toàn và lành mạnh.

9


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
- Phương pháp xử lý tình huống còn giúp học sinh phát triển tư duy, phân tích, phê phán và kỹ
năng ra quyết định.
2.1.4- Về hạn chế của phương pháp GQVĐ.
- Trong quá trình sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề (xử lý tình huống) dạy học môn
GDCD thường mất nhiều thời gian nêu vấn đề/tình huống, có nhiều cách giải quyết khác nhau.
- Trong quá trình tranh luận, học sinh có thể gây ồn ào, làm ảnh hưởng đến các nhóm khác,
lớp khác.
2.1.5- Một số điểm cần lưu ý khi sử dụng PP GQVĐ (xử lý tình huống).
+ Các vấn đề /tình huống đưa ra để học sinh xử lý, giải quyết cần thỏa mãn các điều kiện
sau:
- Vấn đề /tình huống đưa ra phù hợp với chủ đề của bài học GDCD.
- Vấn đề /tình huống đưa ra phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh .
- Vấn đề /tình huống đưa ra phải gần gũi với cuộc sóng thực tế của HS.

- Vấn đề /tình huống có thể diễn tả bằng kênh chữ hoặc kênh hình, hoặc kết hợp cả hai kênh
chữ và kênh hình.
- Vấn đề /tình huống cần có độ dài vừa phải.
- Vấn đề /tình huống phải chứa đựng những mâu thuẫn cần giải quyết, gợi ra cho học sinh
nhiều hướng suy nghĩ, nhiều cách giải quyết vấn đề.
+ Tổ chức cho học sinh giải quyết, xử lý vấn đề/tình huống cần lưu ý những vấn đề sau:
- Các nhóm học sinh có thể giải quyết cùng một vấn đề/tình huống hoặc các vấn đề/tình
huống khác nhau, tùy theo mục đích của hoạt động.
- Học sinh cần xác định rõ vấn đề trước khi đi vào giải quyết vấn đề.
- Cần sử dụng phương pháp động não để học sinh liệt kê các cách giải quyết có thể có.
- Cách giải quyết tối ưu đối với mỗi học sinh có thể giống hoặc không giống nhau.
2.2- Các ví dụ minh họa vận dụng PP dạy học GQVĐ theo định hướng phát triển năng
lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9 .
Để làm rõ nội dung các vấn đề nêu trên, tôi áp dụng lấy các ví dụ minh họa như sau:
Ví dụ 1: Khi dạy bài 2 “Tự chủ ” - GDCD lớp 9, tôi đưa ra tình huống có vấn đề (tình
huống) để học sinh tự giải quyết và xử lý tình huống có vấn đề:
* Tình huống 1: Tan học về, các bạn rủ Phong vào quán chơi điện tử ăn tiền. Phong không
muốn nhưng các bạn cứ nài ép. Có bạn còn nói khích Phong là “Đồ ki bo”, “Phong cù
lần”....khiến Phong rất lúng túng....
Nếu em là Phong, em sẽ xử lý tình huống đó như thế nào?
Để giải quyết vấn đề này, tôi dùng PPDH giải quyết vấn đề và KTDH chia nhóm, động não.
Sau đó đưa ra cách giải quyết vấn đề (tình huống): Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kỹ tình
huống, nhận dạng vấn đề tình huống là gì? thu thập nguồn thông tin ở đâu, cách giải quyết tình
huống như thế nào? Lựa chọn cách giải quyết tình huống tốt nhất. Phân tích các dự kiện có thể
xảy ra ở các mức độ khác nhau. Học sinh các nhóm thảo luận, đại diện một học sinh phát biểu,
các em nhóm khác bổ sung, cụ thể như sau:
- Nhận dạng vấn đề đặt ra: Vấn đề đặt ra là các bạn rủ Phong vào quán chơi điện tử ăn tiền.
Phong không muốn nhưng các bạn cứ nài ép. Có bạn còn nói khích Phong là “Đồ ki bo”,
“Phong cù lần”....khiến Phong rất lúng túng..
- GV hướng dẫn học sinh thu thập các nguồn tin, hướng giải quyết tình huống trên: Trước

những lời rủ rê của bạn, học sinh cần xác định thái độ của Phong, xem những phản ứng của
Phong ntn? Từ đó đưa ra cách giải quyết.
- Học sinh thảo luận và đưa ra cách giải quyết, GV nhận xét và kết luận tình

10


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
huống1: Phong cần phải bình tĩnh, kiên quyết từ chối, không tham gia vào những hành vi, việc
làm không tốt ảnh hưởng đến phẩm chất đạo đức và thời gian học tập của mình. Đồng thời
khuyên nhủ các bạn không chơi các trò chơi vô bổ mà cần xác định đúng động cơ học tập của
mình, thực hiện tốt nhiệm vụ cuả người học sinh, những quy định của trường, lớp để trở thành
học trò ngoan
Qua vấn đề trên giúp các em củng cố thêm về đức tính tự chủ, biết làm chủ bản thân mình
trước những hành vi xấu của người khác. Từ đó hình thành các năng lực giải quyết vấn đề, năng
lực hợp tác (hợp tác với các bạn trong nhóm), năng lực sử dụng ngôn ngữ (khi trình bày xử lí
tình huống). Tự nhận thức hành vi của mình, điều chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội
(từ chối không vào chơi điện tử). Đồng thời bồi dưỡng phẩm chất trung thực, tự trọng, tự tin, tự
chủ (không dao động trước lời nói khích của các bạn). Có trách nhiệm với bản thân, với bạn bè,
nhân ái.
* Tình huống 2: Tuấn và Lan cùng là cán bộ lớp 9A, lại ở gần nhà nhau nên hai bạn chơi
rất thân với nhau. Thấy vậy, một số bạn học sinh trong lớp thường trêu chọc, gán ghép khiến cả
Tuấn và Lan rất khó chịu. Hôm nay trong giờ sinh hoạt lớp, mấy bạn đó còn lén dán vào lưng áo
Tuấn tờ giấy có dòng chữ“Anh yêu Lan”.
Nếu là Tuấn, em sẽ xử lý tình huống trên như thế nào?
Trong tình huống tôi dùng PPDH: GQVĐ, kĩ thuật đặt câu hỏi, đàm thoại gợi mở. Trước hết
giáo viên hướng dẫn học sinh xem xét tình huống có vấn đề này khác tình huống trên. Đây là
tình huống bất ngờ, một kiểu chơi đùa quá mức của lứa tuổi học sinh. Vấn đề đặt ra là mấy bạn
lén dán vào lưng áo Tuấn tờ giấy có dòng chữ“Anh yêu Lan”. Vậy Tuấn xử lí như thế nào? Giáo

viên phân tích các vấn đề đặt ra, trò chơi của tuổi học trò, quan điểm về tình bạn, tình yêu tuổi
học trò… tiếp sau đó đặt câu hỏi để học sinh suy nghĩ vấn đề tình huống. giáo viên kết luận giải
quyết tình huống trên là: Cả hai bạn Tuấn và Lan thật bình tĩnh, không nóng nảy, xem xét việc
làm của bạn trêu mình. Phân tích cho các bạn thấy rõ tình bạn trong sáng của lứa tuổi học sinh
và yêu cầu các bạn chấm rứt trò đùa vô ý thức làm tổn hại đến tình bạn trong sáng ở lứa tuổi
học trò. Khuyên các bạn nên giữ những kỉ niệm đẹp trong sáng tuổi học sinh.
Trong tình huống trên, năng lực hình thành đó là năng lực giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ
(trình bày tình huống); Năng lực tự giải quyết vấn đề, năng lực truyền thông (giải thích cho các
bạn hiểu về tình bạn). Tự nhận thức về giá trị bản thân (hành vi trêu đùa của bạn); Điều chỉnh
hành vi của mình phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội (khuyên các bạn không nên trêu đùa
như vậy ảnh hưởng đến tình bạn trong sáng tuổi học trò);thực hiện trách nhiệm của mình(giữ
mãi tình bạn trong sáng đẹp đẽ tuổi học trò). Phẩm chất: Nhân ái, yêu quý bạn bè, khoan dung
(cách giải thích, lời khuyên với bạn); Chí công vô tư; Tôn trọng và có trách nhiệm với bạn
bè.
Đến đây giáo viên kết luận: Hai tình huống trên giúp các em có tính tự chủ trong cuộc sống.
Tự chủ là một phẩm chất đạo đức đáng quý của con người, đặc biệt trong xã hội hiện đại, giúp
con người sống chủ động, vững vàng, vượt qua những khó khăn, thử thách, vươn lên trong cuộc
sống. Để có được tính tự chủ, mỗi con người chúng ta cần phải cố gắng tự rèn luyện trong cuộc
sống hàng ngày, trở thành những người có ích cho xã hội.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 7 “Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc” - GDCD
lớp 9, ta đưa ra tình huống để học sinh tự giải quyết và xử lý tình huống có vấn đề:
Tình huống: Trong buổi toạ đàm nói về truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, Hải đưa
ra ý kiến “Nói về truyền thống của dân tộc Việt Nam, mình có mặc cảm thế nào ấy. So với thế
giới, nước mình còn lạc hậu lắm. Ngoài truyền thống đánh giặc ra, dân tộc ta chẳng có truyền
thống nào đáng tự hào nữa? Lâm phản đối: “Nước mình có rất nhiều truyền thống tốt đẹp chứ?
Bạn chưa hiểu rõ đó thôi?”.

11



SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
Em đồng ý với ý kiến của Hải hay của Lâm?Em sẽ nói gì với các bạn?
Với tình huống vấn đề trên, tôi áp dụng PPDH giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm. Kĩ thuật
dạy học chia nhóm, giao nhiệm vụ.
Cách giải quyết vấn đề: Trước hết giáo viên cho học sinh hoạt động theo nhóm lớn (4
nhóm) và nêu câu hỏi tình huống có vấn đề giao cho học sinh nghiên cứu để thảo luận. Sau đó
phân tích cho học sinh thấy vấn đề tình huống đặt ra là gì? Đó là sự mặc cảm về truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam của bạn Hải. Tiếp theo giáo viên phân tích trong tình huống này thì
đâu là ý kiến đúng, đâu là ý kiến chưa đúng? Tại sao các bạn lại nói như vậy? Rõ ràng trong buổi
toạ đàm đó ý kiến của bạn Lâm nói đúng, do Hải chưa hiểu rõ nên nói vậy. Vì vậy phải nói cho
bạn Hải biết là dân tộc Việt Nam ta có rất nhiều truyền thống quý báu đáng tự hào như “ yêu
nước, bất khuất chống giặc ngoại xâm, đoàn kết, nhân nghĩa, cần cù lao động, hiếu học, tôn sư
trọng đạo, hiếu thảo”…. Điều đó được khắc sâu trong tâm hồn người Việt Nam ta nhất là trong
giai đoạn hiện nay đất nước ta đang mở cửa hội nhập thế giới, muốn cho các nước trên thế giới
thấy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hiểu rõ hơn về con người và mảnh đất anh hùng của
dân tộc Việt Nam, để vị thế của dân tộc Việt Nam ngày được nâng cao trên chính trường quốc tế.
Đặc biệt là giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc Việt Nam.
Qua tình huống vấn đề trên giúp các em hình thành năng lực tự giải quyết vấn đề: (Sự mặc
cảm về truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Giải thích cho Hải hiểu về truyền thống tốt
đẹp của dân tộc). Năng lực hợp tác, giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ (hợp tác nhóm để tìm ra cách
giải quyết vấn đề truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam); Năng lực chuyên biệt(thực hiện
trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ, giữ gìn,kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc).
Về phẩm chất: Yêu gia đình, quê hương, đất nước. Tôn trọng, có trách nhiệm và thực hiện
nghĩa vụ đối với đất nước (Yêu quê hương, đất nước, Tự hào về những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam)
Ví dụ 3: Khi dạy bài 12 “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân” - GDCD
lớp 9, ta đưa ra tình huống có vấn đề để học sinh suy nghĩ, giải quyết và xử lý tình huống có vấn
đề:

Tình huống: Anh Đức và chị Hòa là con bác, con chú ruột nhưng họ yêu nhau. Gia đình và
họ hàng hai bên khuyên can, ngăn cản, nhưng họ vẫn kiên quyết lấy nhau vì họ cho rằng họ có
quyền tự do lựa chọn, không ai có quyền ngăn cản.
Theo em, lý do “tự do lựa chọn”của anh Đức và chị Hòa có đúng không? Nếu anh Đức và
chị Hòa cứ cố tình lấy nhau thì cuộc hôn nhân của họ có hợp pháp không? Vì sao?
Trong tình huống vấn đề này, giáo viên tiếp tục sử dụng PPDH giải quyết vấn đề; động não
và KTDH khăn trải bàn, giao nhiệm vụ.
Cách giải quyết tình huống trên: Giáo viên tung vấn đề và giao nhiệm vụ cho học sinh
nghiên cứu; hướng dẫn học sinh thảo luận theo kĩ thuật khăn trải bàn, các em học sinh ngồi theo
từng vị trí suy nghĩ độc lập, tự trình bày phương án giải quyết của mình, sau đó trao đổi với bạn
rồi đi đến thống nhât cách thức giải quyết vấn đề. Mặt khác hướng dẫn các em đọc kỹ thêm phần
tài liệu tham khảo, nội dung bài học phần 2 những quy định của pháp luật nước ta về hôn nhân.
Học sinh trao đổi thảo luận, phát biểu. Giáo viên nhận xét, kết luận trường hợp anh Đức và chị
Hoa là con bác, con chú thuộc dòng họ trong phạm vi ba đời nên không thể lấy nhau được.
Quyền “tự do lựa chọn” của anh Đức và chị Hoa là không đúng với pháp luật. Khoản 13 điều 8
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nêu rõ “Những người có họ trong phạm vi ba đời là những
người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cúng cha khác mẹ.
Cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú, con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ
ba”.

12


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
Anh Đức và chị Hòa cứ cố tình lấy nhau thì cuộc hôn nhân của họ không hợp pháp theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
Đối với tình huống vấn đề trong bài này, năng lực hình thành là năng lực tự giải quyết vấn
đề (hôn nhân của chị Hoa và anh Đức có quan hệ con chú, con bác); năng lực tư duy độc lập
(học sinh tự trình bày theo quan điểm của mình trong kĩ thuật khăn trải bàn); năng lực hợp tác,

trình bày (các em thảo luận trong nhóm, cách giải quyết tình huống của học sinh); năng lực
chuyên biệt tự điều chỉnh hành vi của bản thân phù hợp với chuẩn mực xã hội (Anh Đức và chị
Hoa không thể kết hôn được vì có quan hệ dòng họ 3 đời theo Luật hôn nhân và gia đình quy
định). Phẩm chất cần đạt: Yêu gia đình, quê hương đất nước. Tôn trọng và chấp hành kỉ luật,
pháp luật và thực hiện nghĩa vụ của công dân (thực hiện đúng Luật hôn nhân và gia đình).
Ví dụ 4: Khi dạy bài 14 “ Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân” - GDCD lớp 9, ta
đưa ra tình huống có vấn đề để học sinh thảo luận, giải quyết và xử lý tình huống có vấn đề:
Tình huống 1: Huy 12 tuổi, khi em học hết bậc Tiểu học, bố dượng bắt Huy nghỉ học để đi
làm thuê cho một xưởng nhuộm vải ở địa phương. Theo em? Huy phải làm gì? Vì sao?
Để giải quyết tình huống trên, giáo viên sử dụng PPDH giải quyết vấn đề, đàm thoại gợi
mở. Kĩ thuật dạy học đặt câu hỏi, trình bày một phút.
Cách giải quyết tình huống trên: Giáo viên nêu câu hỏi, giao nhiệm vụ cho các em, sau đó
gợi mở các ý chính trong cách xử lí tình huống, phân tích, hướng dẫn và tổng hợp ý kiến của
học sinh thảo luận, sau đó kết luận vấn đề:
Việc bắt trẻ em dưới 15 tuổi đi làm thuê và làm công việc độc hại như ở xưởng nhuộm là vi
phạm pháp luật cụ thể là Luật Lao động. Luật ghi rõ “Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm
việc; cấm sử dụng người lao động dưới 18 tuổi làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc
tiếp xúc với các chất độc hại, cấm lạm dụng sức lao động của người lao động dưới 18 tuổi. Cấm
cưỡng bức, ngược đãi người lao động.”
Huy cần thuyết phục người bố dượng để ông ta hiểu và không ép buộc em phải nghỉ học để
đi làm thuê. Huy cũng cần tranh thủ sự giúp đỡ của mẹ, của họ hàng thân thích và cả chính
quyền địa phương trong tình huống này.
Như vậy qua tình huống vấn đề trên năng lực hình thành là năng lực tự giải quyết vấn đề
(Huy 12 tuổi bị bố dượng bắt Huy nghỉ học để đi làm thuê cho một xưởng nhuộm vải ở địa
phương). Năng lực giao tiếp trình bày(cách giải quyết tình huống ). Năng lực tự nhận thức bản
thân ( chưa đủ tuổi để làm việc thuê cho xưởng nhuộm vải); Phẩm chất cần có là trung thực, tự
trọng, tự chủ (trong công việc); Tôn trọng pháp luật, kỉ luật lao động (không được làm việc trong
xưởng nhuộm vải khi chưa đủ tuổi theo quy định, giúp Huy hiểu quyền và nghĩa vụ lao động của
công dân).
Tình huống 2:

Hà 15 tuổi được một người cùng làng giới thiệu ra học nghề làm đầu, uốn tóc ở thành
phố. Nhưng khi ra thành phố, em không được học nghề mà bị chủ nhà đối xử rất tàn tệ, bắt làm
nhiều công việc nặng nhọc, suốt từ sáng sớm đến tối mịt. Trong trường hợp trên, Hà nên làm
gì?
Cách giải quyết tình huống: Giáo viên xác định tình huống nêu ra là Hà
được một người cùng làng giới thiệu việc làm nghề làm đầu, uốn tóc ở thành phố, nhưng vấn đề
đặt ra là Hà không được học nghề mà bị bắt làm các công việc nặng nhọc khác. Trong tình huống
này rõ ràng học sinh thấy được người chủ nhà đã vi phạm Luật Lao động khi họ đã không cho
Hà ký hợp đồng lao động. Không dạy nghề cho Hà như đã giới thiệu thỏa thuận từ trước. Chủ
nhà còn bắt Hà làm việc quá sức mà không trả thêm tiền công. Như vậy trong trường hợp này Hà
nên chấm dứt tình trạng bị vi phạm quyền lao động của mình bằng cách nói thẳng với chủ nhà.

13


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
Nếu họ không thay đổi, Hà cần nhờ chính quyền địa phương can thiệp giải quyết giúp Hà, có như
vậy Hà mới có được quyền và nghĩa vụ của mình trong lao động.
Qua tình huống này hình thành năng lực tự lực bản thân (làm nghề uốn tóc); giải quyết vấn
đề (Hà không được dạy nghề uốn tóc mà bị hành hạ làm nhiều công việc nặng nhọc); Năng lực
tự nhận thức về giá trị bản thân, giải quyết vấn đề các nhân (nhận thức về việc làm của Hà);
Đồng thời hình thành phẩm chất trung thực, tự lập, tự chủ, có trách nhiệm với bản thân, cộng
đồng).
Ví dụ 5: Khi dạy bài 15 “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý của công dân” GDCD lớp 9, tôi đưa ra tình huống để học sinh giải quyết và xử lý tình huống có vấn đề:
Tình huống: Tú (14 tuổi- học sinh lớp 9) ngủ dậy muộn nên mượn xe máy của bố để đi học.
Qua ngã tư gặp đèn đỏ, Tú không dừng lại mà tự ý phóng vụt qua và chẳng may va vào ông Ba người đang đi đúng phần đường của mình, làm cả hai cùng ngã và ông Ba bị thương nặng.
Trường hợp của Tú có vi phạm pháp luật không? Nếu là Tú em sẽ xử lý như thế nào?
Để giải quyết tình huống vấn đề này, tôi tiếp tục sử dụng PPDH giải quyết vấn đề, thảo luận
nhóm; kĩ thuật dạy học chia nhóm, đặt câu hỏi.

Cách giải quyết tình huống như sau: Trước hết giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm cử
1 nhóm trưởng, thư kí ghi chép các bạn học sinh thảo luận ghi vào bảng phụ. Giáo viên hướng
dẫn học sinh xác định tình huống vấn đề đặt ra là Tú đi xe máy, vượt đèn đỏ, va vào người đi
đường bị thương. Hướng các em phân tích các lỗi vi phạm của Tú, cho các nhóm thảo luận, bổ
sung ý kiến và cuối cùng giáo viên nhận xét, kết luận. Với hành vi của Tú nêu trên, Tú có vi
phạm pháp luật đó là: Vi phạp luật an toàn giao thông (không đủ tuổi đi xe máy, không đội mũ
bảo hiểm, vượt đèn đỏ, va vào người đi đường làm ông Ba bị thương). Giáo viên nhấn mạnh theo
Khoản 1 Điều 5 Luật Xử lí vi phạm hành chính năm 2012 nêu rõ: “...các đối tượng bị xử phạt
hành chính bao gồm: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi
phạm hành chính... Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình
gây ra...”
Nếu em là Tú em sẽ nhận lỗi đã vi phạm về an toàn giao thông như không đủ tuổi đi xe
máy, không đội mũ bảo hiểm, vượt đèn đỏ, va vào người đi đường làm ông Ba bị thương. Tú xin
lỗi ông Ba, đưa ông Ba vào viện chữa trị vết thương. Tú phải chịu trách nhiệm trước hành vi vi
phạm pháp luật của mình.
Qua tình huống này, giáo dục học sinh ý thức khi tham gia giao thông, chấp hành nghiêm
túc quy định về trật tự an toàn giao thông và chịu trách nhiệm pháp lý khi vi phạm pháp luật.
Năng lực hình thành đó là năng lực tự giải quyết vấn đề ( vấn đề Tú đi xe máy vi phạm pháp
luật); năng lực hợp tác (thảo luận nhóm tìm ra cách giải quyết); năng lực tự điều chỉnh hành vi
phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội (không đi xe máy khi chưa đủ tuổi quy định). Đồng thời
hình thành phẩm chất tự chủ (biết làm chủ bản thân); tôn trọng, chấp hành pháp luật và thực hiện
nghĩa vụ của mình (chấp hành luật giao thông, có trách nhiệm trong việc tham gia giao thông
đường bộ)..
Ví dụ 6: Khi dạy bài 16 “ Quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của công
dân” - GDCD lớp 9, ta đưa ra tình huống để học sinh giải quyết và xử lý tình huống có vấn
đề:
Tình huống: Bà Thanh là đại biểu HĐND xã, Lâm là công dân của xã, Lâm đến phản ánh
với bà Thanh về việc lấn chiếm đất đai, xây nhà trái phép của một số cán bộ xã.
Theo em: Việc công dân Lâm phản ánh với bà Thanh có đúng địa chỉ không? Nếu em là bà

Thanh, em xử lý tình huống này như thế nào?

14


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
Đây là một tình huống có liên quan đến vấn đề tham gia quản lý nhà nước và xã hội, vấn đề
tiếp dân và cách giải quyết vấn đề công dân phản ánh. Trong tính huống này tôi dùng PPDH
đóng vai, kĩ thuật dạy học đặt câu hỏi để xử lí giải quyết vấn đề.
Cách giải quyết tình huống: Trước hết giáo viên cho học sinh đóng vai: 1 học sinh đóng vai
bà Thanh – đại biểu HĐND xã và 1 học sinh đóng vai anh Lâm là công dân địa phương đến phản
ánh với bà Thanh về việc tình trạng lấn chiếm đất đai xây nhà trái phép của một số cán bộ xã.
Mục đích cho học sinh rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp, biết xử lí các tình huống tạo
cho học sinh tự tin, mạnh dạn trong học tập. Sau khi học sinh giải quyết tình huống, giáo viên
nhận xét, động viên học sinh trong đóng vai xử lí tình huống. Giáo viên phân tích kết luận: Bà
Thanh hiện là đại biểu của HĐND xã, là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa
phương đó. Còn Lâm là cử tri, việc Lâm phản ánh với bà Thanh về các sai phạm của cán bộ địa
phương là đúng theo quy định của pháp luật.
Điều 74 Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang hoặc bất cứ cá nhân nào….”.
Nếu em là bà Thanh thì trách nhiệm của bà Thanh là lắng nghe ý kiến của cử tri (ý kiến của
Lâm). Xem xét và trả lời những yêu cầu kiến nghị của Lâm. Báo cáo, phản ánh hoặc kiến nghị
với cơ quan nhà nước ở địa phương để giải quyết các kiến nghị đó. Đồng thời xem xét, đôn đốc
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định ở điều 121,122 Hiến pháp năm
1992:“ Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội”.
Qua tình huống này tiếp tục hình thành năng lực tự giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo của
học sinh (đóng vai bà Thanh và anh Lâm để giải quyết ý kiến công dân Lâm phản ánh với bàn
Thanh đại biểu HĐND xã về việc lấn chiếm đất công xây nhà trái phép của một số cán bộ xã);

năng lực truyền thông (đưa ra những lí lẽ, căn cứ có sức thuyết phục dựa vào pháp luật để giải
quyết tình huống trên anh Lâm là cử tri, đến phản ánh với bà Thanh về các sai phạm của cán bộ
địa phương là đúng theo quy định của pháp luật, căn cứ vào điều khoản ....); Mặt khác hình
thành phẩm chất tự tin, có trách nhiệm, tôn trọng, chấp hành pháp luật (Bà Thanh lắng nghe ý
kiến của Lâm, phản ánh với cấp có thẩm quyền, kiến nghị xem xét giải quyết).
Ví dụ 7: Khi dạy bài 17 “ Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc” - GDCD lớp 9, ta đưa ra tình huống
để học sinh suy nghĩ, giải quyết và xử lý tình huống có vấn đề: Tình huống 1: Hùng 19 tuổi có
tên trong danh sách khám tuyển nghĩa vụ quân sự ở địa phương, nhưng Hùng không chịu đi
khám, mặc dù đã được nhắc nhở nhiều lần và đã bị xử lý hành chính. Trong đợt tuyển nghĩa vụ
quân sự vừa qua ở địa phương, Hùng đã bỏ trốn đi nơi khác.
Hùng đã vi phạm luật gì? hành vi của Hùng có thể coi là phạm tội không? Vì sao?
Tình huống 2: Bắc là lao động duy nhất trong gia đình. Bố mất sớm, mẹ đau yếu, các em
còn nhỏ chưa đến tuổi lao động. Trong đợt tuyển nghĩa vụ năm đó, Bắc đã trúng tuyển, do hoàn
cảnh gia đình neo đơn nên Bắc đã gửi đơn xin hoãn nhập ngũ, nhưng chưa được giải
quyết.
Vậy trường hợp của Bắc làm đơn xin hoãn nhập ngũ có đúng không? Nếu trong thời gian
chờ giải quyết mà có lệnh gọi nhập ngũ thì Bắc phải xử sự thế nào?
Tình huống 3: Tuấn là sinh viên đại học năm thứ 2. Trong đợt tuyển quân tại địa phương,
Tuấn không đi khám nghĩa vụ quân sự theo giấy báo nên chính quyền địa phương gọi về bắt
giam với lý do trốn nghĩa vụ quân sự.
Theo em việc làm của chính quyền địa phương đúng hay sai?
Đây là ba tình huống có liên quan đến nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của công dân, quyền và
trách nhiệm của công dân. Để giải quyết ba tình huống này, tôi tiếp tục dùng PPDH giải quyết

15


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
vấn đề, thảo luận nhóm (phân lớp làm 4 nhóm); Kĩ thuật dạy học đặt câu hỏi, chia nhóm, trình

bày một phút, hướng dẫn học sinh xử lí tình huống vấn đề đạt hiệu quả.
Với tình huống 1: Cách giải quyết vấn đề là Hùng 19 tuổi, theo Điều 12 Luật nghĩa vụ
quân sự, Hùng đã đủ tuổi được gọi nhập ngũ, tuy nhiên, Hùng lại không chịu đi khám nghĩa vụ
quân sự, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của công dân. Vậy Hùng đã vi phạm
Luật nghĩa vụ quân sự. Theo Điều 69 Luật nghĩa vụ quân sự, Hùng vi phạm các quy định về
đăng ký nghĩa vụ quân sự, tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ.
Hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự của Hùng đã được nhắc nhở nhiều lần, đã bị xử lý hành
chính mà vẫn tái diễn nên hành vi đó có thể coi là phạm tội căn cứ theo Điều 259 Bộ luật Hình
sự năm 1999 - sửa đổi, bổ sung năm 2009: “...Người nào đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự
mà không chấp hành

đúng những quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi
tập trung huấn luyện, đã bị xử lý hành chính theo đúng quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự,
không chấp hành mà còn vi phạm thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”. Hiến pháp năm 2013 nêu
rõ “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng, là quyền cao quý của công dân”.
Ở tình huống 2: Trong tình huống này, lớp 9A có 2 học sinh đưa ra ý kiến khác nhau như
sau:
1- Em Nhiên cho rằng: Bắc làm đơn xin hoãn nhập ngũ là đúng, nhưng nếu trong thời gian
đang chờ giải quyết mà Bắc có đơn gọi nhập ngũ thì Bắc không phải thi hành lệnh nhập ngũ nữa.
2- Em Dược đưa ra ý kiến: Nếu trong thời gian đang chờ giải quyết mà có đơn gọi nhập ngũ
thì Bắc vẫn phải thi hành lệnh nhập ngũ vì theo Điều 27 Luật nghĩa vụ quân sự quy định nên Bắc
phải chấp hành.
Từ 2 ý kiến của hai em Nhiên và Dược, giáo viên phân tích và đưa ra ý kiến kết luận: Trong
trường hợp của Bắc nêu trên, vì Bắc là lao động chính duy nhất trong gia đình nên theo Điều 29
Luật nghĩa vụ quân sự, Bắc thuộc diện tạm hoãn nghĩa vụ quân sự. Việc Bắc làm đơn xin hoãn
nghĩa vụ quân sự là hợp lý. Nếu trong thời gian đang chờ giải quyết mà có đơn gọi nhập ngũ thì
Bắc vẫn phải thi hành lệnh nhập ngũ theo Điều 27 Luật nghĩa vụ quân sự. Sau đó có lệnh tạm
hoãn thì Bắc được hoãn theo quy định của Luật NVQS.
Còn trong tình huống số 3: Cách giải quyết vấn đề là việc làm trên của chính quyền địa
phương là sai vì Tuấn thuộc diện tạm hoãn nghĩa vụ quân sự theo Điều 29, khoản 9 Luật nghĩa

vụ quân sự. Đồng thời theo Điều 29, Khoản 9 Luật nghĩa vụ quân sự quy định: “ Trong thời bình
những người sau đây được hoãn gọi nhập ngũ.…Người đang đi học ở các trường phổ thông,
đang học ở các trường dạy nghề, trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại
học thuộc hệ tập trung dài hạn do Nhà nước quản lý ”….
Qua 3 tình huống vấn đề trên một lần nữa học sinh thông qua việc xử lí tình huống (giải
quyết vấn đề) hình thành năng lực học sinh đó là năng lực tự giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác
(làm việc theo nhóm), năng lực tự nhận thức
về giá trị bản thân, tự chịu trách nhiệm việc làm của bản thân (thực hiện nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc
là trách nhiệm và là nghĩa vụ của mỗi công dân); Qua đó hình thành phẩm chất đáng quý là yêu
tổ quốc, yêu gia đình, yêu quê hương đất nước. Có tinh thần trách nhiệm với cộng đồng đất
16


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
nước, tôn trọng pháp luật, chấp hành pháp luật (thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ tổ quốc). Giáo
dục học sinh lòng yêu nước, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc, trách nhiệm của mỗi công dân trong việc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam yêu dấu.
IV – Kết quả đạt được
Việc“ Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát triển năng lực,
phẩm chất học sinh trong dạy học môn GDCD 9" là một trong những phương pháp rất cần thiết
trong quá trình dạy học bởi nó giúp cho học sinh biết giải quyết tình huống có vấn đề, củng cố
khắc sâu thêm những kiến thức và kĩ năng đã học trong chương trình. Đồng thời có thể tự mình
giải quyết vấn đề xảy ra trong thực tế cuộc sống hàng ngày. Qua đó hình thành các năng lực và
phẩm chất cho các em. Phương pháp giải quyết vấn đề (xử lý tình huống) này có thể áp dụng vào
tất cả các hoạt động trên lớp, từ hoạt động kiểm tra bài cũ đến hoạt động khai thác kiến thức mới
và hoạt động tổng kết, luyện tập củng cố. Ngoài ra cũng có thể áp dụng vào tất cả các dạng bài
như: Dạy lí thuyết, ôn tập thực hành và kiểm tra. Với điểm mạnh của phương pháp này, trong
quá trình chỉ đạo, giảng dạy môn GDCD 9 nói riêng và môn GDCD các khối khác nói chung ở
Trường THCS Minh Tân, tôi đã áp dụng nó một cách triệt để và thấy có kết quả rất khả quan,

học sinh hứng thú học tập, biết xử lí,
giải quyết tình huống, chất lượng học tập của học sinh được nâng cao.
* Ở những bài dạy chưa áp dụng “Phương pháp giải quyết vấn đề theo định hướng phát triển
năng lực, phẩm chất học sinh ”vào giảng dạy thì giờ học trầm hơn, các em rất rụt rè khi phát
biểu ý kiến, việc xử lý tình huống chưa thoả đáng, giáo viên phải làm việc nhiều hơn và phải sử
dụng hệ thống câu hỏi gợi mở nhiều. Học sinh chưa phát huy được tính tích cực, tinh thần độc
lập suy nghĩ, sự hợp tác nhóm trong quá trình học tập. Số lượng học sinh nắm bài chỉ chiếm
khoảng 65 - 70%.
* Khi “ Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát triển năng
lực, phẩm chất học sinh trong dạy học môn GDCD 9" vào giảng dạy, lớp học sôi nổi gây hứng
thú cho cả giáo viên và học sinh. Học sinh mạnh dạn hơn khi phát biểu, thảo luận nhóm, biết xử
lý tình huống theo đúng pháp luật. Phát huy được tính độc lập sáng tạo chủ động của học sinh
trong suy nghĩ và tránh được phương pháp dạy học áp đặt. Giáo viên nói ít hơn, có nhiều thời
gian để học sinh tự tìm hiểu, khai thác vấn đề sâu hơn. Đặc biệt là qua việc giải quyết vấn đề đã
hình thành các năng lực phẩm chất cần thiết cho các em học sinh. Kết quả số lượng học sinh nắm
bài chiếm tới 98 - 100%, rất nhiều học sinh thích làm loại bài tập xử lý tình huống (giải quyết
vấn đề) này bởi loại bài tập này phù hợp với cả 3 loại đối tượng học sinh : Giỏi, Khá-Trung bình
- Yếu. Qua các bài kiểm tra định kỳ chất lượng học sinh đạt 98- 100%. Có học sinh đạt điểm tối
đa ở bài tập xử lý tình huống. Điều đó đã chứng minh việc áp dụng phương pháp dạy học giải
quyết vấn đề theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy học môn GDCD
lớp 9 đã đem lại hiệu quả thực sự, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà
trường.
C- KẾT LUẬN

1- Nhận định chung và bài học kinh nghiệm
Với đề tài “ Sử dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát triển năng
lực, phẩm chất học sinh trong dạy học môn GDCD lớp 9” tôi rút ra cho mình một số kinh
nghiệm khi áp dụng phương pháp này trong giảng dạy như sau:
* Đối với giáo viên:


17


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
- Kiến thức chương trình bộ môn vững vàng. Có phương pháp giảng dạy theo hướng đổi mới.
Áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực, tổ chức dạy học theo 5 hoạt động. Trong các giờ dạy của
mình, giáo viên cần phải chuẩn bị kỹ yêu cầu của bài dạy như đơn vị kiến thức, phương pháp, đồ
dùng...
- Lựa chọn phương tiện phù hợp với bài dạy để trình bày như: Đóng vai tình huống, xử lý tình
huống, trắc nghiệm bằng phiếu, máy chiếu đa năng…. Như vậy học sinh sẽ hững thú hơn rất
nhiều trong giờ học.
- Ở mỗi loại bài dạy, giáo viên cần phải linh hoạt đưa ra các dạng tình huống có vấn đề phù hợp
đối tượng học sinh.Trong hoạt động dẫn dắt và hoạt động tổng kết đều có thể sử dụng phương
pháp này. Tuy nhiên tình huống đưa ra phải ngắn gọn và phải chốt lại được kiến thức cơ bản của
bài, đọng lại trong trí các em kiến thức trọng tâm bài học.
- Trong những bài dạy trên lớp hoặc ngoại khóa, nhờ có hình thức đưa ra phương pháp xử lý tình
huống đã giúp các em tích luỹ vốn kiến thức phong phú cho mình. Ngoài kiến thức trong chương
trình, giáo viên cũng phải trau dồi cho mình những kiến thức liên quan đến chương trình, nhất là
kiến thức liên hệ thực tế, biết xử lý tình huống trong thực tế cuộc sống.
- Trong qúa trình giảng dạy giáo viên không nên độc tôn, sùng bái một phương pháp nào bởi mỗi
phương pháp sẽ có những điểm mạnh và điểm yếu
khác nhau, phải biết kết hợp hài hoà linh hoạt và căn cứ vào nội dung kiến thức và chủ thể giao
tiếp. Trong đó chú ý phương pháp dạy học tích cực, các kĩ thuật dạy học tích cực, tổ chức học
sinh theo 5 hoạt động của mô hình trường học mới VNEN đang là phương pháp dạy chủ yếu
hiện nay trong nhà trường.
* Với học sinh:
- Phải coi trọng hoạt động chuẩn bị bài, nhất là những bài có tình huống và phải xử lý tình
huống. Đó là một trong những hoạt động chính vì đây là thao
tác bước đầu để học sinh tự mình khám phá hình thành phương pháp học bộ môn GDCD.

- Các em phải cố gắng thường xuyên liên tục không ngại khó, ngại khổ, luôn tìm tòi học hỏi ở
thày, ở bạn, ở sách vở để nắm bắt tình huống nhanh nhất, biết xử lý các tình huống tốt nhất.
- Có cách ghi chép khoa học trong khi đọc, nghe giảng và sau khi nghe giảng, trao đổi, thảo
luận nhóm cùng khai thác kiến thức, từ đó giúp các em yêu môn học, có như vậy chất lượng bài
học của học sinh mới là đích thực.
2- Điều kiện thực hiện đề tài .
Đề tài kinh nghiệm“ Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9”, thực hiện trong năm học
2015-2016 và năm học 2016-2017 trên cơ sở thực hiện Chỉ thị của Bộ GD&ĐT, Hướng dẫn của
Sở GD&ĐT Hưng Yên, sự chỉ đạo trực tiếp của phòng GD&ĐT Phù Cừ về việc thực hiện nhiệm
vụ năm học 2015-2016; 2016-2017.
Sự quyết tâm cao của BGH, các tổ chức đoàn thể trường THCS Minh Tân thường xuyên
trao đổi về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, góp ý xây dựng các giải pháp để cùng tổ
chức, thực hiện đề tài “Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát
triển năng lực, phẩm chất học
sinh trong dạy môn GDCD lớp 9” và các hoạt động giáo dục khác. Sự cộng tác, tinh thần trách
nhiệm nhiệt tình của giáo viên tổ KHXH, học sinh lớp 9A, 9B trực tiếp tham gia thực hiện đã
giúp tôi triển khai và hoàn thành đề tài SKKN.
3- Những vấn đề bỏ ngỏ.

18


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
Như trên đã nói, đề tài kinh nghiệm“Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo
định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9” tuy thực hiện
trong hai năm học 2015-2016; 2016-2017 đã đạt hiệu quả tốt, song trong quá trình thực hiện còn
một số vấn đề hạn chế, khó khăn đó là: Còn một vài học sinh thiếu tự tin, chưa mạnh dạn tham
gia vào các hoạt động tập thể, kĩ năng xử lí tình huống còn chậm. Số lớp thực hiện đề tài còn ít,

thời gian không có nhiều nên tôi chưa có điều kiện khảo sát kỹ và toàn bộ học sinh. Vì vậy thực
trạng và kết quả thu được chưa như mong muốn. Do vậy chúng tôi tiếp tục nghiên cứu, tìm giải
pháp nhằm hạn chế vấn đề tồn tại để đề tài đi vào hoạt động thực thi mang lại kết quả cao góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đáp ứng sự nghiệp giáo dục trong năm học tới.
4- Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp.
Đề tài“Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát triển năng
lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9” được triển khai thực hiện tại trường THCS
Minh Tân huyện Phù Cừ trong hai năm học 2015-2016 và 2016-2017. Nhà trường đã nghiệm
thu, đánh giá cao về tính khả thi, triển vọng của đề tài.
Thông qua PP dạy học giải quyết vấn đề theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất
học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9 đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong CBQL, giáo viên,
học sinh. Chất lượng giáo dục toàn diện hàng năm được tăng dần. Điều đáng phấn khởi là các em
học sinh mạnh dạn, tự tin, được rèn các kĩ năng sống, biết giải quyết các vấn đề, xử lí các tình
huống, bổ sung các kiến thức phong phú trong đời sống xã hội; Các em biết làm chủ bản thân, có
trách nhiệm, biết ứng xử linh hoạt, hiệu quả, tự tin trong các tình huống giao tiếp hàng ngày; Có
suy nghĩ, hành động tích cực và có những quyết định đúng đắn trong cuộc sống. Hình thành các
năng lực, phẩm chất học sinh. Đồng thời các em trở lên thân thiện cùng giúp đỡ nhau tiến bộ.
Giáo viên có cơ
hội cùng giao lưu chia sẻ kinh nghiệm trong đồng nghiệp và với học sinh để góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện hiệu quả mục tiêu giáo dục đề ra.
Với tính khả thi của đề tài kinh nghiệm trên, nhà trường tiếp tục chỉ đạo thực hiện trong
những tháng còn lại của năm học 2016-2017 và trong những năm học tiếp theo.
5- Kiến nghị và đề xuất.
Để thực hiện mục tiêu giáo dục Việt Nam ở thế kỉ XXI “Học để biết, học để làm, học để tự
khẳng định và học cùng để chung sống”và thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện GD
Việt Nam theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng. Chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Kế hoạch số 63/KH-UBND ngày 19/5/2014 của UBND
tỉnh Hưng Yên thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy về đổi mới căn bản, toàn diện GD
và đào tạo và Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2016-2017 của sở GD&ĐT Hưng Yên,

phòng GD&ĐT Phù Cừ, Trong đó có nhiệm vụ thực hiện triệt để dạy học định hướng phát triển
năng lực và phẩm chất học sinh, vận dụng ưu điểm của mô hình THM nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, tự lực, sáng tạo và hợp tác của học sinh; tăng cường kĩ năng thực hành vận dụng
kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn trong nhà trường. Tôi có một số kiến nghị sau:
- Đối với giáo viên: Thường xuyên trau dồi kiến thức, đổi mới phương pháp giảng dạy theo
hướng tích cực. Áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực vào bài giảng. Đặc biệt cùng các em học
sinh tích cực tham gia các hoạt động giáo dục và đặt hiệu quả công tác giáo dục lên hàng đầu,
nhất là hiện nay toàn ngành đang thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy về đổi mới căn
bản, toàn diện GD và Đào tạo.
- Nhà trường và các đoàn thể: Chỉ đạo và tổ chức thực hiện triệt để dạy học định hướng phát
triển năng lực và phẩm chất học sinh, vận dụng ưu điểm của mô hình THM nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, tự lực, sáng tạo và hợp tác của học sinh; tăng cường kĩ năng thực hành vận

19


SKKN: Vận dụng phương pháp dạy học Giải quyết vấn đề theo định hướng
phát triển năng lực, phẩm chất học sinh trong dạy môn GDCD lớp 9
dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Tăng cường, quan tâm đến việc đổi mới hình
thức tổ chức sinh hoạt tập thể. Đồng thời tổ chức hội thảo, chuyên đề cấp tổ, trường, cấp cụm
trường về dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh thực sự có hiệu quả
và có tính khả thi cao trong những năm học tiếp theo.
- Đối với các cấp lãnh đao Sở Giáo dục Hưng Yên và phòng GD&ĐT Phù Cừ: Tăng cường
tổ chức hội thảo, chuyên đề về dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh
và các hoạt động giáo dục khác để giáo dục Phù Cừ thực sự đổi mới, hiệu quả, góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện theo mục tiêu giáo dục đặt ra.
Trên đây là đề tài SKKN của tôi nghiên cứu và thực nghiệm trong năm học 2015-2016 và
năm học 2016-2017. Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản thân tôi viết, không sao chép của
người khác. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước cấp trên.
Minh Tân, ngày 25 tháng 3 năm 2017

Người thực hiện

20



×