Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN Một số giải pháp thực hiện dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN) đạt hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.42 KB, 21 trang )

1. Phần mở đầu:
1.1 Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, Tiểu học là bậc học nền tảng. Sự thành công
của giáo dục Tiểu học có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển và chất lượng của các
bậc học tiếp theo. Đây là bậc học cơ sở đặt nền móng cho sự phát triển của một Quốc
gia. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, thì giáo dục Tiểu học không ngừng đổi
mới và đổi mới lần này, tôi nghĩ là bước tiến quan trọng trong cải cách giáo dục.
Trong dạy học, để học sinh lĩnh hội kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo thì người
giáo viên phải biết tìm tòi, khám phá ra mọi kĩ năng nhằm giúp cho việc dạy học đạt
kết quả cao.
Phương pháp dạy và học theo mô hình VNEN: Coi quá trình tự học của học sinh là
trung tâm hoạt động giáo dục, giáo viên là người hướng dẫn, đồng hành với học sinh,
giúp học sinh tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức.
Năm học 2015-2016, trường tôi được áp dụng dạy học theo mô hình Vnen. Bản
thân tôi được trực tiếp giảng dạy lớp 5 1. Đây là năm thứ Nhất Nhà trường thực hiện
dạy học theo mô hình vnen nhân rộng, mọi cái vẫn còn bỡ ngỡ. Vì thế người giáo
viên tiểu học có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy và
học, hình thành phương pháp tự học, hình thành nhân cách cho học sinh. Nhưng làm
được điều đó không phải là dễ và đây là điều tôi luôn trăn trở trong quá trình thực
hiện dạy học theo mô hình VNEN.
Xuất phát từ nhận thức trên, là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 5, bản thân tôi luôn
nghiên cứu, tìm ra những phương pháp dạy học đạt hiệu quả góp phần đổi mới sự
nghiệp giáo dục. Vì vậy tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp thực
hiện dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN) đạt hiệu quả” để nghiên cứu.
1.2. Điểm mới của của sáng kiến kinh nghiệm:
Tôi thấy đề tài này đã có một số đồng nghiệp nghiên cứu và cũng đã chia sẻ một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học theo mô hình vnen nhưng những giải
pháp đưa ra chưa cụ thể, chưa sát với thực tế của đối tượng học sinh ở trường tôi. Bản
thân tôi rất trăn trở “làm thế nào nâng cao hiệu quả dạy học theo mô hình vnen” . Nên
1



tôi đã mạnh dạn tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân dẫn đến thực trạng, để từ đó tìm ra
một số giải pháp nhằm giúp chúng ta thấy được những đổi mới trong mô hình dạy
học này, đặc biệt vai trò, vị trí của giáo viên, học sinh trong hoạt động dạy- học.
Phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới VNEN khác phương pháp dạy
học hiện hành: Đây là mô hình dạy học không những đổi mới về tổ chức lớp học, về
trang trí lớp mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy học theo nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động
dạy học, giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất để mọi học
sinh được tham gia vào quá trình học tập giáo viên tổ chức hoạt động học tập giúp
học sinh vừa tự lực nắm các tri thức, kĩ năng mới, đồng thời được rèn luyện về
phương pháp tự học, được tập dượt phương pháp nghiên cứu. Giáo viên quan tâm vận
dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân và của tập thể học sinh để xây
dựng bài học. Phương pháp học theo nhóm luôn hiện hữu, cố định, xuyên suốt cả quá
trình tham gia học tập của học sinh. Học theo phương pháp này các em được học tập
thoải mái, được trải nghiệm, được vui chơi trong giờ học giúp các em rất tự tin, nên
các em rất thích đến lớp đến trường và hứng thú trong học tập. Phương pháp dạy học
theo mô hình trường học mới giúp học sinh phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo
trong học tập và rèn luyện một số kĩ năng cơ bản như kĩ năng hợp tác, kĩ năng học
nhóm, kĩ năng giao tiếp. Góp phần cùng nhà trường nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện.
2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng của việc đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình trường học
mới ( VNEN).
a. Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi
Ngay từ đầu năm học, Nhà trường đã chỉ đạo tốt công tác bồi dưỡng giáo viên theo
hướng tự học, tự bồi dưỡng, tự làm đồ dùng dạy học, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm
đồng nghiệp qua sinh hoạt chuyên môn tại tổ, trường. Đặc biệt giáo viên được tham
gia tập huấn dạy học theo mô hình vnen.

2


.
Phụ huynh học sinh đa phần đã có sự quan tâm, chăm lo hơn về việc học hành của
con em mình, mua sắm tương đối đầy đủ vở và đồ dùng học tập, tạo điều kiện thuận
lợi cho các em tới trường, thường xuyên giữ được mối liên hệ với giáo viên chủ
nhiệm lớp và nhà trường.
Trường học khang trang, phòng học rộng, sạch sẽ, trang bị đầy đủ bàn ghế và
bảng đen, có thiết bị, đồ dùng dạy học. GV nhiệt tình, có ý thức trách nhiệm với học
sinh.
Môi trường giáo dục nhà trường đảm bảo, dân chủ, thân thiện, đổi mới các hoạt
động giáo dục, đủ các điều kiện cho việc triển khai chủ trương thực hiện việc làm đổi
mới của nhà trường.
Đặc biệt một số học sinh tích cực học tập, chủ động giao tiếp, sẻ chia với bạn và
chủ động tiếp cận các giải pháp theo hướng tự chủ của bản thân.
* Khó khăn
Giáo viên:
Tài liệu nghiên cứu về mô hình này cũng chưa nhiều. Còn hạn chế về chuyên
môn, nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm công tác.
Học sinh:
Mô hình VNEN còn rất mới mẻ, học sinh lần mới tiếp xúc với mô hình nên
còn nhiều bở ngỡ trong tổ chức lớp học, chưa quen với các công việc, phương pháp
làm việc theo nhóm, như: Không tập trung nghe bạn giao nhiệm vụ, chưa biết cách
giao nhiệm vụ cho bạn, chưa biết cách giao tiếp, diễn đạt trong nhóm. Đặc biệt chưa
quen với công tác tự học, tự phám phá tri thức.
Nhiều học sinh khả năng tư duy, suy luận chưa cao.
Một số học sinh ý thức trách nhiệm chưa cao.
b. Thành công, hạn chế
* Thành công

- Tạo được không khí vui tươi, sinh động cho giờ dạy.

3


- Có thể phát triển năng lực toàn diện cho học sinh từ tâm lí, tính cách cho đến
kỹ năng và hành vi giao tiếp…
- Học sinh hợp tác làm việc tập thể nên có thể bổ sung cho nhau những thiếu
sót.
- Qua quan sát hoạt động của các nhóm, giáo viên có thể đánh giá chính xác
năng lực của từng học sinh từ đó kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy học cho phù hợp,
đồng thời cũng kịp thời chấn chỉnh thái độ học tập không tốt của học sinh.
* Hạn chế
- Giáo viên thường bị động về thời gian.
- Trong nhóm thường chỉ tập trung ở một số đối tượng tích cực, có năng lực
nên chưa mang lại hiệu quả như mong muốn.
c. Mặt mạnh, mặt yếu
* Mặt mạnh
Sau thời gian thực hiện hình thức hợp tác nhóm trong giảng dạy, tôi đã thu
nhận được những kết quả khả quan.
Về phía giáo viên:
- Hiệu quả tiết dạy được nâng cao.
- Tiết dạy sinh động, GV rèn được kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội cho học
sinh.
- Được bồi dưỡng về phương pháp dạy học theo nhóm.
Về phía học sinh:
- Được hấp dẫn, lôi cuốn vào các hoạt động học, thu lượm kiến thức bằng
chính khả năng của mình. Phát huy cao vai trò của từng thành viên trong nhóm, đề
cao năng lực cá nhân bởi vì các em đã được đảm trách nhiều vai trò khác nhau trong
nhóm của mình.

- Tăng cường sự hợp tác.
- Rèn được sự tự tin, mạnh dạn trước đám đông, khả năng diễn đạt lưu loát
hơn.

4


Sau khi áp dụng hình thức này trong công tác giảng dạy qua năm học 20152016, với tính hiệu quả của biện pháp nêu trên, cộng với sự quan tâm và nỗ lực của
bản thân, sự tự giác hợp tác học tập của học sinh, các em đã có những tiến bộ rõ rệt.
Động cơ học tập và chất lượng học tập của các em yếu cũng được nâng lên, các em
đã tự tin, hòa đồng, bớt mặc cảm, tự ti trong học tập.
d. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Học theo mô hình trường học mới VNEN, học sinh được học tập tích cực, chủ
động, hứng thú do có cơ hội chia sẻ những trải nghiệm cá nhân, có cơ hội thực hành
và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống hằng ngày. Học sinh có nhiều cơ
hội để độc lập suy nghĩ khi làm việc cá nhân và có nhiều cơ hội để phát huy năng lực
hợp tác khi học theo nhóm. Học sinh chủ yếu làm việc theo nhóm nhỏ và sau mỗi nội
dung học tập, các em được tranh luận, được đánh giá lẫn nhau. Việc tự học của học
sinh được thực hiện trong bối cảnh có hướng dẫn của giáo viên. Các em được giáo
viên giao nhiệm vụ, được giáo viên trực tiếp hỗ trợ khi cần. Các em cũng được nghe
ý kiến của giáo viên như là những quyết định của trọng tài trong các cuộc thảo luận,
trao đổi ý kiến.
Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên, học theo mô hình trường học mới
VNEN, học sinh cần có nhiều thay đổi về cách học. Học sinh cần học một cách chủ
động, tự đọc sách, tự thực hiện các hoạt động theo chỉ dẫn của sách. Khi có khó khăn,
các em cần tự tìm kiếm sự hỗ trợ từ bạn trong cùng cặp, cùng nhóm, tìm kiếm sự hỗ
trợ cuả giáo viên. Mô hình trường học mới VNEN chú trọng vào các hoạt động học
tập tương tác. Học sinh được rèn kĩ năng hợp tác với bạn cùng cặp, nhóm, cùng lớp.
Học sinh không chỉ học theo cách làm nêu trong sách mà còn được khuyến khích phát
biểu các ý kiến cá nhân, đề xuất cách thực hiện nhiệm vụ học tập cùng bạn. Tuy

nhiên, những thay đổi về cách học là thách thức lớn đối với học sinh vì đây là năm
học đầu tiên các em được học theo mô hình vnen nhân rộng .
Vì thế, muốn hoạt động thảo luận nhóm thành công, giáo viên phải nắm vững
phương pháp, biết cách tổ chức, biết kết hợp nhiều phương tiện, kỹ thuật hỗ trợ. Song

5


yếu tố quyết định vẫn là ở học sinh. Vì thế, ngoài việc phải năng động, tích cực, các
em cần được hướng dẫn cụ thể trước khi tiến hành thảo luận.
- Trong thực tế một số giáo viên còn lúng túng khi thực hiện dạy học theo phương
pháp VNEN. Họ chưa thấy hết tầm quan trọng của việc rèn cho học sinh phương
pháp tự học và học theo nhóm. Vì vậy có những bài tập có liên quan đến kiến thức
mới họ còn làm thay cho học sinh vì họ sợ học sinh không hiểu bài. Thói quen trước
đây giáo viên giảng giải, thuyết trình vẫn còn. Với cách dạy như trên không rèn được
cho học sinh thói quen tự học và học theo nhóm, các em luôn có thói quen chờ đợi,
không tự mình suy nghĩ, tìm tòi để phát hiện ra kiến thức mới.
- Một số nhóm trưởng chưa mạnh dạn tự tin để lãnh đạo nhóm mình hoạt động.
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2015 – 2016:
Vào tuần học thứ 3 của năm học 2015-2016, tôi đã tiến hành khảo sát chất
lượng môn Toán, Tiếng Việt của học sinh lớp 5 1 tôi giảng dạy. Kết quả đạt được như
sau:
Tổng
Môn

số

Số HS Điểm 9-10
SL %
tham


HS

gia

Điểm 7-8
SL
%

Điểm 5-6
SL
%

Điểm dưới 5
SL
%

khảo
sát
Toán
T Việt

24
24

24
24

3
3


12,5
7
12,5 8

29,2
9
33,3 9

37,5
5
37,5 4

20,8
16,7

2.2. CÁC GIẢI PHÁP:
Ngay từ đầu năm học 2015 – 2016, trường chúng tôi đã vận dụng phương pháp dạy
học theo mô hình VNEN nhân rộng. Qua một thời gian giảng dạy tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu sáng kiến “Một số giải pháp thực hiện dạy học theo mô hình trường học
mới đạt hiệu quả” và có những giải pháp như sau:
2.2.1. Giải pháp 1 : Xây dựng lớp học thân thiện.
a.Tăng cường công tác trang trí lớp học :
6


Mỗi ngày đến trường, đến lớp là một ngày vui, bản thân các em thêm yêu trường
yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung đó. Việc trang trí lớp học thân thiện là một sự
sáng tạo phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh nó tạo cho các em nhận thức về cái
đẹp và có ý thức gìn giữ trường lớp của mình sạch đẹp, góp thêm cho lớp học một

luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động, hăng say trong giờ học, rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh. Vì vậy, tôi đã kết hợp với phụ huynh và học sinh để tổ chức
trang trí lớp học.
- Hộp thư bè bạn” Đây là nơi hội tụ những cảm xúc của các thành viên trong lớp.
Ngay lập tức, góc nhỏ đáng yêu ấy tạo nên hiệu ứng sôi nổi tới các bạn học sinh. Mỗi
buổi sáng, những lá thư với dòng chữ còn hơi nguệch ngoạc nhưng chất chứa bao tình
cảm sâu lắng, những mảnh giấy nhỏ bé, rồi cả hình vẽ ngộ nghĩnh đáng yêu về bạn bè
trong lớp, những bức ảnh ghi lại khoảnh khắc của lớp, đặc biệt là những chia sẻ qua
tiết học để chia sẻ với bạn, với cô giáo những cảm xúc qua tiết học, những lời nhắn
nhủ nhau cùng trải nghiệm trong cuộc sống,…
- Hòm thư điều em muốn nói: Mục đích nhằm giúp cho học sinh có cơ hội bày tỏ ý
kiến, những điều em không tiện nói trước lớp, những ý kiến, những chia sẽ về cuộc
sống, hoàn cảnh gia đình, về tâm sinh lý….Giúp cho học sinh bày tỏ tất cả những
vướng mắc trong cuộc sống và trong học tập, các em viết một bức thư nhỏ và gửi vào
hòm thư của lớp. Cuối mỗi tuần GV sẽ mở hòm thư phân loại và có cách xử lý cho
từng vấn đề học sinh đặt ra, có thể phối hợp với gia đình, nhà trường, địa phương để
có cách giải quyết tế nhị và có hiệu quả nhất.
- Góc cộng đồng: Giáo viên và học sinh sưu tầm, giới thiệu về văn hóa lịch sử của
địa phương, dân tộc, các tác phẩm thơ ca hò vè, trò chơi dân gian….Các sản phẩm
của địa phương làm ra. Chính hoạt động này kích thích các em hứng thú tìm tòi, sưu
tầm, giới thiệu và qua đó cũng sẽ giúp các em thêm yêu văn hóa, lịch sử truyền thống
một cách tự nhiên, bền vững.
- Thư viện lớp học: Là tủ sách thân thiện có sự đóng góp của phụ huynh, học sinh ,
giáo viên tạo điều kiện cho các em ham đọc sách, mở rộng hiểu biết, phát triển khả
năng đưọc cho các em. Rèn kĩ năng sống có trách nhiệm, có ý thức bảo quản tài sản
7


chung, có thói quen sống gọn gàng, ngăn nắp. Ngoài việc đọc sách tăng thêm vốn tri
thức, học sinh còn tham gia các hoạt động giới thiệu sách giúp các em tự tin hơn, diễn đạt tốt

hơn. Đây là một trong những kĩ năng sống rất cần thiết cho học sinh sau này.
Giáo viên luôn thân thiện, gần gũi với học sinh, những lời nhắc nhở nhẹ nhàng của
giáo viên sẽ đạt được kết quả cao. Viết câu nhắc nhở hóm hỉnh như: “Cho tôi xin
rác !” được dán trước mặt thùng rác nơi HS dễ thấy. Hay câu: “Tắt đèn, tắt quạt khi
không cần thiết bạn nhé ! ” Xây dựng đủ các góc học tập, các bảng, biểu mẫu đúng
qui định của lớp VNEN
b.Thành lập ban hội đồng tự quản làm việc có hiệu quả.
Giáo viên phải xây dựng được Hội đồng tự quản học sinh, tìm hiểu kĩ về từng học
sinh của lớp mình. Coi trọng công tác tổ chức lớp ngay từ đầu năm học. Xây dựng
được Hội đồng tự quản học sinh nhiệt tình có năng lực chỉ đạo lớp.
Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp mà quá
trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy - học theo nhóm. Nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động dạy học giúp các em tự
chiếm lĩnh kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất để mọi học sinh được tham gia vào
quá trình học tập.
Ngoài ra mô hình trường Tiểu học kiểu mới giúp học sinh rèn phương pháp tự
học, tự giác, tự quản, tự trọng, tự tin, tự đánh giá, tự hợp tác, tự rèn luyện kỹ năng,
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú
học tập cho học sinh.
Hội đồng tự quản học sinh là một biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy sự phát triển
về đạo đức, tình cảm và xã hội của học sinh thông qua những kinh nghiệm hoạt động
thực tế của các em trong nhà trường và mối quan hệ với những người xung quanh.
Sự thay đổi của tổ chức lớp học theo mô hình VNEN với Hội đồng tự
quản học sinh đã thay đổi căn bản vai trò, nhiệm vụ của học sinh trong tổ
chức của mình; thể hiện được tính tự chủ, tự giác, phát huy sáng tạo và tôn
trọng ý kiến của các em nhiều hơn. Nhóm là một bộ phận gắn kết cơ bản
8



xuyên suốt cả quá trình dạy và học nó tạo điều kiện để rèn luyện các kĩ
năng và hợp tác của nhóm.
c. Phát huy vai trò của một nhóm trưởng:
Học theo mô hình VNEN, bàn ghế sẽ được sắp xếp cho học sinh ngồi đối diện nhau.
HS tự thảo luận, tự tìm vướng mắc và tự đưa ra phương án giải quyết.
Ưu điểm của phương pháp học nhóm được phát huy rất rõ nét trong học nhóm theo
mô hình VNEN, tất cả học sinh trong nhóm đều được luân phiên nhau làm nhóm
trưởng, hướng dẫn các bạn trong nhóm để điều hành các hoạt động do giáo viên yêu
cầu và không có một bất cứ học sinh nào ngoài cuộc, không một học sinh nào ngồi
chơi. Tuy nhiên để tiết học dạy theo mô hình VNEN thành công hay không thì phụ
thuộc rất nhiều vào các nhóm trưởng. Và công việc chính của nhóm trưởng đó là:
thay giáo viên điều hành các bạn hoạt động nhóm. Xác định được mục tiêu của hoạt
động nhóm. Phân công nhiệm vụ cho công bằng giữa các thành viên trong nhóm.
Một điều quan trọng nữa đó là nhóm trưởng phải biết tự mình làm thế nào để huy
động được sự tham gia của mọi thành viên vào giải quyết nhiệm vụ nhóm và phải tạo
ra những tương tác đa chiều giữa các thành viên trong nhóm. Hướng dẫn các bạn biết
cách tìm kiếm hỗ trợ và giải quyết được một số khó khăn gặp phải. Biết quản lí và sử
dụng thời gian hiệu quả, biết sử dụng và bảo quản tài liệu học tập. Biết tổ chức và
quản lí công việc. Biết giơ thẻ khi đã hoàn thành công việc và biết giơ thẻ cứu trợ khi
không tự giải quyết được công việc.
Cách 1: Vào cuối hoặc đầu mỗi buổi học giáo viên cần mời các nhóm trưởng ngồi lại
tạo thành một nhóm và hướng dẫn các em cụ thể từng bước một.
Ví dụ: Sau khi đã ghi xong đề bài nhóm trưởng điều khiển các bạn đọc mục tiêu:
- Nhóm trưởng nói to đủ cho cả nhóm nghe (Mời các bạn đọc mục tiêu. Bạn nào
đọc xong thì giơ tay lên)
- Nhóm trưởng nói: Mình mời bạn A đọc mục tiêu thứ nhất
- Mời bạn B đọc mục tiêu thứ hai….
(Sau khi các bạn trong nhóm mình đọc xong thì giơ thẻ hoàn thành lên để giáo viên
biết đến kiểm tra).
9



Cách 2: Đối với những nhóm còn yếu, nhóm trưởng làm việc còn lúng túng. Vì vậy,
người giáo viên phải là người “làm mẫu” và đóng vai trò là một nhóm trưởng chứ
không phải vai trò là một người giáo viên.
Cách 3: Giáo viên chọn ra một số học sinh học giỏi, nhanh nhẹn trong học tập xếp
cho các em này ngồi vào một nhóm để giáo viên huấn luyện khi học sinh đã biết việc
và biết cách điều hành nhóm rồi thì chia các bạn này đến mỗi nhóm mỗi bạn làm
nhóm trưởng các nhóm.
Cách 4: Hoặc có thể cho nhóm làm tốt làm mẫu thảo luận một hoạt động nào đó và
các nhóm còn lại chú ý để học tập theo. GV cũng không quên động viên, tuyên
dương kịp thời các nhóm làm tốt.
- Một điều nữa cần phải lưu ý đó là vị trí đứng của giáo viên khi các nhóm thảo luận
cũng hết sức quan trọng. Qua kinh nghiệm giảng dạy, tôi nhận thấy giáo viên nên bao
quát lớp, vừa đánh giá đúng nhóm nào làm nhanh nhất, chậm nhất, nhóm nào giơ thẻ
hoàn thành lên trước hoặc nhóm nào chậm nhất, nhóm nào giơ thẻ cần cứu trợ, để từ
đó giáo viên kịp thời đến kiểm tra hay giúp đỡ.
d. Xây dựng tập thể lớp hoà đồng trong giờ giải lao.
Muốn xây dựng được mối đoàn kết giữa các bạn trong lớp với nhau, thì vai trò của
hội đồng tự quản cũng không kém phần quan trọng đặc biệt là ban văn nghệ của lớp.
Ban văn nghệ dưới sự hướng dẫn của giáo viên, vào giờ ra chơi ban văn nghệ tự tổ
chức, tự khởi xướng ra các hoạt động, các trò chơi và giáo viên cùng tham gia chơi
với học sinh. Trước khi chơi, giáo viên thường đưa ra những giải thưởng thú vị, giải
nhất có thể là gói bánh, gói kẹo, hộp phấn…. để kích thích tinh thần chơi của các em.
Ví dụ: Trò chơi “Kéo co” không chỉ đòi hỏi sức mạnh, sự khéo léo mà còn đòi hỏi
tinh thần đoàn kết cao. Nếu như không có sự hợp tác - đoàn kết cao thì chắc chắn sẽ
thua cuộc.
Qua trò chơi, giáo viên vừa giúp ban văn nghệ thêm mạnh dạn, tự tin, rèn luyện thêm
kỹ năng điều hành lớp vui chơi, văn nghệ, vừa giúp các em thể hiện sự đoàn kết, hợp
tác, giúp đỡ nhau để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thông qua những giờ giải


10


trí thú vị ấy, HS càng thân thiết, quý mến nhau hơn và chắc chắn rằng các em sẽ sẵn
sàng giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống.
2.2.2 Giải pháp 2: Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên
a. Người giáo viên phải hiểu đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình VNEN
là như thế nào?
Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy học lấy học sinh
làm trung tâm vừa là giá đỡ, vừa là trụ cột chi phối các hoạt động sư phạm trong nhà
trường VNEN. Tổ chức lớp học không chỉ phù hợp với phương pháp của VNEN mà
còn tạo ra môi trường sư phạm thân thiện, dân chủ, hợp tác giữa các thành viên trong
trường và với cộng đồng. Mô hình VNEN sẽ tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh
phát huy tốt nhất các năng lực cá nhân và giá trị đích thực của các em.
Kiểu cấu trúc bài học được khuyến khích sử dụng trong mô hình VNEN, đó là tổ
chức dạy học người ta thường khuyến khích sử dụng quy trình thông qua các hoạt
động trải nghiệm, khám phá, phát hiện của HS, quy trình gồm 5 bước chủ yếu sau:
Gợi động cơ, tạo hứng thú
học

Thực hành

Trải nghiệm

Phân tích, khám phá,rút ra bài

Vận dụng.

Để làm tốt 5 bước này, đòi hỏi bản thân người giáo viên phải tự thiết kế, đạo diễn các

hoạt động học tập để giúp học sinh tự phát hiện kiến thức, phân tích kiến thức và sử
dụng kiến thức.
- Gợi động cơ, tạo hứng thú: Khơi dậy hứng thú của học sinh về chủ đề của bài
học; học sinh cảm thấy gần gũi với mình; tạo sự tò mò thích thú: có thể đặt câu hỏi;
đặt một tình huống; đố vui..
- Hiểu được mục tiêu bài học: Cho học sinh biết được đích cần phải đến của bài
học, tiết học. Không chỉ là việc đọc mục tiêu học sinh phải hiểu rõ từng chữ, từng từ
của mục tiêu từ đó học sinh sẽ hoạt động hiệu quả đúng hướng.
- Tổ chức cho học sinh trải nghiệm : Huy động vốn kiến thức của học sinh, học
sinh trải qua tình huống có vấn đề trong đó chứa đựng những nội dung kiến thức mới.
- Phân tích, khám phá, rút ra kiến thức mới : Dùng những câu hỏi gợi mở, câu
hỏi phân tích, đánh giá để giúp học sinh rút ra bài học. Có thể dùng hình thức thảo
11


luận cặp đôi, nhóm … kích thích trí tò mò sự ham thích tìm tòi, khám phá phát hiện
của học sinh.
- Thực hành : Cho học sinh vận dụng những kiến thức vừa học để làm những
bài tập cơ bản. Giáo viên quan sát giúp đỡ học sinh nhận ra khó khăn của mình, nhấn
mạnh lại quy tắc, thao tác, cách thực hiện. Đồng thời giáo viên tiếp tục ra các bài tập
khó hơn phù hợp với khả năng của học sinh, tiếp tục giúp các em giải quyết khó khăn
bằng cách liên hệ với kiến thức cơ bản. Có thể giao bài cho cá nhân, hoặc theo
nhóm…
- Vận dụng : Giáo viên cần giúp học sinh thấy được ý nghĩa thực tế của toán
học từ đó khắc sâu kiến thức. Khuyến khích học sinh diễn đạt theo ngôn ngữ cách
hiểu của chính các em. Khuyến khích học sinh tập phát biểu, diễn đạt có lí lẽ, có lập
luận logic.
Lưu ý: Trong quá trình giảng dạy để đạt hiệu quả cần vận dụng linh hoạt, mềm
dẻo không phải hoàn cảnh nào cũng vận dụng dầy đủ các bước trên.
Cơ bản trong mọi tình huống giáo viên cần chuẩn bị kiến thức, nhiệt tình với

học sinh, nghiêm túc trong dạy học, luôn động viên khuyến khích kịp thời, cần chú ý
quan tâm đến học sinh nhận thức chậm.
b. Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên:
- Tăng cường việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học, các kỹ thuật dạy học
để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, gắn nội dung dạy học với các tình
huống thực tiễn cũng như để giải quyết các chủ đề phức hợp của thực tiễn. Trước tiên
mỗi giáo viên phải nắm chắc các phương pháp dạy học tích cực và các kỹ thuật dạy
học tích cực được áp dụng rộng rãi ở nhiều vùng miền và đã mang lại kết quả cao đó
là :
- Các phương pháp dạy học tích cực :
+ Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề
+ Phương pháp hợp tác theo nhóm nhỏ.
+ Phương pháp trò chơi.
+ Phương pháp đóng vai.
12


- Các kỹ thuật dạy học tích cực
+ Kĩ thuật hỏi và trả lời
+ Kĩ thuật khăn trải bàn
+ Kĩ thuật mảnh ghép
+ Kỹ thuật KWL
+ Kỹ thuật trình bày một phút
Trao đổi với đồng nghiệp, chuyên môn để tuỳ theo theo từng môn, từng bài, từng lớp
tuỳ theo từng hoạt động để vận dụng phương pháp dạy học nào, kỹ thuật dạy học nào
cho phù hợp đặc biệt gắn bài học với thực tế cuộc sống để học sinh nhớ lâu, không bị
gò ép.
Mỗi giáo viên phải tự học, tự bồi dưỡng để biết cách khai thác những yếu tố tích cực
của các phương pháp dạy học truyền thống một cách phù hợp và có hiệu quả, đồng
thời đưa các quan điểm, phương pháp dạy học theo mô hình VNEN, tạo điều kiện cần

thiết để giáo viên có thể thực hiện được sự chuyển biến về các hoạt động dạy và học,
chuyển từ lối truyền thụ kiến thức một chiều sang việc tổ chức các hoạt động tự lập,
tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành năng lực tự học, năng lực sáng tạo của
học sinh, đổi mới các hình thức tổ chức dạy học. Bồi dưỡng năng lực tổ chức dạy học
theo nhiều hình thức đa dạng, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi (cả tinh thần và
vật chất) cho giáo viên và học sinh để tổ chức một cách hiệu quả các hoạt động dạy
học. Cụ thể như sau :
* Tổ chức dạy học phân hoá theo năng lực của học sinh dựa trên tài liệu hướng dẫn
thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng.
Tài liệu chuẩn kiến thức giúp cho giáo viên chủ động lượng kiến thức cho bài dạy. Bởi
vậy khi thực hiện giảng dạy tôi đã phân loại học sinh theo năng lực thông qua kết quả
học tập. Khi thấy lượng kiến thức quy định theo chuẩn kiến thức kỹ năng ở một số
tiết không phù hợp tôi đã mạnh dạn đề xuất với tổ chuyên môn, nhà trường có
phương án điều chỉnh phù hợp.
* Sử dụng tài liệu hướng dẫn học hợp lý khi giảng bài trên lớp, khắc phục dạy học
theo lối đọc, chép:
13


Khi thực hiện dạy học theo mô hình VNEN việc sử dụng tài liệu hướng dẫn học làm
phương tiện dạy học là hết sức cần thiết. Giáo viên chú trọng khai thác đầy đủ nội
dung tài liệu hướng dẫn học và cập nhật thêm kiến thức các nội dung tích hợp như
giáo dục môi trường, giáo dục môi trường biển đảo, giáo dục kỹ năng sống...
* Sử dụng hợp lý công nghệ thông tin trong các bài học, khai thác tối đa thiết bị dạy
học.
Ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho tiết dạy thêm sôi động, thu hút sự tập trung
của học sinh. Giáo viên thật sự phải có kiến thức về ứng dụng công nghệ thông tin, sử
dụng thành thạo máy, nếu không sẽ phản tác dụng khi thực hiện.
Bên cạnh đó, để dạy học theo mô hình VNEN đạt hiệu quả thì giáo viên phải phối
kết hợp chặt chẽ với phụ huynh cùng tham gia vào hoạt động giáo dục của nhà

trường.
- Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng, tự chủ, linh hoạt trong phương pháp dạy học. Tích
cực tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động chuyên đề của tổ của
trường để học tập về đổi mới phương pháp dạy học theo tinh thần VNEN.
- Trong sinh hoạt tổ chuyên môn kịp thời đưa ra những khó khăn, vướng mắc như:
biện pháp để học sinh học nhóm tốt, biện pháp để giúp em nhóm trưởng có thể điều
khiển tốt các hoạt động học tập của nhóm, hoặc biện pháp về đổi mới phương pháp
dạy học của một hoạt động nào đó ở một bài dạy cụ thể…..trong tổ sẽ cùng nhau thảo
luận để tìm ra cách giải quyết tốt nhất.
- Thường xuyên tự học hỏi qua sách báo, thông tin đại chúng, qua đồng nghiệp
thông qua các tiết học tốt, chuyên đề, thao giảng, tự tìm kiếm những thông tin trên
mạng nhằm nâng cao tay nghề, tìm ra phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối
tượng học sinh.
c. Lưu ý cách ghi nhớ kiến thức cho học sinh trong bài học.
Chẳng hạn khi dạy môn Toán, ghi nhớ kiến thức rất quan trọng bởi trong môn
toán kiến thức của bài sau thường liên quan đến kiến thức bài trước. Không nhớ được
kiến thức bài trước học sinh không thể vận dụng vào hoạt động bài sau. Đặc biệt mô

14


hình VNEN chủ yếu là học sinh tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Để ghi nhớ hiệu
quả cần làm như sau :
Việc học toán phải chú trọng vào tư duy phân tích hơn là học thuộc lòng đơn
thuần.
Ví dụ : Ghi nhớ cách đổi 1m2 = 100 dm2
Cho hs hiểu 1m2 là diện tích hình vuông có cạnh 1m, mà 1m = 10dm. Diện
tích hình vuông có cạnh 1m bằng diện tích hình vuông cạnh 10dm.
Diện tích hình vuông cạnh 10dm là: 10 x 10 = 100dm2
Vậy 1m2 = 100 dm2


Tạo ấn tượng sẽ làm cho học sinh nhớ lâu
Ví dụ : Ghi nhớ được thứ tự của bảng đơn vị đo độ dài.
Km hm dam m

dm cm

m

Đây là 1 dãy kí tự mà học sinh không nhớ được thứ tự các đơn vị dẫn đến tình
trạng không thể đổi được đơn vị đo. Vậy cần tạo cho học sinh 1 ấn tượng về bảng đơn
vị đo. Có thể làm như sau:
Từ
Trở thành
Km
Không

Km hm

dam m

Không học để
hm
học

dam
để

dm cm mm


mà đi chăn mèo
m


dm
đi

cm
chăn

mm
mèo
15


Tức là gắn chữ cái đầu của mỗi đơn vị với 1 từ và tạo thành một câu ấn tượng.
Câu này đọc thì vô lý nhưng học sinh rất ấn tượng vì vậy chắc chắn học sinh sẽ
không bao giờ quên bảng đơn vị đo độ dài và sẽ không bị nhầm lẫn khi đổi.
Trên đây là ví dụ về sơ đồ tư duy tùy vào bài cụ thể mà có các sơ đồ khác nhau.
Cũng có thể dùng sơ đồ tư duy để chốt lại kiến thức bài học.
2.2.3 Giải pháp 3: Đổi mới về cách học của học sinh.
Trước hết giáo viên phải rèn cho học sinh các kĩ năng làm việc có hiệu quả ngay từ
đầu năm học. Để thực hiện có hiệu quả phương pháp dạy học theo mô hình VNEN
người giáo viên cần chú trọng rèn cho học sinh một số kĩ năng học tập. Trước hết
phải rèn cho học sinh kĩ năng tự học theo nhóm. Mỗi hướng dẫn học trong sách bao
gồm một chuỗi các hoạt động được thiết kế nhằm giúp học sinh tự học bằng cách
thực hiện các yêu cầu, các chỉ dẫn, trong bài học. Vì vậy, trước hết người giáo viên
cần quan tâm luyện tập cho học sinh các kĩ năng sau:
- Kĩ năng đọc - hiểu tài liệu, giáo viên cần cho học sinh hiểu được các câu lệnh, các
chỉ dẫn, các yêu cầu, các loại dạng hoạt động học tập.

- Kĩ năng làm việc cá nhân, khi học sinh hoạt động cá nhân giáo viên phải rèn cho
học sinh ý thức tập trung suy nghĩ để hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân, tự mình trình
bày ý kiến cá nhân và tự đánh giá kết quả hoạt động của cá nhân.
- Kĩ năng làm việc hợp tác theo cặp, theo nhóm, giáo viên phải rèn cho học sinh biết
tổ chức hoạt động nhóm, nhận nhiệm vụ, lên kế hoạch, phân công, đảm nhận trách
nhiệm, phối hợp với các thành viên trong nhóm để hoàn thành tốt công việc của
nhóm.
- Kĩ năng sử dụng đồ dùng học tập ở các góc học tập, sử dụng tài liệu tham khảo ở
thư viện trong lớp học.
- Kĩ năng tự học ở môi trường xung quanh, gia đình và cộng đồng.
Đồng thời giáo viên phải rèn cho học sinh có được nhận thức đúng đắn về mục đích
học tập và tự lực, tích cực thực hiện mục đích đó bằng hành động của chính mình.
Học sinh được học tập theo khả năng và nhịp độ của riêng mình phù hợp với trình độ
nhận thức của cá nhân học sinh. Vì vậy, kế hoạch dạy học cần được bố trí một cách
16


linh hoạt. Mỗi học sinh được giao nhiệm vụ và mục tiêu học tập cụ thể, nhưng luôn
có thể tự điều chỉnh hoạt động của chính mình để việc học phù hợp với nhịp độ tiếp
thu của bản thân.
Hoạt động tự học của học sinh vừa rèn luyện tính độc lập tích cực của học sinh, đồng
thời thúc đẩy sự tham gia hợp tác, tăng cường ý thức tập thể của học sinh .
Việc học tập tích cực trong nhóm cũng hình thành cho các em kĩ năng lắng
nghe, kĩ năng ra quyết định… trước khi đưa ra vấn đề, tạo sự tương tác thân
thiện giữa các bạn cùng nhóm, luôn có thái độ hỗ trợ, tương trợ lẫn nhau.
Tăng cường tính tích cực, chủ động, linh hoạt hơn và học sinh thật sự tham
gia vào quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
- Tuy nhiên để học sinh dễ nhớ, dễ vận dụng và thuận tiện cho giáo viên trong tổ chức
trong hoạt động tự học, học sinh thực hiện 10 bước học tập .
2.2.4 Giải pháp 4: Đánh giá động viên khuyến khích học sinh kịp thời

Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh phải được xem như là một bộ
phận không chỉ của cả quá trình dạy học mà là một bộ phận của mỗi hoạt động học
tập. Kiểm tra đánh giá phải được tiến hành thường xuyên, liên tục ngay trong quá
trình thực hiện mỗi hoạt động học tập để kịp thời khuyến khích, động viên và nhất là
giúp các em điều chỉnh những sai sót để hoạt động học tập có hiệu quả. Để đánh giá
học sinh học theo mô hình VNEN giáo viên cần kết hợp hai hình thức đánh giá: Đánh
giá thường xuyên và đánh giá định kì. Việc đánh giá hoạt động chủ yếu do học sinh
thực hiện, học sinh tự đánh giá. Có những hoạt động học sinh tự đánh giá trong cặp,
trong nhóm bằng cách đổi bài cho nhau để cùng rà soát xem kết quả nào đúng và đủ,
kết quả nào chưa đúng và còn thiếu. Có những hoạt động học sinh tự đánh giá chéo
giữa các nhóm. Có những hoạt động học sinh cùng giáo viên đánh giá theo những
tiêu chí giáo viên đã nêu.
Giáo viên luôn tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá lẫn nhau trong học tập, để từ
đó các em thấy được những việc làm đúng và việc làm sai, những điều mình cần phải
học tập bạn để phát huy và khắc phục. Không nên chê các em trước các bạn khi các

17


em mắc phải những khuyết điểm như bài làm sai, chữ viết chưa đẹp… Những em có
khuyết điểm giáo viên nên trực tiếp trò chuyện và nhắc nhở.
Trên đây là những giải pháp mà bản thân tôi đã đúc rút và vận dụng trong quá
trình thực hiện dạy học theo mô hình trường học kiểu mới và đã đạt được những kết
quả đáng mừng. Các phụ huynh đã quan tâm và có nhận thức đúng đắn về việc học
tập của con em mình. Học sinh đều có ý thức tự học và học theo nhóm có hiệu quả
cao, đặc biệt hầu hết các em đều có ý thức tự quản và tự giác trong mọi hoạt động. Chất
lượng học sinh được tăng lên rõ rệt.
3. Phần kết luận.
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua gần 1 năm vận dụng các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học theo mô

hình trường học mới nói trên, bản thân tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp dạy
học ở trường Tiểu học nói chung và các khối lớp dạy theo mô hình trường học mới
nói riêng là rất cần thiết. Qua quá trình thực hiện đã mang lại những kết quả tốt đẹp.
Giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật dạy học nên đã phát huy
được tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi, khám
phá kiến thức trong học sinh. HS luôn tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức,
hình thành năng lực tự học, năng lực sáng tạo. Các em phát triển tốt các kỹ năng sống
như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử...Tạo được một môi trường học tập thân
thiện, vui vẻ, thoải mái. Chất lượng học tập ngày càng cao.
Đến tuần học thứ 33 năm học 2015-2016, tôi đã tiến hành khảo sát lại chất lượng
môn Toán, Tiếng Việt của lớp 51 tôi phụ trách . Kết quả đạt được như sau.
sau:
Môn

Tổng
số HS

Hoàn thành

tham

Chưa
hoàn thành

gia
Toán

26

Điểm 9-10

SL %
10 38,5

Điểm 7-8
Điểm 5-6
SL
%
SL
%
10 38,5
6
23,0

Điểm dưới 5
SL
%
0
18


Tiến

26

g

11

42,4


9

34,6

6

23,0

0

Việt
Từ kết quả khảo sát ở trên, tôi thấy chất lượng môn Toán, Tiếng Việt ở lớp tôi có
nhiều chuyển biến. Kết quả đạt được cao hơn nhiều so với khảo sát đầu năm. Cụ thể,
số học sinh đạt loại Hoàn thành tăng cao, Tỉ lệ học sinh loại chưa Hoàn thành giảm
nhiều .
- Nền nếp lớp học ngày một tốt hơn, có quy củ hơn. Học sinh tự giác trong việc tự
học, trình bày bài trong vở.
- Kỹ năng giao tiếp của các em trôi chảy, lưu loát hơn; các em tự tin hơn trong giao
tiếp, học tập…
- Học sinh ý thức được tinh thần trách nhiệm trong các hoạt động, phong trào thi đua
của lớp; tinh thần đoàn kết, kĩ năng hợp tác và khả năng làm việc theo nhóm hiệu quả
cao hơn.
Việc xây dựng lớp học tự quản là rất cần thiết của bất cứ giáo viên nào, người giáo
viên cần chủ động đóng vai trò là người cố vấn, hướng dẫn, điều khiển từ xa trợ giúp
học sinh nuôi dưỡng ý thức, tạo dựng môi trường tự quản. Bởi vì chỉ có học sinh,
chính các em chứ không phải ai khác mới là người có quyền lợi và trách nhiệm gắn
bó, xây dựng, điểm tô cho lớp học - ngôi nhà thứ hai của mình trở lên thân thiện, gần
gũi và đẹp hơn trong mắt mọi người. Học theo nhóm là chủ yếu, học ở trong lớp và
cả ở ngoài lớp học.
Với hình thức học nhóm trong quá trình học tập, học sinh có nhiều cơ

hội độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm việc cá nhân và có nhiều
cơ hội phát huy năng lực hợp tác khi học nhóm, được tranh luận, tự đánh
giá bản thân và đánh giá các bạn. Học sinh đã quen với học nhóm; tự điều
khiển hoạt động trong nhóm từ đó đã giúp học sinh có ý thức để chủ động
trong học tập. Học sinh đã thể hiện được khả năng của mình khi điều khiển
và có thể hướng dẫn các bạn khác học, giúp cho việc tổ chức hướng dẫn
19


luôn chỉ là của cô giáo như trước đây. Một điều dễ nhận thấy, đó là học sinh
đã mạnh dạn, linh hoạt và sáng tạo hơn trong học tập, tư duy độc lập, hợp
tác để phát hiện chiếm lĩnh kiến thức bài học.
Mặc dù rất cố gắng nhưng do kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế nên không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong rằng sẽ được các đồng nghiệp góp ý để bản
sáng kiến hoàn thiện hơn, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện .
3.2 Kiến nghị, đề xuất.
( Không)

Hiền Ninh , ngày 28 tháng 4 năm 2016
Người viết

Nguyễn Thị Thanh Thủy

XÁC NHẬN CỦA HĐKH TRƯỜNG
......... .....................................................................................................
......... .....................................................................................................
......... .....................................................................................................

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


20


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC
THEO MÔ HÌNH VNEN

Hiền Ninh, tháng 5 năm 2016

21



×