Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam (LA tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 171 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ TUẤN PHONG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU
CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ TUẤN PHONG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH
TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi,
có sự hỗ trợ của các đồng nghiệp. Các số liệu nêu trong luận
án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Tuấn Phong


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

2.1. Khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực

hành quyền công tố
2.2. Đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân trong thực hành quyền công tố
2.3. Yêu cầu của cải cách tư pháp, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các
điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân trong thực hành quyền công tố
2.4. Pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố ở một số nước
trên thế giới và giá trị tham khảo đối với Việt Nam
Chương 3: QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở
VIỆT NAM

3.1. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền
công tố từ 1945 đến trước khi ban hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002
3.2. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền
công tố từ khi ban hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
đến 2015 và thực tiễn áp dụng
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP

4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


7
7
22
28
34
34
41

48
58

75

75

85

115
115
123
147
151
152


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS


: Bộ luật Tố tụng hình sự

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CQĐT

: Cơ quan điều tra

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã chú
ý tới cán bộ làm nhiệm vụ công tố. Các vấn đề pháp lý của chức danh này được
điều chỉnh trong những văn bản pháp luật đầu tiên của chính quyền dân chủ
nhân dân. Nếu như những năm đầu tiên, chế định công tố và Công tố viên gắn
liền với tổ chức và hoạt động của Tòa án thì sự ra đời của Viện kiểm sát nhân
dân năm 1960 đánh dấu sự thay đổi lớn của chế định này. Vị trí, vai trò của
Kiểm sát viên trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy Nhà nước được
khẳng định trong Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

năm 1960 và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Cùng với quá trình phát triển
của hệ thống cơ quan tư pháp, pháp luật về Kiểm sát viên cũng từng bước hoàn
thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên cho thấy, các
quy định pháp luật hiện nay chưa bảo đảm cho Kiểm sát viên chủ động thực hiện
hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong quá trình thực hành quyền công tố
vẫn còn có trường hợp bỏ lọt tội phạm; việc phê chuẩn các quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn có trường hợp còn chưa chính xác; còn
một số trường hợp đình chỉ điều tra bị can, đình chỉ vụ án do bị can không phạm
tội, trong khi đội ngũ Kiểm sát viên còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng
lực nghiệp vụ.
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là cơ sở
pháp lý đối với chức danh Kiểm sát viên, trong đó có các bảo đảm pháp lý cho
việc thực hành quyền công tố của chức danh này chưa hoàn thiện, các quyền năng
pháp lý của Kiểm sát viên chưa được phát huy, chưa đáp ứng được yêu cầu của
cải cách tư pháp trong lĩnh vực hoạt động công tố. Nghị quyết số 48/NQ-TW,
ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định các


2
phương hướng và nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện pháp luật, trong đó có nhiệm vụ
“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo
đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Tiếp đó, Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra nhiệm vụ:
... Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền
hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng thẩm
quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán

để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu
trách nhiệm trước pháp luật... [10].
Trong bối cảnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, hoàn thiện các quy
định pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một nhiệm
vụ quan trọng vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính lâu dài, cần phải được tiến
hành trên cơ sở chủ trương, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp và các
quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động của
kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, góp phần thực hiện mục tiêu của cải
cách tư pháp.
Với những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Hoàn thiện
pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công
tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ luật học,
chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố, đánh giá đúng thực trạng pháp luật,
Luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:


3
- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; từ đó, nêu các vấn
đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
- Xây dựng cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố gắn với yêu cầu cải cách tư pháp; Xây dựng khái
niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; Nghiên

cứu pháp luật về Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố ở một
số nước, rút ra các giá trị tham khảo có thể vận dụng ở Việt Nam.
- Khái quát sự hình thành và phát triển pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam; Đánh giá thực trạng pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, chỉ ra các điểm hạn chế bất
cập và nguyên nhân.
- Nêu quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố gắn với yêu cầu cải cách tư
pháp; tập trung vào đối tượng là các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố trong phạm vi toàn quốc. Thời gian nghiên
cứu từ khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đến năm 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Luận án được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, lý luận về hoàn thiện pháp luật,


4
các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tổ chức
và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp luận được sử dụng trong nghiên cứu Luận án là phép duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử. Trong đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa
các hiện tượng và quá trình xã hội được sử dụng để nghiên cứu, phân tích mối liên
hệ hữu cơ giữa các thiết chế tư pháp và thể chế pháp lý cho hoạt động của Viện
kiểm sát và Kiểm sát viên. Nguyên lý về sự phát triển được sử dụng để nghiên
cứu, phân tích những thay đổi về kinh tế -xã hội, quá trình hội nhập quốc tế và
toàn cầu hóa dẫn đến những thay đổi theo chiều hướng tích cực trong cách thức tổ
chức và hoạt động tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát. Một số quy luật của phép
biện chứng duy vật như quy luật lượng-chất, hay các cặp phạm trù như cái chung
và cái riêng, khả năng và hiện thực, được sử sử dụng để nghiên cứu, phân tích các
yếu tố tác động, các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận án là:
- Phương pháp hệ thống được áp dụng trong chương 1 để phân loại và
nghiên cứu nội dung các tài liệu nghiên cứu pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, hệ
thống hóa theo một cấu trúc logic khoa học qua đó giúp tác giả có được nhận thức
một cách biện chứng, tổng thể, khái quát nhất về hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay và một số nước
trên thế giới.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng cả chương 2, chương 3 và
chương 4 của luận án. Phân tích khái niệm về Kiểm sát viên, pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; đặc điểm, nội dung điều chỉnh,
vai trò; các yêu cầu cải cách tư pháp, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của
pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; các điều kiện bảo đảm; phân
tích nguyên nhân của thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực


5
hành quyền công tố; phân tích các quan điểm và giải pháp hoàn thiện của pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải

cách tư pháp ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh được áp dụng để nghiên cứu kinh nghiệm nước
ngoài, qua đó rút ra bài học và lựa chọn những hạt nhân hợp lý, phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh để áp dụng đối với Việt Nam.
- Trong chương 3, bên cạnh việc sử dụng phương pháp phân tích tác giả
còn sử dụng các phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp các số liệu để
chứng minh cho các luận giải đã nêu trong phần đánh giá thực trạng pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư
pháp ở Việt Nam.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện
các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
theo yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam. Những đóng góp của
Luận án thể hiện cụ thể như sau:
- Trên cơ sở nghiên cứu kế thừa các tài liệu đã có của Việt Nam và các
nước trên thế giới, xây dựng khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố; khái quát nội dung, đặc điểm, vai trò của pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; Xây dựng các tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thiện và các điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố pháp luật theo yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam.
- Đánh giá khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến trước
năm 2002 và thực tiễn áp dụng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
hành quyền công tố từ 2002 - 2015.
- Nêu quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong những năm tới.



6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa đối với việc hoàn thiện pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải
cách tư pháp. Với việc đề xuất các giải pháp, trong đó có việc đưa ra một số kiến
nghị góp phần vào sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Bộ luật Hình sự,
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luận án đóng góp thêm vào sự phát triển
lý luận về pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở
Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng
trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và tố tụng
hình sự. Luận án cũng là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy
ở các cơ sở đào tạo luật, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành kiểm sát và
những ai quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án bao
gồm 4 chương, 11 tiết.


7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

Trong những năm qua, với việc thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của
Đảng, vấn đề hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố đã được nghiên cứu nhiều hơn so với trước đây. Điều này được thể

hiện qua số lượng và nội dung của các công trình nghiên cứu dưới dạng các đề tài
nghiên cứu khoa học, các xuất bản phẩm, các luận văn, luận án, các bài viết đăng
trên tạp chí nghiên cứu pháp luật chuyên ngành. Để bảo đảm phục vụ việc nghiên
cứu của luận án tác giả phân chia thành các nhóm vấn đề cụ thể như sau:
1.1.1. Pháp luật về Kiểm sát viên
Pháp luật về Kiểm sát viên tiếp cận dưới giác độ lý luận lịch sử Nhà nước
và pháp luật đòi hỏi phải có cách nhìn toàn diện, khái quát xuất phát từ nguồn gốc,
bản chất, mối quan hệ của quyền công tố trong phương thức tổ chức bộ máy nhà
nước, mà trực tiếp là trong Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ
1945 đến nay.
* Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài nghiên cứu khoa học
Trước hết phải kể đến công trình nghiên cứu chuyên khảo “Cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân” của Trần Hậu Thành [105]. Trong cuốn sách này, tác giả đã
khái quát quá trình hình thành và phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong
tiến trình lịch sử nhân loại, đồng thời hệ thống một số quan điểm và thực tiễn tổ
chức theo hướng nhà nước pháp quyền hiện nay trên thế giới. Cuối cùng tác giả đã
luận giải và đưa ra mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện đại, trong đó có
mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp như tòa án và viện kiểm sát
Cuối sách “Dân chủ và pháp luật dân chủ” của Ngô Huy Cương [25].
Trong cuốn sách này tác giả đã luận giải và xây dựng khái niệm về dân chủ, đồng


8
thời đưa ra sáu thành tố của dân chủ đó là: Nhà nước pháp quyền; Chủ nghĩa lập
hiến; Phân chia quyền lực; Xã hội công dân; Quyền con người, quyền công dân;
Tư pháp độc lập. Trên cơ sở thực tiễn pháp luật Việt Nam tác giả đã đưa ra các
tiêu chuẩn đánh giá tính dân chủ và hiện trạng dân chủ trong pháp luật Việt Nam
trên cơ sở tổ chức Nhà nước, bảo đảm quyền con người và hình thức dân chủ.
Luận giải và đưa ra một số giải pháp về dân chủ và pháp luật dân chủ trong các

lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tư pháp.
Cuốn sách “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” do PGS.TS.
Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004 [16]. Cuốn
sách lần đầu tiên nêu khái niệm thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, thể
chế tư pháp với việc thực hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền và các
loại hình thể chế tư pháp với một số mô hình tổ chức tư pháp đặc trưng trên thế
giới. Từ đó, tác giả nêu và phân tích quá trình hình thành và phát triển của hệ
thống Tòa án, cơ quan công tố, vai trò của thẩm phán và công tố viên và những
vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Cuốn sách “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra” của Lê Hữu Thể [107], đã đề cập tương đối toàn diện,
đầy đủ các quan điểm và lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, trong đó đi sâu nghiên cứu các quan điểm
về quyền công tố, thực hành quyền công tố, hoạt động tư pháp và kiểm sát các
hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự; những quy định của pháp
luật về Kiểm sát viên và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn điều tra; đồng thời, khái quát về cơ quan công tố của một số nước trên thế
giới nhằm rút ra kinh nghiệm ứng dụng vào Việt Nam.
Nguyễn Hải Phong và cộng sự trong cuốn “Một số vấn đề về trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu
cải cách tư pháp” [82] đã phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành,
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoạt động công tố của các cấp kiểm sát, kiến nghị


9
các giải pháp thiết thực, có tính khả thi khi thực hiện trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát.
Đề tài “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra theo
yêu cầu cải cách tư pháp” của Nguyễn Ngọc Khánh [66], đề tài đã tập trung

nghiên cứu về mối quan hệ giữa công tố với điều tra của một số quốc gia và quan
điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta về việc tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, đã xác định vị trí, thẩm
quyền của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải
cách tư pháp.
* Luận án, luận văn
Vấn đề thực hành quyền công tố cũng là tâm điểm thu hút sự chú ý nghiên
cứu của các luận án Tiến sĩ như “Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị Tuyết
Hoa, từ góc độ lý luận nhà nước và pháp luật [54] đã khái quát những vấn đề cơ
bản nhất về quyền công tố như khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền
công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự; thực trạng tổ chức thực
hành quyền công tố trong tố tụng hình sự ở Việt Nam trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố ở Việt
Nam. Đồng thời nêu được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân.
Luận án của Nguyễn Duy Giảng “Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật
Tố tụng hình sự Việt Nam” [44] đã nghiên cứu toàn diện việc thực hiện các quy
định pháp luật liên quan đến chủ thể tiến hành tố tụng, những kết quả, hạn chế,
vướng mắc bộ lộ trong thực tiễn, qua đó làm rõ những hạn chế trong quy định của
BLTTHS hiện hành cần được xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới. Trên
cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận tổng kết thực tiễn và làm rõ những yêu cầu
của cải cách tư pháp, tác giả đã đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong hệ
thống quy định pháp luật về viện kiểm sát và Kiểm sát viên, góp phần khắc phục
những bất cập, vướng mắc trong các quy định liên quan đến chức năng thực hành
quyền công tố của Kiểm sát viên. Theo tác giả, việc thực hiện các nhiệm vụ và


10
quyền hạn của Kiểm sát viên trong điều tra vụ án hình sự còn nhiều tồn tại, trong
đó có nguyên nhân là quy định của BLTTHS năm 2003 về nhiệm vụ và quyền hạn

của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra còn một số bất cập về thẩm quyền khởi
tố bị can, thẩm quyền điều tra, thẩm quyền quyết định việc chuyển vụ án, về mối
quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra (CQĐT) và các cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; về vai trò, trách nhiệm của
Kiểm sát viên tại phiên tòa… Từ đó, tác giả kiến nghị hoàn thiện nhiều quy định
của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và BLTTHS năm 2003, trong
đó có các quy định về thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.
1.1.2. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực
hành quyền công tố
* Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài nghiên cứu khoa học
- Về quyền công tố trong nhà nước pháp quyền của Nguyễn Đăng Dung và
các cộng sự trong nghiên cứu “Viện kiểm sát trong Nhà nước pháp quyền” [32] đã
đề cập đến một số vấn đề như: phân tích vị trí và vai trò của Viện kiểm sát trong
mô hình hiện nay và xu thế của Viện kiểm sát trong thời gian tới; làm rõ những
yêu cầu có tính nguyên tắc của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền gắn với
thực hiện chức năng của Viện kiểm sát - Viện kiểm sát thực hành quyền công tố là
quyền hành pháp mà không phải là quyền tư pháp như quan niệm hiện nay; chủ
thể của công tố chỉ do Viện kiểm sát thực hiện và vì vậy Viện kiểm sát phải thống
nhất chỉ đạo điều tra toàn bộ vụ án; có chỉ đạo điều tra mới buộc tội được, có buộc
tội được mới góp phần bảo vệ công lý xã hội chủ nghĩa (XHCN)… Ngoài ra, các
tác giả còn giới thiệu một vài mô hình công tố trên thế giới điển hình và đặt ra
việc chuyển đổi vai trò, chức năng, tên gọi của Viện kiểm sát thành Viện công tố
là đòi hỏi tất yếu khách quan, nhưng cần tính đến lộ trình và bước đi phù hợp.
Đồng thời, cuốn sách cũng đã phân tích và làm sáng tỏ nhiều nội dung thực hiện
chức năng mà Viện kiểm sát đang thực hiện dưới một giác độ tiếp cận mới, tiếp
cận dựa trên quyền và nghĩa vụ như: Quyền công tố và phạm vi của công tố; Giới
hạn của việc xét xử theo cáo trạng; nội dung và bản chất của tranh tụng giữa bên


11

buộc tội và gỡ tội; có hay không cần thiết Viện kiểm sát phải thực hiện kiểm sát
hoạt động tư pháp các lĩnh vực phi hình sự…
Cuốn sách “Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác của
Viện kiểm sát nhân dân qua 55 năm tổ chức và hoạt động” của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao [146] đã tập trung tổng hợp, khái quát những vấn đề cơ bản trong
công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nghành kiểm sát nhân dân từ 1960
đến 2015 trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Từ đó đưa ra 9 bài học kinh
nghiệm lớn làm cơ sở để nghành kiểm sát tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở lý
luận, cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng
mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra thuộc Viện
kiểm sát và việc thực hiện thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhằm đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp” của Phạm Mạnh Hùng [62], đã nghiên cứu thực trạng
và đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân và việc thực hiện thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự.
- Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Lê Hữu Thể [109] đã luận chứng, làm rõ
những vấn đề lý luận chung về thủ tục tố tụng, mô hình tố tụng hình sự; các quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng, trong đó có Kiểm sát viên VKSND. Trên cơ
sở đánh giá đúng đắn những tồn tại, hạn chế, vướng mắc, bất cập trong pháp luật
tố tụng hình sự hiện hành khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, đề tài
nêu những yêu cầu của cải cách tư pháp đối với tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát, trong đó tính độc lập của Kiểm sát viên là một trong những vấn đề còn
vướng mắc trong thực tiễn, cần được khắc phục bằng một cơ chế pháp lý phù hợp.
Đề tài đã đề xuất các hướng hoàn thiện, đổi mới mô hình tố tụng hình sự và pháp
luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay theo hướng nâng cao năng lực của CQĐT,
Viện kiểm sát. Tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên
trong hoạt động điều tra, truy tố.* Luận án, Luận văn



12
- Nguyễn Thị Thủy “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp dụng
tố tụng tranh tụng” [113] nêu mô hình tố tụng mới kết hợp giữa xét hỏi và tranh
tụng trong điều kiện Việt Nam đang tiến hành cải cách tư pháp. Từ đổi mới mô
hình tố tụng dẫn đến đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của
Kiểm sát viên trong mối quan hệ giữa nguyên tắc tập trung thống nhất của ngành
kiểm sát với tính độc lập của từng Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố;
giữa mối quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng giữa Viện trưởng Viện kiểm sát
với Kiểm sát viên trong điều tra, kiểm sát điều tra và truy tố bị can ra trước tòa,
duy trì công tố tại phiên tòa hình sự.
- Bùi Mạnh Cường “Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng hình
sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” [26] đã tập trung tìm hiểu một số vấn đề chung về công tố và hoạt động
điều tra, phân tích thực trạng về mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra
tại Việt Nam (số liệu 5 năm: từ năm 2006 đến năm 2010), mối quan hệ giữa công
tố với hoạt động điều tra theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành; những kết quả đạt được trong việc giải quyết mối quan hệ giữa công tố với
hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự và nguyên nhân của những
kết quả đạt được; một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự và
nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc. Tác giả cũng đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện cơ chế công tố gắn với
hoạt động điều tra.
- Vũ Đức Ninh “Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố”
[80] đã khái quát về quyền công tố và việc tổ chức thực hành quyền công tố ở
nước ta theo BLTTHS, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn
truy tố cũng như hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong cùng thời điểm
này, xem xét thực tiễn thi hành những quy định của pháp luật về thẩm quyền của

Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố bằng cách nhìn vào những phân tích số liệu
về các quyết định mà cơ quan này ban hành trên một địa bàn cụ thể sau đó đưa ra


13
những nhận xét về thẩm quyền của Viện kiểm sát từ đó đề xuất một số kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về vai trò cũng như vị trí của Viện kiểm sát trong giai đoạn
truy tố và một số kiến nghị khác nhằm phát huy cũng như kiện toàn vị trí cơ quan
Viện kiểm sát trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay.
* Các bài đăng trên tạp chí
Trong bài viết “Nguyên tắc tập trung thống nhất trong nghành kiểm sát
nhân dân trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay” của Đào Trí Úc [118] đã nêu
khái quát các quan điểm, ý kiến đóng góp khác nhau trong dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 về tính chất, vị trí, chức năng của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam, đặc biệt là
nguyên tắc tập trung thống nhất trong nghành kiểm sát nhân dân. Nguyên tắc này
chỉ phù hợp với việc thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật vì tính
thống nhất theo nghành dọc là bảo đảm cho sự giám sát, kiểm tra mang tính quyền
lực Nhà nước đối với các chủ thể áp dụng, thi hành pháp luật và đối với công dân.
Từ giác độ tiếp cận mang tính toàn diện, hệ thống, trên cơ sở nội dung pháp lý của
hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát nhân dân, từ yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tác giả đã luận chứng và đề xuất ghi
nhận trên bình diện Hiến pháp hai nguyên tắc quan trọng cho tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta như sau:
Một là, nguyên tắc tập trung thống nhất về tổ chức của Viện kiểm sát nhân
dân; Hai là, nguyên tắc khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân độc lập, tuân theo Hiến pháp và
pháp luật, nghiêm cấm mọi sự can thiệp trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân [118]. Phạm Mạnh Hùng với bài “Về nguyên tắc bảo đảm sự kiểm soát giữa

các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước của nước ta” [63], đã giới thiệu một
cách khái quát hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy
nhà nước ta, đồng thời nêu và phân tích cụ thể từng quy định về cơ chế kiểm soát


14
quyền lực Nhà nước trong từng phân nhánh hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước
nói riêng và trong hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung. Từ đó, tác giả đưa
ra nhận xét và kiến nghị cần tiếp tục xem xét hoàn thiện về Quyền tư pháp và cơ
quan thực hiện quyền tư pháp; khôi phục lại chức năng kiểm sát chung của Viện
kiểm sát nhân dân vì đây là yêu cầu xuất phát từ lý luận và thực tiễn thực hiện cơ
chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước hiện nay.
Vũ Mộc trong bài viết ‘‘Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố,
tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ
chế gắn công tố với hoạt động điều tra” [75], đã đưa ra nhận định mặc dù trong
BLTTHS 2003 không quy định cụ thể quyền chỉ đạo hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát nhưng theo nội dung các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Viện
kiểm sát và của CQĐT thì Viện kiểm sát vẫn là cơ quan quyết định mọi hành vi tố
tụng ở giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, trên thực tiễn hoạt động công tố vẫn xa rời
hoạt động điều tra, theo tác giả có hai nguyên nhân chính: Pháp luật về hình sự và
tố tụng thiếu chế tài bảo đảm cho hoạt động chỉ đạo theo pháp luật tố tụng hình sự
của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra; Chưa có sự thống nhất và phân biệt về
thẩm quyền chỉ đạo hoạt động điều tra theo nghiệp vụ điều tra và chỉ đạo điều tra
theo pháp luật tố tụng hình sự. Cuối bài viết tác giả đưa ra bốn giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách nhiệm của
Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt
động điều tra.
1.1.3. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố

* Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài khoa học
- Sách chuyên khảo “Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của các cơ
quan Nhà nước” của Nguyễn Đăng Dung [31]. Trong cuốn sách này tác giả đã
nghiên cứu và làm rõ vai trò, vị trí, bản chất “vượt trội” của Hiến pháp, cũng như
tính đặc thù của Hiến pháp trong hệ thống các văn bản pháp luật của quốc gia. Từ
đó đi đến nhận định về tính nhân bản của Hiến pháp. Và cũng trên cơ sở tiếp cận


15
này, xuất phát từ lịch sử lập hiến Việt Nam, tác giả đã phân tính và khái quát về
các bản tính của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp và đưa ra từng kiến
nghị cụ thể cho từng cơ quan nhà nước.
- Sách chuyên khảo “Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Trần Ngọc Đường [41]. Trong cuốn
sách này, tác giả từ cách tiếp cận quyền con người, quyền công dân là giá trị cao
quý, là mục đích phấn đấu cao nhất, đồng thời là đường lối nhất quán của Đảng và
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tác giả đã tổng hợp, phân tích rồi
đưa ra các quan điểm về quyền con người, quyền công dân; quyền và nghĩa vụ cá
nhân công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xuất phát
từ lịch sử lập hiến (1945 đến 2001), tác giả đã chứng minh quá trình sửa đổi, ban
hành Hiến pháp ở Việt Nam luôn là quá trình tiếp nối và hoàn thiện cơ chế bảo
đảm quyền con người, quyền công dân thông qua việc cải cách tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Và từ cơ sở trên, tác giả đã nêu những bảo đảm pháp
lý trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân, cùng các phương hướng
tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới.
- Đề tài “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư
pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Uông Chu Lưu [73], xác
định bản chất của công tố là việc đại diện cho quyền lực công để truy tố tội phạm,

đưa người có hành vi phạm tội ra trước toà án để xét xử, do đó, công tố phải là
một chức năng không tách rời của hành pháp. Viện Công tố, do vậy, phải là một
cơ quan thuộc nhánh hành pháp và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật và
trước nhân dân về việc truy tố tội phạm và buộc tội trước toà. Các tác giả trong
nhóm nghiên cứu cũng cho rằng phạm vi công tố chỉ nên giới hạn trong lĩnh vực
hình sự nghĩa là trong việc đại diện cho quyền lực công truy tố tội phạm và buộc
tội người có hành vi phạm tội trước toà. Về nguyên lý, Viện công tố phải đồng
thời là cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra. Cơ quan điều tra tiến hành


16
các hoạt động điều tra theo yêu cầu của Viện công tố; mọi kết luận điều tra đều
phải có phê chuẩn của Viện công tố mới có giá trị pháp lý. Tại phiên toà, Công tố
viên thực hiện chức năng buộc tội, tham gia tranh tụng và chịu trách nhiệm hoàn
toàn về những chứng cứ buộc tội thu thập được trong quá trình điều tra. Cơ chế
này bảo đảm tính hiệu quả, thống nhất và liên tục của quy trình tố tụng tư pháp,
nâng cao chất lượng truy tố và tranh tụng của Công tố viên tại phiên toà. Từ đó đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế định Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố trong các vụ án hình sự theo hướng tăng cường năng lực và trách
nhiệm độc lập của Kiểm sát viên trong việc thực hành quyền công tố theo tinh
thần cải cách tư pháp.
- Đề tài “Nâng cao hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự phục vụ Chiến
lược cải cách tư pháp” của Lê Văn Cảm [16] nghiên cứu về tổ chức, cơ cấu của
hệ thống tư pháp hình sự và vai trò của hệ thống đó trong cải cách tư pháp ở Việt
Nam theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị.
Các tác giả đã làm rõ hơn vai trò của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong điều kiện Việt Nam; đề
xuất mô hình mới về Viện kiểm sát và những thay đổi về pháp luật khi quy định
địa vị pháp lý của Kiểm sát viên theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo đảm hiệu quả
của hệ thống tư pháp hình sự.

* Luận án, luận văn
Trong số các Luận án tiến sĩ có thể kể đến như của Nguyễn Tiến Sơn “Mối
quan hệ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam”
[102]. Trong đó xác định mối quan hệ giữa CQĐT và Viện kiểm sát, giữa Kiểm
sát viên với Điều tra viên trong tố tụng hình sự, xuất phát từ vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của hai cơ quan và hai chủ thể này trong hệ thống tư pháp hình sự. Mối
quan hệ này về cơ bản, chỉ có thể là mối quan hệ tố tụng hình sự. Từ đó thấy rõ
hơn sự chế ước và phối hợp, thực tế là kiểm sát tư pháp đối với CQĐT thông qua
Kiểm sát viên. Luận án đưa ra một kiến nghị hoàn thiện các quy định về pháp luật
điều chỉnh mối quan hệ này nhằm tăng cường trách nhiệm của công tố trong giai
đoạn điều tra.


17
Nguyễn Công Cường “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự” [29] nêu những đặc điểm mang tính phổ biến của hoạt động công
tố, phân tích rõ nội hàm khái niệm thực hành quyền công tố như đối tượng, phạm
vi, nội dung và đặc điểm và vận dụng được để trong lý giải về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật tố tụng hình sự nhằm tăng cường vai trò của Viện kiểm sát và Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra.
* Các bài đăng trên tạp chí
Bài viết “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" thể hiện xuyên
suốt, nhất quán trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp sửa đổi, của Trần Ngọc
Đường [42]. Trong bài viết này tác giả khái quát và tổng hợp năm điểm mới
trong Hiến pháp 2013 thể hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về vấn đề “Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân". Qua đây tác giả cũng khẳng định đây là
sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Ðảng và Nhà nước ta về việc đề cao chủ
quyền nhân dân, khẳng định ở "Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Nhân dân làm chủ".

Nguyễn Hòa Bình có bài "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành
kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới" [6]. Trong bài
viết này, tác giả đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân
dân trong bộ máy nhà nước ta; chỉ ra hai chức năng cơ bản là thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; khái quát hóa một số kết quả đổi mới
nổi bật của cơ quan này trong tiến trình cải cách tư pháp thời gian qua. Đồng thời,
tác giả cũng chỉ ra nhu cần đòi hỏi ngành kiểm sát nhân dân phải tiếp tục đổi mới
toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực công tác, nhằm tổ chức thực hiện tốt hơn
hai chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp để đáp
ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Từ đó, bài viết đã chỉ ra sáu nhiệm vụ
trọng tâm đặt ra đối với ngành kiểm sát nhân dân để thực hiện các mục tiêu cải
cách tư pháp theo các nghị quyết của Đảng trong thời gian tới như: đẩy mạnh thực


18
hiện, hoàn thành đúng tiến độ các nhiệm vụ cải cách tư pháp mà Đảng đã đề ra;
nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động; hoàn thiện thể chế; tập trung
đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ; tiếp tục tập trung nghiên cứu, xây
dựng, thực hiện các đề án về tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị,
phương tiện làm việc; tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Cũng nghiên cứu về tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhưng
tiếp cận ở góc độ hẹp hơn theo hướng chỉ đề cập đến mô hình tổng thể hoặc một
vài thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân nhất định. Có thể kể đến một số công
trình của các tác giả như: Lại Hợp Việt có các bài viết "Bàn về mô hình Viện kiểm
sát và chế định Kiểm sát viên trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa
đổi)" [148].
Trong bài “Hoàn thiện pháp luật hiện hành để “tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp” của Nguyễn Hồng Vinh [151] đã tổng hợp các chủ

trương của Đảng và Nhà nước về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra”. Từ cơ sở đó, tác giả đã trích dẫn và phân tích các quy định về
quyền công tố, cơ chế vận hành cụ thể của quyền công tố trong giải quyết các vụ
án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân hiện hành, đưa ra những đánh giá cụ thể và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật trong Tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện kiểm sát với các nội dung: cần có
quy định cụ thể các trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ra Quyết định
khởi tố và chuyển giao cho cơ quan Điều tra thụ lý điều tra vụ án; bổ sung quy
định mới về chế định “miễn tố” độc lập, theo đó, khi thực hành quyền công tố
Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định miễn truy cứu trách nhiệm hình sự
các bị can trong một số trường hợp nhất định; bổ sung thêm các chế định nhằm
tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên để Kiểm sát viên chủ
động thực hiện và chịu trách nhiệm về các hành vi tố tụng, nhất là quyền tham gia
trực tiếp vào một số biện pháp điều tra khi thấy cần thiết. Đây cũng là một trong
những nghiên cứu có ý nghĩa tham khảo rất lớn cho đề tài nghiên cứu của luận án.


19
Bài viết “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách
nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố
với hoạt động điều tra” của Vũ Mộc [75], đã đưa ra nhận định mặc dù trong
BLTTHS 2003 không quy định cụ thể quyền chỉ đạo hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát nhưng theo nội dung các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Viện
kiểm sát và của CQĐT thì Viện kiểm sát vẫn là cơ quan quyết định mọi hành vi tố
tụng ở giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, trên thực tiễn hoạt động công tố vẫn xa rời
hoạt động điều tra, theo tác giả có hai nguyên nhân chính (Pháp luật về hình sự và
tố tụng thiếu chế tài bảo đảm cho hoạt động chỉ đạo theo pháp luật tố tụng hình sự
của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra; Chưa có sự thống nhất và phân biệt về
thẩm quyền chỉ đạo hoạt động điều tra theo nghiệp vụ điều tra và chỉ đạo điều tra
theo pháp luật tố tụng hình sự và cuối cùng tác giả đưa ra bốn giải pháp cụ thể

nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách nhiệm của
Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt
động điều tra..
Bài viết “Những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về Viện kiểm sát, người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát
và một số kiến nghị hoàn thiện” của Nguyễn Duy Giảng [43] đã đề cập nhiều
vướng mắc trong thực tiễn khi Viện kiểm sát phân công Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra và giai đoạn xét xử. Nguyên nhân
là do quy định pháp luật tố tụng hình sự chưa được giải thích chính thức, các văn
bản dưới luật mang tính hướng dẫn thì hiệu lực thấp so với luật. Vì vậy, việc
hoàn thiện pháp luật về chế định Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, xét xử là
rất cần thiết.
Thời gian gần đây đề tài về chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên cũng được
nhiều tác giả nghiên cứu, nhưng nhìn chung các tác giả thường chỉ tập trung vào
một lĩnh vực hoặc trong phạm vi một địa phương nhỏ như các tác giả: Vũ Công
Thuận nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố ở ngành kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ nhằm đáp ứng yêu cầu cải


20
cách tư pháp” [112]; Đào Thịnh Cường nghiên cứu về “Năng lực áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Hà Nội” [28]; Lê Xuân Lộc “Năng lực thực hành quyền công tố của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh phú thọ trong xét xử các
vụ án hình sự” [70]; Phạm Thị Phương “Năng lực thực hành quyền công tố trong
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, tỉnh Ninh Bình” [85],… Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu vừa nêu đều
không đi sâu tìm hiểu về hệ thống các quy phạm pháp luật quy định địa vị pháp lý
của Kiểm sát viên, đặc biệt là trong điều kiện cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước
pháp quyền.

Khi nghiên cứu về “Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát Nhân dân
đối với các vụ án hình sự” của Nguyễn Trọng Nghĩa [78] đã khái quát những vấn
đề về lý luận về người tiến hành tố tụng trong đó có Kiểm sát viên trong Viện
kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự; đánh giá thực trạng người tiến hành
tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự và đưa ra một số
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng, đặc
biệt là của Kiểm sát viên trong VKSND đối với các vụ án hình sự.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định pháp lý về thẩm quyền hành
chính và trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm
sát viên, các tác giả Lưu Trọng Nguyên, Trần Mai Lâm khi nghiên cứu về “Phân
định thẩm quyền hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng,
Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên và việc tăng quyền hạn, trách nhiệm tố tụng cho
Kiểm sát viên” [79] đã đi sâu vào phân tích, đánh giá những điểm hợp lý cũng như
những hạn chế, bất cập trong đang tồn tại trong hoạt động của hệ thống cơ quan
Viện kiểm sát; thực trạng pháp lý của Kiểm sát viên trong quá trình thực hành
quyền công tố được giao quyền rất hạn chế và phải chịu sự quản lý cả về hành
chính, cả về hoạt động nghiệp vụ trước Viện trưởng, Phó Viện trưởng là chưa đáp
ứng được yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Các tác giả đã đưa ra đề xuất, kiến
nghị cần phải xây dựng quy định cụ thể trong BLTTHS về nhiệm vụ và quyền hạn


×