Tải bản đầy đủ (.docx) (175 trang)

VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI THỊ TRẤN NEO, HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.37 MB, 175 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRưỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

NGUYỄN THỊ TUYẾT

VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
VỚI NGưỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn
Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRưỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

NGUYỄN THỊ TUYẾT

VAI TRÕ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn
Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang)

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN AN LỊCH


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhân viên công tác
xã hội với người cao tuổi tại cộng đồng” – (Nghiên cứu trường hợp tại Thị
trấn Neo - huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang) dưới sự hướng dẫn của thầy
PGS.TS Nguyễn An Lịch là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác. Nếu sai, tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 08 tháng 07 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Tuyết


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ to lớn từ thầy
giáo hướng dẫn và các thầy cô giáo trong Khoa Xã hội học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, từ Hội người cao tuổi Thị trấn Neo, từ Ủy ban
nhân dân Thị trấn Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, nơi tôi đã thực hiện
nghiên cứu, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của gia đình và bạn bè thân hữu.
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Quý thầy PGS.TS
Nguyễn An Lịch. Thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tâm chỉ dẫn, giúp đỡ và
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn. Tôi
cũng bày tỏ lòng biết ơn các thầy cô giáo trong Khoa Xã hội học, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến các hội viên người cao tuổi

trong Hội Người cao tuổi Thị trấn Neo, đã hết lòng giúp đỡ tôi trong quá trình
điều tra, phỏng vấn để thu thập thông tin hoàn thiện luận văn, và lời cảm ơn
đến các cơ quan đoàn thể Thị trấn Neo, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, bạn bè thân hữu và
đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tinh thần và tạo điều kiện trong suốt quá
trình nghiên cứu.
Do trình độ bản thân vẫn còn nhiều hạn chế nên luận văn khó tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự quan tâm, đánh giá, góp ý của
các thầy cô giáo, bạn bè và những người quan tâm đến vấn đề này để tôi có
thể rút kinh nghiệm và hoàn thiện tốt hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả sự giúp đỡ quý báu đó!
Hà Nội, ngày 08 tháng 07 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Tuyết


MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU............................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.......................................................................4
3. Ý nghĩa của nghiên cứu...............................................................................17
4. Câu hỏi nghiên cứu......................................................................................18
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................19
6. Giả thuyết nghiên cứu.................................................................................20
7. Đối tượng và khách thể nghiên cứu............................................................20
8. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................21
9. Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................23
Phần 2. NỘI DUNG CHÍNH........................................................................24
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN

CỨU................................................................................................................24
1.1. Các khái niệm công cụ.............................................................................24
1.1.1 Khái niệm vai trò....................................................................................24
1.1.2 Khái niệm người cao tuổi.......................................................................25
1.1.3 Khái niệm cộng đồng..............................................................................27
1.1.4 Khái niệm công tác xã hội......................................................................28
1.1.5 Khái niệm nhân viên công tác xã hội.....................................................30
1.2. Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu................................................31
1.2.2. Lý thuyết nhu cầu của Maslow..............................................................34
1.2.3. Lý thuyết vai trò xã hội..........................................................................36
1.3. Tổng quan chính sách của Đảng, nhà nước về người cao tuổi.................37
1.3.1. Những chủ trương của Đảng.................................................................37
1.3.2. Luật pháp và chính sách của nhà nước.................................................39
1.4. Đặc điểm địa bàn thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang......42


1.4.1. Vị trí địa lý.............................................................................................42
1.4.2. Tổ chức dân cư......................................................................................42
1.4.3. Tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội......................................................43
TIỂU KẾT CHưƠNG 1...................................................................................44
Chương 2: THỰC TRẠNG CHĂM SÓC VÀ NHU CẦU HỖ TRỢ CỦA
NGưỜI CAO TUỔI TẠI THỊ TRẤN NEO – HUYỆN YÊN DŨNG –
TỈNH BẮC GIANG.......................................................................................46
2.1. Đặc điểm chung người cao tuổi trong mẫu nghiên cứu...........................46
2.1.1. Cơ cấu người cao tuổi chia theo giới tính.............................................46
2.1.2. Cơ cấu người cao tuổi chia theo nhóm tuổi..........................................46
2.1.3. Tình trạng hôn nhân..............................................................................47
2.1.4. Mô hình gia đình người cao tuổi...........................................................47
2.1.5. Trình độ học vấn....................................................................................48
2.1.6. Cơ cấu người cao tuổi phân theo trình độ chuyên môn........................48

2.2. Đánh giá thực trạng chất lượng chăm sóc và nhu cầu hỗ trợ của người cao
tuổi tại Thị trấn Neo – huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang.............................49
2.2.1. Sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi................49
2.2.2. Hoạt động lao động và nhu cầu lao động của người cao tuổi..............60
2.2.3. Quan hệ xã hội và nhu cầu được quan tâm, tôn trọng..........................67
2.2.4. Hoạt động văn hóa – xã hội và nhu cầu tham gia của người cao tuổi 77
2.2.5. Hỗ trợ người cao tuổi của cán bộ xã hội và chính quyền địa phương 82
2.2.6. Phát huy vị trí, vai trò của người cao tuổi............................................91
2.2.7. Mong muốn, nguyện vọng của người cao tuổi......................................96
Tiểu kết chương 2..........................................................................................100
Chương 3: ĐỀ XUẤT VAI TRÕ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
VÀ VẬN DỤNG PHưƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
TRONG TRỢ GIÖP NGưỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG 102
3.1 Vai trò của nhân viên công tác xã hội......................................................102


3.1.1. Người giáo dục....................................................................................103
3.1.2. Người tạo khả năng.............................................................................103
3.1.3. Người điều phối - kết nối dịch vụ........................................................104
3.1.4. Người biện hộ......................................................................................105
3.1.5. Người tạo môi trường thuận lợi..........................................................107
3.1.6. Người đánh giá và giám sát................................................................108
3.2. Vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong trợ giúp người cao
tuổi tại cộng đồng..........................................................................................108
3.2.1. Hồ sơ thân chủ....................................................................................109
3.2.2. Kế hoạch tác nghiệp............................................................................112
3.2.3. Tiến trình trợ giúp...............................................................................113
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.....................................................................124
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................134
PHỤC LỤC..................................................................................................141



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH

Công tác xã hội

NCT

Người cao tuổi

NXB

Nhà xuất bản

PVS

Phỏng vấn sâu

TDTT

Thể dục thể thao

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tình trạng sức khỏe của NCT.........................................................50

Bảng 2.2. Số lần khám sức khỏe định kỳ trong một năm của NCT................52
Bảng 2.3. Việc thường làm của NCT khi ốm/đau bệnh tật............................. 53
Bảng 2.4. Hình thức chăm sóc khi ốm đau của NCT......................................55
Bảng 2.5. Mức độ hài lòng của NCT về sự quan tâm đến sức khỏe của các
thành viên trong gia đình.................................................................................59
Bảng 2.6. Hoạt động kinh tế của NCT............................................................60
Bảng 2.7. Mục đích tham gia hoạt động kinh tế của NCT..............................62
Bảng 2.8. Thời gian dành cho công việc của NCT......................................... 63
Bảng 2.9. Nguồn thu nhập chính của NCT.....................................................64
Bảng 2.10. Mức thu nhập trung bình/tháng.....................................................66
Bảng 2.11. Thời gian NCT dành thăm hỏi họ hàng/bạn bè/hàng xóm và được
họ hàng/bạn bè/hàng xóm tới thăm................................................................. 68
Bảng 2.12. Số lượng bạn tri ân, tri kỷ của NCT..............................................70
Bảng 2.13. Đối tượng trò chuyện tâm sự của NCT.........................................71
Bảng 2.14. Tâm trạng hàng ngày của NCT.....................................................75
Bảng 2.15. Các công việc thường làm lúc rảnh của NCT...............................78
Bảng 2.16. Số lượng hội/ đoàn thể/câu lạc bộ NCT tham gia.........................79
Bảng 2.17. Lợi ích tham gia các hoạt động xã hội..........................................82
Bảng 2.18. Hỗ trợ của chính quyền địa phương..............................................83
Bảng 2.19. Hỗ trợ của cán bộ xã hội về chăm sóc sức khỏe...........................85
Bảng 2.20. Hỗ trợ tâm lý của cán bộ xã hội....................................................87
Bảng 2.21. Hỗ trợ kinh tế của cán bộ xã hội...................................................88
Bảng 2.22. Mức độ hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính quyền địa phương..........89
Bảng 2.23. Đánh giá của NCT về vai trò hỗ trợ của cán bộ xã hội, chính
quyền địa phương............................................................................................90
Bảng 2.24. Vị trí, vai trò của NCT trong gia đình...........................................91
Bảng 2.25. Hoạt động xã hội của NCT...........................................................95
Bảng 2.26. Mong muốn/nguyện vọng của NCT............................................. 97



DANH MỤC SƠ ĐỒ - BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Hệ thống thứ bậc nhu cầu của Abraham Maslow..........................34
Biểu đồ 2.1. Tình trạng sức khỏe của NCT chia theo nhóm tuổi....................51
Biểu đồ 2.2. Mức độ quan tâm của người thân đối với NCT..........................58
Biểu đồ 2.3. Mức độ chi phí của NCT từ thu nhập hàng tháng.......................67
Biểu đồ 2.4. Mức độ tham gia hội, đoàn thể, câu lạc bộ.................................81


Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Liên Hợp Quốc đã dự báo, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ già hóa. Dự báo cho
thấy, tỷ lệ NCT trên thế giới là 9% (1995) sau 30 năm tăng lên 14,9% (2025)
[21, tr1]. Già hóa dân số, một hiện tượng mang tính toàn cầu xảy ra ở khắp
nơi và ảnh hưởng đến mọi quốc gia, dân tộc. Do vậy, nhiều quốc gia trên thế
giới đã và đang quan tâm đến vấn đề già hóa dân số. Ở Việt Nam, theo như số
liệu của Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1979, 1989, 1999
và Điều tra Biến động Dân số – Kế hoạch hóa Gia đình, 2010 NCT Việt Nam
tăng nhanh cả về số lượng và tỷ trọng. Cụ thể, năm 1979 tổng dân số Việt
Nam là 53,74 triệu người trong đó, NCT (từ 60 tuổi trở lên) là 3,71 triệu
người chiếm 6,9% dân số. Năm 2010, tổng dân số Việt Nam là 86,75 triệu
người trong đó, NCT là 8,15 triệu người chiếm 9,4% dân số. Theo dự báo của
Tổng cục Thống kê về dự báo tỷ trọng dân số theo nhóm tuổi, Việt Nam giai
đoạn 2009 – 2049 thì NCT Việt Nam sẽ đạt 10% tổng dân số vào năm 2017
và sau 20 năm (2017 – 2037), Việt Nam sẽ có Dân số già (tỷ trọng người từ
60 tuổi trở lên lớn hơn hoặc bằng 20% tổng dân số). Tuy nhiên, theo nhận
định của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa Gia đình, Bộ Y tế thì đến năm
2011, NCT Việt Nam đã đạt trên 10% dân số và thời gian Việt Nam trở thành
quốc gia có dân số già sẽ giảm xuống khoảng 17 năm chứ không phải 20 năm
như nhận định ban đầu [22].
Hiện tượng này bắt đầu xuất hiện trong thế kỷ XX và được dự báo là sẽ

tiếp tục trong thế kỷ XXI với mức độ ngày càng gia tăng. Già hóa dân số phản
ánh thành công trong quá trình phát triển con người, là thước đo quan trọng
của trình độ phát triển kinh tế - xã hội và là thành tựu quan trọng của nhân
loại. Tuy nhiên, già hóa dân số có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi phương diện
của cuộc sống con người. “Trong lĩnh vực kinh tế, già hóa dân số tác động
đến tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, thị trường lao động,

1


lương hưu, tiền thuế và sự chuyển giao giữa các thế hệ. Trong lĩnh vực xã
hội, già hóa dân số ảnh hưởng đến y tế và chăm sóc sức khỏe, cấu trúc gia
đình và thu xếp cuộc sống, nhà ở và di cư. Về mặt chính trị, già hóa dân số có
thể tác động đến việc bầu cử và người đại diện” [31, tr.17 – tr.18]. Chương
trình hành động quốc tế về NCT được thông qua tại Đại hội đồng thế giới về
NCT lần đầu tiên tại Vienna năm 1992. Chương trình tập trung chủ yếu vào
tình trạng già hóa dân số ở các nước phát triển dưới góc độ phúc lợi xã hội.
Tháng 4/2002 tại Madrid, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã triệu tập Hội nghị
thế giới lần thứ 2 về già hóa dân số. Đại hội đồng đã xem xét kết quả đạt được
20 năm qua, 159 quốc gia đã ký vào Chương trình hành động quốc tế về NCT
nhằm hướng dẫn các hoạt động chính sách về NCT trong thế kỷ XXI. Cam
kết sẽ lồng ghép vấn đề già hóa dân số vào chương trình phát triển kinh tế - xã
hội và cũng cam kết giảm một nửa tỷ lệ nghèo của NCT. Tại nhiều quốc gia
trên thế giới, dân số cao tuổi đã được hoạch định trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội theo cam kết đã ký trong chương trình hành động quốc tế về
NCT, phù hợp với mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, nhưng tháng 4/2007, Tổ
chức NCT Quốc tế (HAI) đã đưa ra cảnh báo “Các chính phủ không chuẩn bị
cho vấn đề già hóa dân số”. Cảnh báo cũng nêu rõ “...NCT là những người
nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất trong nhiều xã hội, bởi vì Chính phủ
không chuẩn bị cho sự già hóa dân số nhanh trên toàn cầu” [21, tr.1 – tr.2]

Với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, dân số già hóa nhanh tạo
áp lực cho hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có, hệ thống dịch vụ sức khỏe, giao
thông đi lại, hệ thống hưu trí cho NCT cũng như quan hệ gia đình, tâm lý, lối
sống, chăm sóc NCT và đảm bảo chất lượng cuộc sống NCT.... chắc chắn sẽ
làm cho những vấn đề kinh tế - xã hội, môi trường thêm trầm trọng và có
nhiều biến động không thể lường trước. Từ đó tạo ra những khó khăn, thách
thức đối với nhà nước, xã hội, gia đình với NCT. Để thích ứng với già hóa dân
số, việc chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để đáp ứng nhu cầu của dân số


già là một thách thức lớn đối với các nhà lập kế hoạch và hoạch định chính
sách khi Việt Nam đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa các dịch vụ y tế trong môi
trường cuộc sống của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và
định hướng xã hội chủ nghĩa [21, tr.2].
Tại Việt Nam, NCT hiện tại phần lớn là lớp người có nhiều đóng góp to
lớn vào công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Bề dầy kinh nghiệm,
bản lĩnh cách mạng kiên cường, lòng nhân hậu và sự nhiệt tình đóng góp vào
sự nghiệp đổi mới đất nước... là những phẩm chất cao quý của lớp NCT luôn
luôn là chỗ dựa tin cậy cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Như vậy, xét từ
góc độ này, NCT chưa hẳn là gánh nặng đối với gia đình và xã hội. Những
năm gần đây Đảng ta đặc biệt quan tâm chăm sóc NCT nhất là NCT có công
với đất nước, người về hưu, NCT không nơi nương tựa thông qua việc ban
hành chính sách, văn bản, quy phạm pháp luật, quy định chăm sóc NCT và mới
đây nhất là Luật NCT đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước và toàn
xã hội quan tâm đầy đủ, đồng thời phát huy ngày càng tốt hơn vai trò của NCT
trong đời sống xã hội. Ngày 5/8/2004, Ủy ban Quốc gia về NCT là cơ quan
quản lý hành chính Nhà nước trong lĩnh vực NCT được thành lập theo Quyết
định số 141/2004/QĐ-TTG của Thủ thủ tướng chính phủ [21, tr.2 - tr.3].
Tuy nhiên, Việt Nam là đất nước đang phát triển, còn nhiều hạn chế và
tồn tại như: thu nhập quốc dân còn thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, trình độ

khoa học thấp,... đời sống NCT còn nhiều khó khăn, mức trợ cấp của Nhà
nước còn thấp, nhất là Việt Nam mới bắt đầu chuyển sang cơ cấu “Già hóa
dân số” do đó các chương trình, dự án liên quan đến NCT còn nhiều hạn chế,
hướng dẫn cho NCT và gia đình có NCT đang được thực hiện bước đầu và
còn hạn chế; CTXH về NCT chưa được đào tạo và còn nhiều hạn chế về ý
thức, nhận thức của xã hội....[21, tr.3].
Từ thực tế xã hội Việt Nam, thực trạng cuộc sống và hoạt động của
NCT cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm: Vị trí, vai trò của


NCT Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước và quá trình hội nhập quốc
tế; Mối quan hệ giữa cống hiến và thụ hưởng của NCT Việt Nam; Người cao
tuổi Việt Nam trong hệ thống các quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình và
cộng đồng xã hội; Các quyền cơ bản của NCT trong giai đoạn hiện nay; Sự
công bằng bình đẳng, dân chủ với NCT Việt Nam; Chăm sóc bồi dưỡng sức
khỏe, bảo vệ NCT, nhất là những NCT nghèo cô đơn ở những vùng dân tộc
[36, tr.248]. Vậy nhân viên CTXH có vai trò gì trong quá trình giải quyết
những vấn đề của NCT? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả nghiên cứu lựa
chọn đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhân viên công tác xã hội với người
cao tuổi tại cộng đồng” – (Nghiên cứu trường hợp tại Thị trấn Neo - huyện
Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang).
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Có thể nói rằng vấn đề về NCT luôn được quan tâm chú ý. Chính vì
thế, các nghiên cứu về NCT cũng xuất hiện rất sớm. Ở Châu Âu, những
nghiên cứu về NCT được tiến hành từ những năm 1800 với những đề tài như:
“Quà tặng các cụ già, bàn về biện pháp để kéo dài cuộc sống” của M.J.Tenon
(1815); “Bàn về tuổi thọ loài người và về lượng sống trên thế giới” của
P.Fluorons (1860); “Tuổi già xanh tươi”, của Alexando (1919). Những nghiên
cứu này đã điều tra thực trạng sống của NCT cũng như tình trạng sức khỏe

của họ, từ đó đưa ra những biện pháp chăm sóc sức khỏe cho NCT để kéo dài
tuổi thọ cũng như giúp cho NCT có được cuộc sống thoải mái hơn.
Xã hội ngày càng phát triển thì đời sống của NCT càng được quan tâm
và những chương trình nghiên cứu về NCT cũng ngày càng được triển khai
rộng rãi và dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới đây, chúng ta có thể điểm qua
một số nghiên cứu đáng lưu ý liên quan đến chủ đề này:
Nghiên cứu “Khảo sát quốc gia về Tự Chăm sóc và Tuổi già” – “The
National Survey of Self-Care and Aging” của Đại học Bắc Carolina tại Chapel
Hill


năm 1991 – 1990 với 3.485 người 65 tuổi trở lên, đã được lựa chọn từ các hồ sơ
mô tả những thói quen tự chăm sóc ở cộng đồng NCT. Phân tích đầu tiên của
những dữ liệu được tập trung vào một phạm vi cụ thể của các hoạt động có mục
đích, trong đó NCT tham gia và thông qua đó họ bù đắp cho suy giảm thể chất,
chức năng nhận thức hoặc tâm thần có thể làm giảm chất lượng của cuộc sống.
Tập trung chủ yếu thứ hai của cuộc điều tra quốc tế về tự chăm sóc và tuổi già là
các loại hành vi hạn chế suy giảm sức khỏe phòng ngừa và tăng cường sức khỏe,
thực hành lối sống lành mạnh. Một trong những tính năng độc đáo của nghiên cứu
quốc gia này là các hạng mục mô tả mô hình hành vi tự chăm sóc y tế.
Có thể nói rằng công trình quan trọng không thể không kể đến trong
lĩnh vực nghiên cứu này là ấn phẩm “Người già và sức khỏe: Người cao tuổi
Mỹ đến từ Châu Á và Thái Bình Dương” - “Aging and health: Asian and
Pacific Islander American Elders” của các tác giả Melen R.McBride, Nancy
Morioka.Douglas and Gwen Veo. Trong cuốn sách này, nhóm tác giả đã chỉ ra
sự đa dạng văn hóa, hệ thống niềm tin, cấu trúc gia đình ảnh hưởng đến việc
chăm sóc sức khỏe của những NCT đến từ các nước khác nhau thuộc khu vực
Châu Á và Thái Bình Dương hiện tại đang sống ở Mỹ. Từ đó, các tác giả đánh
giá nhu cầu, xác định những thuận lợi, rào cản trong việc chăm sóc sức khỏe
tạo điều kiện để những NCT có thể thể hiện được mong muốn, nhu cầu của

bản thân một cách tự nhiên nhất [62].
Nghiên cứu “Những rào cản trong chăm sóc sức khỏe Người cao tuổi
và nhận thức về chúng” - “Barriers to Health Care Access Among the Elderly
and Who Perceives Them” của Annette L. Fitzpatrick, Neil R. Powe, Lawton
S. Cooper, Diane G. Ives, MPH, and John A. Robbins (Đại học Washington,
Đại học Johns, Đại học Puttsburgh, Đại học California – Davis, và Đại học
Wake Forest). Nghiên cứu này được tiến hành từ năm 1993 – 1994 tại Viện
nghiên cứu sức khỏe tim mạch bằng phương pháp nghiên cứu định lượng với
5888 đàn ông và phụ nữ từ 65 tuổi trở lên. Mẫu này được chọn ngẫu nhiên từ


danh sách đủ điều kiện chăm sóc y tế ở 4 cộng đồng: Quận Foryth, quận
Sacramento, quận Washington và quận Allgheny. Kết quả nghiên cứu cho thấy
các rào cản tâm lý và thể chất khác....[59]. Nghiên cứu này khái quát thực
trạng chăm sóc sức khỏe đối với NCT, những rào cản tác động tới việc NCT
nhận được sự quan tâm, chăm sóc của riêng nước Mỹ. Từ những phát hiện
của nghiên cứu này, chúng ta có thể liên hệ tới những rào cản tương tự trong
xã hội Việt Nam. Chúng ta có thể thấy hệ thống chăm sóc sức khỏe của nước
ta còn nhiều bất cập, chẳng hạn như cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đặc biệt là
các cơ sở y tế cộng đồng. Điều này khiến cho việc tiếp cận các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe của NCT nói riêng và người dân nói chung còn gặp nhiều khó
khăn. Thực trạng đó đặt ra mối quan tâm lớn với những người làm nghiên cứu
nói riêng và những nhà hoạch định chính sách của nước ta nói chung.
Một công trình khác trong khu vực Đông Nam Á cần được nêu ra ở đây
là nghiên cứu “Xây dựng mô hình quản lý chăm sóc sức khỏe cho NCT có sự
tham gia của cộng đồng tại Isan” - “Developing Model of Health Care
Management for the Elderly by Community Participation in Isan” của
Chanitta Soommaht, Songkoon Chantachon and Paiboon Boonchai. Nghiên
cứu này được tiến hành từ 02 - 08/2008 tại 7 tỉnh Đông Bắc Thái Lan là
Mahasarakham, Roi-et, Sakon Nakhon, Nakhon Ratchasiam, Buriram, Surin

và Khon Kaen bằng phương pháp nghiên cứu định tính. Nghiên cứu đã tiến
hành phân tích các vấn đề liên quan đến việc quản lý chăm sóc sức khỏe NCT
về thể chất lẫn tinh thần. Các tác giả của nghiên cứu này đã tiến hành phân
tích sự phát triển của việc chăm sóc sức khỏe NCT có sự tham gia của cộng
đồng ở Isan. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc quản lý của tổ chức cộng
đồng trong chăm sóc sức khỏe NCT là phương pháp hiệu quả. Tất cả công dân
cao tuổi đều đồng ý rằng việc chăm sóc ý tế được cung cấp bởi các tổ chức
cộng đồng giúp họ thoải mái và ấm áp hơn [60].


Nghiên cứu “Đánh giá một dự án nghiên cứu có sự tham gia của cộng
đồng về chăm sóc sức khỏe tâm thần NCT ở nông thôn Mỹ” - “Evaluating a
community-based participatory research project for elderly mental healthcare
in rural America” của Dean Blevins, Bridget Morton, and Rene McGovern
cũng là nghiên cứu cần lưu ý. Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết mọi người
cảm thấy hài lòng với vai trò của họ và mức độ thành công của chương trình.
Từ đó, các tác giả cũng đề xuất những phương pháp để cải thiện hơn nữa dịch
vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần cho NCT tại nông thôn. Kết quả nghiên cứu
này được công bố vào năm 2008 [61]. Đây cũng chính là một trong những mô
hình chăm sóc sức khỏe cho NCT mà chúng ta cần quan tâm nghiên cứu. Mô
hình này giúp chúng ta thấy được cách chăm sóc sức khỏe tinh thần cho NCT
ngay tại cộng đồng của Hoa Kỳ như thế nào. Điều này sữ giúp chúng ta có
thêm những ý tưởng cho việc xây dựng các mô hình phù hợp ở nước ta.
Một nghiên cứu đáng lưu ý khác là công trình: “Già hóa trong thế kỷ
21: Thành tựu và thách thức” dó Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), và Tổ
chức Hỗ trợ NCT quốc tế (HelpAge International), xuất bản năm 2012. Báo
cáo phân tích thực trạng và rà soát tiến độ thực hiện chính sách và hành động
của chính phủ và các cơ quan liên quan kể từ khi Hội nghị Thế giới lần thứ 2
về NCT về thực hiện kế hoạch hành động quốc tế Madrid về NCT nhằm đáp
ứng những cơ hội và thách thức của một thế giới đang già hóa. Báo cáo đưa ra

nhiều ví dụ minh họa sinh động về các chương trình đổi mới đã đáp ứng thành
công các mối quan tâm của NCT. Đồng thời báo cáo cũng đưa ra các khuyến
nghị về định hướng tương lai nhằm đảm bảo mọi người ở mọi lứa tuổi trong
xã hội bao gồm cả NCT và giới trẻ đều có cơ hội góp phần xây dựng xã hội
cũng như cùng được hưởng các phúc lợi xã hội đó [44].
Nhìn một cách tổng thể, có thể nói rằng các công trình nghiên cứu, các
ấn phẩm nói trên đã tìm hiểu về thực trạng đời sống của NCT, những vấn đề
họ gặp phải trong cuộc sống, những rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ


chăm sóc trợ giúp NCT. Đây là cơ sở khoa học quan trọng cho việc hỗ trợ
nghiên cứu đề tài.
2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, vấn đề
NCT là một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là
các nhà lập chính sách. Cho đến nay các ấn phẩm về NCT khá đa dạng, bao
gồm các kết quả nghiên cứu thực nghiệm dưới dạng sách, bài tạp chí chuyên
ngành, báo cáo nghiên cứu, dạng bài tham luận, cho đến bài viết trên báo
chí… Rất nhiều nghiên cứu được là kết quả của các chương trình và khảo sát
xã hội học có quy mô lớn về NCT do các Viện nghiên cứu, các tổ chức và cá
nhân trong và ngoài nước tiến hành.
Sự già hóa sẽ mang đến những thách thức mới về kinh tế và xã hội, đặc
biệt là vấn đề an sinh xã hội. Các nghiên cứu ở Việt Nam về NCT thường tiếp
cận theo hướng coi họ là nhóm yếu thế hoặc nhóm xã hội phụ thuộc. Với cách
tiếp cận này với chủ đề nổi bật trong các nghiên cứu về NCT là: vấn đề sức
khỏe, chính sách cho NCT, rộng hơn là vấn đề an sinh xã hội và tìm hiểu các
đặc trưng xã hội cơ bản của nhóm dân số già. Các hướng phân tích được triển
khai theo nhiều khía cạnh như: mô tả đặc trưng xã hội cơ bản của nhóm NCT,
đánh giá và đo lường các yếu tố tác động… Và trọng tâm nghiên cứu cũng tùy
thuộc vào lĩnh vực hoạt động của từng ngành. Ví dụ, đối với ngành lão khoa

chú trọng nhiều đến vấn đề sức khỏa và bệnh tật. Tương tự, Bộ Y tế tập trung
nhiều khía cạnh sức khỏe và tâm sinh lý NCT, đặc biệt ở khu vực nông thôn.
Bộ Lao động, Thương binh và xã hội tiến hành các cuộc điều tra nhằm phục
vụ cho việc lập chính sách NCT. Cuối cùng, đối với nhà nghiên cứu khoa học
xã hội như xã hội học, tâm lý học, dân tộc học,… lại xem xét vấn đề NCT từ
những đặc trưng xã hội cơ bản và đặt nó trong mối tương quan với các yếu tố
kinh tế - xã hội, chỉ ra những khác biệt vùng, miền, tộc người,…


Có thể nói sự nghèo khổ, bệnh tật, không người chăm sóc là những vấn
đề mà NCT nói chung đang phải đối mặt. Ở Việt Nam, việc chăm sóc NCT
trong gia đình được duy trì qua nhiều thế hệ, tuy nhiên truyền thống này đã có
nhiều thay đổi do gia đình nhiều thế hệ ngày càng thu hẹp, trong khi gia đình
hạt nhân tăng lên. Một tỷ lệ lớn NCT do những hoàn cảnh khác nhau sẽ không
sống cùng con cháu trong gia đình nhiều thế hệ. Chính vì vậy mà các chủ đề
về nguồn lực vật chất và vấn đề chăm sóc sức khỏe là hướng nghiên cứu chủ
yếu và từ đó đưa ra các kiến nghị về mặt chính sách an ninh cho NCT.
Nhìn chung các kết quả nghiên cứu kể trên được rút ra từ các dữ liệu
nghiên cứu định tính, định lượng, phạm vi nghiên cứu là khá đa dạng, đại diện
cho một xã, một vùng (ví dụ: Nghiên cứu của Viện Xã hội học về người già ở
đồng bằng sông Hồng; Nghiên cứu của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam…),
mẫu đại diện quốc gia như Điều tra gia đình Việt Nam (2006), hoặc dữ liệu từ
các điều tra lớn của Tổng cục thống kê… Phương pháp phân tích hoặc chỉ sử
dụng định lượng hoặc định tính, hoặc kết hợp định lượng và định tính.
Mỗi phương pháp phân tích có những điểm hạn chế và ưu điểm riêng,
một số nghiên cứu ít bàn luận sâu về số liệu và phương pháp phân tích. Và
điểm dễ nhận thấy là ở các nghiên cứu định lượng, phương pháp phân tích
chủ yếu là mô tả tần suất và tương quan hai biến. Có một số nghiên cứu đã sử
dụng phương pháp đa biến để xem xét các yếu tố tác động đến quan hệ giữa
NCT và con cháu trong gia đình như nghiên cứu của Lê Ngọc Lân và các tác

giả (2011). Như vậy, có thể nói rằng các công trình về NCT cho đến nay đã
góp phần mang lại những hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của NCT ở Việt
Nam, song các nghiên cứu về CTXH với NCT hiện nay còn khá khiêm tốn, có
thể kể đến một số nghiên cứu sau:
Trước hết cần kể đến nghiên cứu “Công tác xã hội với người cao tuổi
bị bạo lực gia đình” - Nghiên cứu tại xã An Tường, thành phố Tuyên Quang,
tỉnh Tuyên Quang, Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội, của tác giả Phùng


Thanh Thảo (2014). Kết quả nghiên cứu cho thấy bạo lực gia đình với NCT
xảy ra ở khắp mọi nơi, không kể địa vị gia đình, trình độ dân trí. Đó là thực
trạng về bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần và bạo lực kinh tế. Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình, tuy nhiên có 4 yếu tố chủ
yếu là: rượu, bia và các chất kích thích; yếu tố kinh tế; yếu tố nhận thức; yếu
tố giới tính. Nghiên cứu cũng chỉ ra một số biện pháp đã áp dụng tại địa
phương nhằm giảm thiểu tình trạng bạo lực NCT trong gia đình, đồng thời đề
xuất một số biện pháp can thiệp. Và xây dựng mô hình CTXH nhằm hỗ trợ
cũng như nâng cao công tác phòng chống bạo lực gia đình nói chung và bạo
lực gia đình với NCT nói riêng.
Nghiên cứu “Chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở nông thôn Việt
Nam hiện nay và hoạt động của công tác xã hội” - Nghiên cứu tại xã Quỳnh
Bá – Quỳnh Lưu – Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội, của tác giả
Trương Thị Điểm (2014). Nghiên cứu cho thấy rằng tỉ lệ NCT tại địa bàn
nghiên cứu đang có xu hướng gia tăng và tỉ lệ NCT là nữ giới nhiều hơn nam
giới. Người cao tuổi ở những độ tuổi khác nhau họ vẫn tham gia lao động tạo
thu nhập, hỗ trợ con cháu về vật chất và công việc nhà. Kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy gia đình không còn giữ vai trò chính trong việc chăm sóc NCT
mà dần được chuyển sang nhà nước, các tổ chức xã hội, dịch vụ y tế tư nhân,
dịch vụ thị trường. Đồng thời đề tài cũng đã nêu lên những triển vọng và hoạt
động của CTXH trong việc chăm sóc sức khỏe cho NCT, giúp nâng cao nhận

thức của toàn xã hội đối với việc chăm sóc sức khỏe cho NCT và đảm bảo
quyền lợi cho NCT.
Nghiên cứu “Trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi tại cộng đồng” Nghiên cứu tại xã Trực Tuấn, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, Luận văn
Thạc sĩ Công tác xã hội, của tác giả Đồng Thị Minh Phúc (2014). Kết quả
nghiên cứu cho thấy, trong tất cả sự trợ giúp xã hội trong các mối quan hệ của
NCT thì hầu hết NCT đánh giá cao mối quan hệ với con cháu trong gia đình,


họ coi gia đình là chỗ dựa an toàn nhất, quan trọng nhất. Việc trợ giúp xã hội
đối với NCT tuy đã được sự quan tâm của chính quyền, cộng đồng nhưng chỉ
là chung chung và chưa thực sự thiết yếu đối với NCT. Kết quả nghiên cứu
cũng chỉ ra những tác động vào việc thực hiện chính sách liên quan đến trợ
giúp xã hội đối với NCT tại xã Trực Tuấn cũng như một số các giải pháp

áp

dụng trong CTXH đối với NCT tại cộng đồng.
Bên cạnh đó là một số nghiên cứu khác tìm hiểu về an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội; thực trạng NCT; mô hình dành cho NCT… Dưới đây, chúng ta sẽ
đề cập đến một số nghiên cứu nổi bật.
♦ Những nghiên cứu về NCT và an sinh xã hội
An sinh xã hội và phúc lợi xã hội dành cho NCT luôn là vấn đề nhận
được sự quan tâm của các nhà khoa học. Vì vậy, cho đến nay, có nhiều công
trình nghiên cứu theo hướng này đã được triển khai. Liên quan đến hướng
nghiên cứu này chúng ta sẽ điểm qua một số nghiên cứu đáng lưu ý sau đây:
Trong hai năm 1991 đến 1992 Viện Xã hội học đã triển khai đề tài
“Người cao tuổi và an sinh xã hội" được sự tài trợ cũa quỹ Toyota/Tương lai
của nhóm tác giả Trịnh Duy Luân, Lê Truyền, Bùi Thế Cường, Trần Thị Vinh,
Vũ Hoa Thạch, Đỗ Thịnh. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu về đời
sống của NCT ở nông thôn và thành thị nước ta từ góc độ xã hội học (lao

động, thu nhập, hoàn cảnh kinh tế, tình hình nhà ở và tiện nghi, vấn đề sức
khỏe và chăm sóc sức khỏe, việc tham gia CTXH sau nghỉ hưu, hệ thống an
sinh xã hội và tác động của nó vào hoàn cảnh sống của NCT…) [53].
Trong nghiên cứu “Hệ thống an sinh xã hội đối với người cao tuổi” của
Bùi Thế Cường đã nêu vai trò quan trọng của hệ thống An sinh xã hội trong
quá trình chăm sóc NCT ở nước ta. An sinh xã hội cho nhóm NCT là một
nhiệm vụ quan trọng. Chăm lo các điều kiện An sinh xã hội cho nhóm NCT,
giúp họ đảm nhiệm các vai trò xã hội mới, đó là công việc có ý nghĩa to lớn


đối với phát triển xã hội. Vì không chỉ trong xã hội truyền thống nơi mà NCT
thực sự được tôn kính do họ nắm vững kho tri thức kinh nghiệm sản xuất, lưu
giữ các giá trị truyền thống nơi mà ngay cả trong xã hội hiện đại NCT vẫn là
một tài nguyên xã hội theo mọi nghĩa [40, tr.4].
Bài viết “Nghiên cứu phúc lợi xã hội: Nhìn lại một chặng đường”
(Trường hợp một chương trình nghiên cứu và triển khai) của tác giả Bùi Thế
Cường (2005) thuộc Chương trình nghiên cứu phúc lợi xã hội của Viện xã hội
học là một nghiên cứu đáng lưu ý. Bài viết đề cập đến nghiên cứu phúc lợi xã
hội đối với NCT được tiến hành nghiên cứu từ năm 1991 và tổng kết lại
những nghiên cứu về NCT trong suốt thời gian dài. Từ kết quả của những
nghiên cứu đó tác giả bài viết cũng có những đề xuất, khuyến nghị nhằm nâng
cao hơn nữa về việc chăm sóc cho NCT ở nước ta.
Có thể nói rằng những nghiên cứu liên quan đến NCT và an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội đã tìm hiểu vấn đề an sinh xã hội, phúc lợi xã hội giành
cho NCT trong những thời kỳ khác nhau ở trên các nước cũng như khu vực
nhằm đưa ra những cái nhìn chung nhất về vấn đề này. Bên cạnh đó, những
nghiên cứu trên cũng chỉ ra những điểm hạn chế cần khắc phục cũng như đề
xuất các giải pháp để hoàn thiện chính sách an sinh cũng như phúc lợi dành
cho NCT để cuộc sống của NCT được đảm bảo hơn. Dưới một góc nhìn nhất
định, những nghiên cứu này đã mở rộng sự hiểu biết đối với các chương trình

phúc lợi, anh sinh xã hội giành cho NCT ở nước ta trong thời gian vừa qua.
♦ Những nghiên cứu về thực trạng NCT
Trong thực tiễn đời sống xã hội, nếu muốn nâng cao được chất lượng,
cải thiện được dịch vụ thì việc điều tra nghiên cứu về thực trạng là một trong
những vấn đề mấu chốt. Đối với lĩnh vực NCT cũng vậy, để nâng cao được
chất lượng chăm sóc cho NCT thì cần phải tìm hiểu thực trạng đời sống của
họ như thế nào. Chính vì thế mà đây cũng là một trong những mảng nghiên
cứu cần quan tâm. Chúng ta có thể kể đến một vài nghiên cứu nổi bật sau đây:


Nghiên cứu “Thực trạng người cao tuổi Hà Tây” năm 2003 của Ủy
ban Dân số, Gia đình và Trẻ em Hà Tây. Nghiên cứu này được triển khai tại 3
xã, phường: Xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai đại diện cho khu vực nông
nghiệp; xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên đại diện cho khu vực làng nghề;
phường Nguyễn Trãi, thị xã Hà Đông đại diện cho khu vực thành thị. Kết quả
nghiên cứu này đã chỉ ra được vai trò của NCT trong các hoạt động sống hằng
ngày, nhu cầu của họ cả về vật chất lẫn tinh thần, sức khỏe... và từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho NCT [46].
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Cường và Lê Trung Sơn (2003) về
“Thực trạng người cao tuổi và giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc
người cao tuổi ở Hà Tây” cho thấy NCT Hà Tây thỏa mãn tinh thần chủ yếu
là vui chơi cùng con cháu (81,4%). NCT ở nông thôn sinh hoạt cùng con cháu
thường xuyên hơn NCT ở thành thị (83,5% so với 77,4%). NCT thành thị tiếp
cận thông tin, tham quan, du lịch, thể dục thể thao và sinh hoạt đoàn thể một
cách thường xuyên hơn NCT nông thôn. Tỷ lệ các cụ ở thành thị tham gia các
hoạt động Đảng, chính quyền cao hơn nông thôn. Các cụ ông tham gia nhiều
hơn các cụ bà [13].
Nghiên cứu “Thực trạng đời sống của người cao tuổi dân tộc và già
làng trong phát triển bền vững Tây Nguyên” của tác giả Nguyễn Thế Huệ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy được vai trò to lớn của NCT, già làng trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, an ninh chính trị... ở Tây Nguyên. Đồng
thời kết quả nghiên cứu còn cho thấy được vai trò to lớn của NCT, già làng
trong tất cả các hoạt động tại cộng đồng. Điều đó góp phần khẳng định vị trí,
vai trò quan trọng của NCT trong cuộc sống. Nghiên cứu này được biên soạn
và xuất bản năm 2008 [27].
Những nghiên cứu thực trạng này cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng
quan về đời sống của NCT tại những địa phương khác nhau. Trong các nghiên
cứu này các giả đã tiến hành tìm hiểu về cả đời sống vật chất cũng như tinh thần


của NCT và tìm hiểu được vai trò của NCT đối với gia đình và cộng đồng mình.
Từ thực trạng đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đời sống của NCT vẫn chưa
thực sự được quan tâm đúng mức.
♦ Nghiên cứu về các mô hình giành cho người cao tuổi
Bên cạnh những nghiên cứu về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và thực
trạng đời sống của NCT thì các mô hình chăm sóc sức khỏe dành cho NCT
cũng nhận được sự quan tâm, chú ý. Có thể kể đến một vài nghiên cứu như:
Đề tài: “Tìm hiểu đời sống người cao tuổi tại Mái ấm tình thương chùa
Diệu Pháp” được triển khai nghiên cứu để tìm hiểu thực trạng đời sống về
chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt, đời sống tinh thần của NCT trong Mái ấm tình
thương chùa Diệu Pháp và từ đó đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện đời
sống cho NCT tại đây. Đây cũng là một trong những mô hình chăm sóc sức
khỏe cho NCT có hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa tập trung giống
như các trung tâm chăm sóc NCT [42, tr.12 – tr.13].
Trong đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu một số đặc trưng của người cao
tuổi Việt Nam và đánh giá mô hình chăm sóc người cao tuổi đang áp dụng”
của Đặng Vũ Cảnh Linh (2009) đã đưa ra một số vấn đề về NCT: Thứ nhất,
điều kiện sống ngày một tăng góp phần tích cực vào việc nâng cao sức khỏe
của NCT. Thứ hai, công tác chăm sóc sức khỏe NCT đã được quan tâm. Thứ
ba, công tác tổ chức các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho NCT tại cộng đồng

còn ít, tại nhiều địa bàn khảo sát tình trạng NCT hoạt động đơn lẻ, tự phát phổ
biến. Thứ tư, điều kiện sống của NCT đang dần được cải thiện cùng với cuộc
sống của toàn xã hội. Một số mô hình chăm sóc NCT hiện nay bước đầu đã
giải quyết được những vấn đề của xã hội. Các mô hình này ít nhiều đã giúp
NCT có được cuộc sống thanh thản và nhận được sự quan tâm chăm sóc chu
đáo [38].
Hiện tại, ở nước ta có nhiều mô hình trợ giúp NCT khác nhau, có
những mô hình trong các trung tâm trợ giúp, các cơ sở chăm sóc nuôi dưỡng


cũng có những mô hình tại cộng đồng. Những nghiên cứu trên đã bàn về một
vài mô hình, và đánh giá các hoạt động triển khai tại các mô hình này. Từ các
nghiên cứu chúng ta có thể thấy rằng, những mô hình này đã góp phần quan
trọng vào việc cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống NCT tại các trung
tâm cơ sở nuôi dưỡng tập trung cũng như tại cộng đồng.
♦ Một vài nghiên cứu khác
Ngoài những hướng nghiên cứu đã được đề cập đến ở trên, lĩnh vực
người cao tuổi cũng có nhiều nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau của đời
sống xã hội.
Nghiên cứu về “Sự tham gia hoạt động xã hội của người cao tuổi ở
đồng bằng sông Hồng” của tác giả Dương Chí Thiện (1999). Kết quả của
cuộc nghiên cứu trên đã đề cập đến sự tham gia vào các hoạt động xã hội của
NCT và qua đó đánh giá những yếu tố tác động đến sự tham gia hoạt động xã
hội của NCT ở vùng đồng bằng sông Hồng. Kết quả cho thấy tỷ lệ NCT tham
gia vào các hoạt động xã hội ở các tổ chức phi chính thức cao hơn rất nhiều so
với các tổ chức chính thức. Các yếu tố như khu vực cư trú, giới tính, độ tuổi,
mức độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh và điều kiện sống, tình trạng sức
khỏe… đều có ảnh hưởng đến giao tiếp của NCT [48].
Nghiên cứu “Động cơ tiếp tục hoạt động lao động của người nghỉ hưu
ở Hà Nội” của tác giả Hoàng Mộc Lan (2006) được tiến hành trên 600 người

về hưu ở HN, cho thấy hơn 50% người nghỉ hưu vẫn muốn tiếp tục duy trì lao
động nghề nghiệp do lương hưu thấp, thói quen làm việc và mong muốn giao
tiếp với mọi người trong cơ quan, cơ sở mà họ đã sống, gắn bó nhiều năm [57,
tr.14 – tr.15].
Một công trình khác cần kể đến ở đây là đề tài: “Nâng cao chất lượng
hoạt động của Hội người cao tuổi Việt Nam trong thời kỳ mới” đã được Viện
nghiên cứu NCT Việt Nam trực tiếp triển khai ở hai tỉnh Quảng Ngãi và
Quảng Ninh với sự phối hợp của Ban Tổ chức, Ban phong trào, Ban xã hội –


×