Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tư tưởng của thomas l friedman về toàn cầu hóa và những vấn đề của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (954.72 KB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THỦY

TƢ TƢỞNG CỦA THOMAS L.FRIEDMAN VỀ
TOÀN CẦU HÓA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA NÓ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60220301

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Vũ Hảo

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ Triết học với đề tài: “Tư tưởng của
Thomas L. Friedman về toàn cầu hóa và những vấn đề của nó” là công trình
nghiên cứu của riêng cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.
Nguyễn Vũ Hảo.
Các trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính trung thực, chính xác.
Những kết luận trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào.
Hà Nôi, ngày 10 tháng 9 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Thủy



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy cô giáo của trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, nhất là các Thầy cô trong khoa Triết học đã quan
tâm, tận tình truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học
tập và thực hiện luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Nguyễn Vũ
Hảo, Thầy đã hết lòng hướng dẫn, tận tâm, chu đáo để tôi hoàn thành luận văn
này.
Do còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên luận văn chắc chắn
không tránh khỏi những thiết sót và hạn chế, rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của quý Thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nôi, ngày 10 tháng 9 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Thủy


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 6
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 6
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ....................................................................... 7
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG
CỦA THOMAS L.FRIEDMAN VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ CỦA TOÀN CẦU HÓA ................................................................. 8
1.1. Bối cảnh kinh tế chính trị - văn hóa xã hội cuối thế kỷ XX đầu thế

kỷ XXI .............................................................................................................. 8
1.2. Tiền đề khoa học công nghệ và tiền đề lý luận .................................... 19
1.2.1. Tiền đề khoa học công nghệ ............................................................... 19
1.2.2. Tiền đề lý luận...................................................................................... 21
1.3. Vài nét về Thomas L. Friedman và các tác phẩm của ông ................. 25
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 32
CHƢƠNG 2. NHỮNG NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CỦA THOMAS
L.FRIEDMAN VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA NÓ 34
2.1. Tƣ tƣởng của Friedman về toàn cầu hóa và những cơ hội, thách thức
của nó ............................................................................................................. 34
2.2. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa .......... 47
2.3. Vấn đề dân chủ hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa ............................... 56
2.4. Vấn đề vai trò của nhà nƣớc trong bối cảnh toàn cầu hóa ................ 64


2.5. Một số giá trị và hạn chế của tƣ tƣởng Thomas L. Friedman về toàn
cầu hóa và những vấn đề của nó .................................................................. 73
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa đang là xu thế khách quan tác động một cách trực tiếp và
sâu rộng tới các lĩnh vực của đời sống xã hội của các quốc gia, dân tộc. Toàn
cầu hoá là một xu thế trong quá trình vận động, phát triển của xã hội loài
người nói chung và nền kinh tế thế giới nói riêng, là kết quả tất yếu do sự phát
triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin. Dù muốn hay không thì các quốc gia đều chịu sự tác động của quá

trình này thông qua con đường trực tiếp hay gián tiếp.
Cũng như bất kỳ một hiện tượng xã hội nào khác, toàn cầu hoá cũng
là một quá trình mang tính hai mặt, nó vừa có mặt tích cực, vừa có mặt hạn
chế. Không thể phủ nhận rằng toàn cầu hóa đem lại cho tất cả các quốc gia
trong thế giới những cơ hội được phát triển mạnh mẽ về mọi mặt mà trước hết
là về kinh tế. Nhờ quá trình toàn cầu hóa, một số nước có khả năng thỏa mãn
nhu cầu vật chất của người dân và đã có thể ước mơ đến một cuộc sống sung
túc hơn trong một tương lai không xa. Những bước tiến của công nghệ thông
tin đã cống hiến cho nhân loại tiềm năng kinh ngạc trong việc sử dụng lượng
thông tin khổng lồ, xử lý thông tin, đưa thông tin tới bất cứ nơi đâu khiến mọi
người trở nên bình đẳng trong việc tiếp nhận thông tin.
Tuy nhiên, trong quá trình toàn cầu hóa luôn luôn tiềm ẩn vô vàn khó
khăn thách thức đòi hỏi các quốc gia trong quá trình hội nhập phải có lộ trình
và chiến lược phát triển rõ ràng để tránh tụt hậu, hoặc tạo ra nguy cơ đánh mất
bản sắc dân tộc. Vấn đề đặt ra là các quốc gia cần phải làm gì để có thể tận
dụng được tốt nhất những cơ hội mà quá trình toàn cầu hoá đem lại, đồng thời
giảm thiểu đến mức tối đa những tác động tiêu cực của nó.

1


Xu hướng toàn cầu hoá đã trở nên phổ biến với mọi người trong xã hội
hiện đại ngày nay, và quá trình này đang diễn ra hết sức sôi động trên hầu hết
mọi mặt của đời sống xã hội. Nhưng xung quanh khái niệm toàn cầu hóa vẫn
còn nhiều sự tranh luận chưa đi đến thống nhất, mỗi học giả có cách tiếp cận
khác nhau, vì vậy mà khái niệm về toàn cầu hóa cũng hết sức đa dạng. Nhìn
chung có hai khuynh hướng chính đó là: ủng hộ toàn cầu hóa cho rằng đó là
xu thế khách quan của vận động xã hội và xu hướng chống toàn cầu hóa họ
cho rằng toàn cầu hóa là sự gia tăng ảnh hưởng của các nước lớn trên quy mô
toàn cầu và những ảnh hưởng của toàn cầu hóa buộc con người phải đứng

trước những nguy cơ tiềm ẩn.
Đóng góp vào những tranh luận về toàn cầu hóa, Thomas L. Friedman
– một nhà báo nổi tiếng của tờ The New York Times đưa ra những phân tích,
nhận định hết sức mới mẻ thông qua các tác phẩm của mình để minh chứng
cho sự lạc quan của ông vào quá trình toàn cầu hóa. Trong số các tác phẩm
suất sắc của mình, hai tác phẩm mà Thomas L. Friedman đề cập đến vấn đề
toàn cầu hóa là: “Chiếc lexus và cây ôliu” và “Thế giới phẳng”.
Hai cuốn sách đã đưa ra lời giải đáp cho câu hỏi “Toàn cầu hoá là gì?”,
diễn tả một hiện tượng mới về xã hội và kinh tế đang diễn ra trong kỷ nguyên
toàn cầu đó là “thế giới phẳng”. Trong các lập luận của mình, toàn cầu hoá đã
được Friedman giải thích bằng những hình ảnh sinh động cùng lối so sánh rất
thuyết phục.
Đối với Việt Nam, chúng ta đang trong giai đoạn mở cửa và hội nhập
quốc tế. Chịu sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa trên tất cả các
phương diện của đời sống xã hội. Xu thế toàn cầu hóa đã đặt Việt Nam trước
yêu cầu phải đổi mới tư duy chính trị nhằm định hướng cho việc hoạch định
đường lối chiến lược đúng đắn trong thực tiễn. Đó là yêu cầu nhận thức đầy
đủ về các mối quan hệ ở nước ta dưới tác động của toàn cầu hóa. Do đó việc

2


nghiên cứu bản chất, đặc điểm và sự tác động của toàn cầu hóa là việc làm hết
sức cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn cần phải nghiên cứu hiện tượng toàn
cầu hoá và hiểu được những giá trị tư tưởng nổi bật và đặc sắc trong các tác
phẩm của Thomas L. Friedman, tác giả quyết định chọn đề tài: Tư tưởng của
Thomas L. Friedman về toàn cầu hóa và những vấn đề của nó làm đề tài luận
văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

Trong những năm gần đây, toàn cầu hóa không còn xa lạ với các nhà
nghiên cứu, chính vì vậy mà trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu về chủ đề này. Ở Việt Nam, toàn cầu hoá cũng nhận được sự quan tâm
nghiên cứu bởi rất nhiều học giả, trong đó có thể kể ra những công trình
nghiên cứu chủ yếu như sau.
Trước tiên phải kể đến cuốn sách “Tính hai mặt của toàn cầu hoá” của
tác giả Trần Văn Tùng xuất bản năm 2000. Công trình nghiên cứu chỉ ra toàn
cầu hóa là xu thế khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới. Tính tất yếu
khách quan của toàn cầu hóa được thúc đẩy bởi các tiến bộ mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão
của công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa luôn tiềm ẩn những thời cơ cũng như
mang đến vô vàn thách thức đối với tất cả các quốc gia, dân tộc mà nó đi qua.
Thứ hai đó là cuốn sách của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiên với nhan
đề “Lịch sử và nội dung khái niệm toàn cầu hoá” được xuất bản năm 2001
của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Những vấn đề cơ bản về lịch
sử toàn cầu hóa, nội dung khái niệm này được tác giả làm rõ trong cuốn sách.
Thứ ba là cuốn “Toàn cầu hoá - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
tác giả Lê Hữu Nghị – Lê Ngọc Tòng xuất bản năm 2002. Các tác giả đã chỉ
ra những vấn đề lý luận chung nhất của toàn cầu hóa như khái niệm, bản chất,

3


biểu hiện của quá trình toàn cầu hóa. Đồng thời chỉ ra những vấn đề thực tiễn
đối với các quốc gia trong việc tiếp nhận những thời cơ và hạn chế thách thức
mà toàn cầu hóa mang lại. Cuốn sách đã nêu ra những vấn đề căn bản trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn trong thời đại toàn cầu hóa.
Cuốn sách thứ tư đó là “Toàn cầu hóa và phát triển bền vững” của
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia xuất bản năm 2003. Cuốn
sách đã trình bày về toàn cầu hóa, thương mại và sự phát triển. Đồng thời chỉ

ra những bài học từ lịch sử; toàn cầu hóa kinh tế, các chính sách phát triển
trong một thế giới toàn cầu hóa. Từ những bài học lịch sử trên các tác giả đã
chỉ ra mối quan hệ giữa toàn cầu hóa và người lao động ở các nước đang phát
triển, quản trị thương mại toàn cầu vì mục tiêu phát triển, toàn cầu hóa và
phát triển con người ở Đông Nam Á.
Thứ năm là công trình “Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu
của thế kỷ XXI” của nhà nghiên cứu Nguyễn Trọng Chuẩn xuất bản năm
2006. Tác giả chỉ ra lịch sử, khái niệm, phân loại những vấn đề toàn cầu từ đó
đưa ra những nhân tố tác động đến chiều hướng phát triển của các vấn đề toàn
cầu trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Tác giả cho rằng nhân tố kinh tế là
một trong những tác nhân chủ yếu của các vấn đề toàn cầu hiện nay. Đồng
thời tác giả đi sâu phân tích ba nhóm vấn đề cơ bản, thứ nhất là vấn đề toàn
cầu gắn liền với mối quan hệ giữa các cộng đồng xã hội cơ bản của nhân loại;
thứ hai là nhóm những vấn đề nảy sinh từ sự tác động qua lại giữa xã hội loài
người với giới tự nhiên; thứ ba là nhóm những vấn đề liên quan trực tiếp đến
con người đến sự tồn tại của con người.
Nghiên cứu “Toàn cầu hóa – Những mặt tích cực và tiêu cực, ảnh
hưởng của nó đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” của tác
giả Dương Xuân Sơn năm 2007 là công trình tiêu biểu thứ sáu góp mặt vào
những tranh luận về toàn cầu hóa. Tác giả chỉ ra những thời cơ cũng như

4


thách thức mà toàn cầu hóa mang lại đối với nền văn hóa dân tộc của Việt
Nam. Tác giả đặt vấn đề để khắc phục những hạn chế, yếu kém tiếp tục bảo
vệ, giữ gìn, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế, chúng ta cần thực hiện một số biện pháp như đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, vận động quần chúng tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, tích

cực xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh,
tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa nhân loại, nhân văn, khoa học nhân
loại.
Thứ bảy là cuốn sách “Toàn cầu hóa trong bối cảnh Châu Á – Thái
Bình Dương một số vấn đề triết học” do Phạm Văn Đức chủ biên xuất bản
năm 2007 cũng đề cập đến vấn đề này. Trong cuốn sách, tác giả phân tích về
toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu hóa ở Châu Á- Thái Bình Dương những
triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ngoài ra, vấn đề
bảo vệ các giá trị văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa cũng được tác giả đề
cập. Cuốn sách cung cấp thông tin bổ ích trong việc nhận thức thực chất của
toàn cầu hóa và những vấn đề triết học đặt ra trong bối cảnh toàn cầu hóa ở
Châu Á – Thái Bình Dương.
Cuối cùng phải kể đến cuốn sách của tác giả Nguyễn Vũ Hảo xuất bản
năm 2016 với nhan đề “Triết học của thế giới đương đại” tác giả đã khái quát
một cách tổng quan về những đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa và đi vào lý
giải về vấn đề giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, vấn đề
giao tiếp liên văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa. Theo tác giả trong bối
cảnh toàn cầu hóa con người có thể tiếp thu những chuẩn mực và các giá trị
văn hóa từ những cộng đồng khác, sự mở rộng của bản sắc văn hóa dân tộc có
thể mang lại những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng đặt văn hóa dân tộc
dưới nhiều thách thức to lớn.

5


Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết khác về đề tài
toàn cầu hóa. Các tác giả đứng trên quan điểm, góc độ khác nhau, nghiên cứu
nhiều chiều cạnh của vấn đề toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách chi tiết, cụ thể về tư tưởng của Thomas L. Friedman về vấn đề toàn

cầu hóa và các vấn đề của toàn cầu hóa từ góc nhìn triết học trong các tác
phẩm của ông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn: Phân tích những nội dung cơ bản
trong tư tưởng của Thomas L. Friedman về toàn cầu hóa và những vấn đề đặt
ra trong bối cảnh toàn cầu hóa, từ đó đưa ra một số đánh giá về giá trị và hạn
chế của tư tưởng này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: Để thực hiện mục đích trên, luận
văn có nhiệm vụ sau đây:
+ Trình bày về bối cảnh và những tiền đề ra đời tư tưởng của Thomas
L. Friedman về toàn cầu hóa.
+ Phân tích làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Thomas L. Friedman
về toàn cầu hóa và các vấn đề đặt ra trong bối cảnh toàn cầu hóa.
+ Đưa ra đánh giá về các giá trị, hạn chế của tư tưởng của Thomas L.
Friedman về toàn cầu hoá và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh toàn cầu hóa.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn sử dụng những nguyên lý của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tử tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế làm
cơ sở lý luận.

6


- Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Luận văn vận dụng hệ thống
các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Tư tưởng của Thomas
L.Friedman về toàn cầu hóa và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh toàn cầu

hóa.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung vào nghiên cứu
tư tưởng của Thomas L.Friedman về toàn cầu hóa và những vấn đề đặt ra
trong bối cảnh toàn cầu hóa chủ yếu trong hai tác phẩm: “Chiếc lexus và cây
ôliu” và “Thế giới phẳng” chủ yếu từ góc nhìn triết học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận của luận văn: Luận văn đóng góp một góc nhìn về
toàn cầu hóa nói chung và tư tưởng về toàn cầu hóa của Thomas L. Friedman
nói riêng để từ đó đưa ra một số nhận định đánh giá về những tư tưởng của
Thomas L.Friedman trong hai tác phẩm: “Chiếc lexus và cây ôliu” và “Thế
giới phẳng”.
- Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề toàn cầu hóa và các quan
điểm của Thomas L.Friedman.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương và 8 tiết.

7


CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG
CỦA THOMAS L.FRIEDMAN VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ CỦA TOÀN CẦU HÓA
1.1. Bối cảnh kinh tế chính trị - văn hóa xã hội cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI
*Về chính trị
Sau khi Liên Xô sụp đổ vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đã diễn
ra hàng loạt biến động chính trị trên quy mô toàn cầu. Trên thế giới dường
như đã diễn ra một giai đoạn chuyển tiếp với nhiều sự xáo động, các quan hệ
quốc tế mới đang dần được định hình.

Năm 1989 bức tường Béc-lin sụp đổ, đến năm 1991 Liên Xô chính
thức tan rã, Chiến tranh Lạnh kết thúc và cũng chấm dứt luôn sự tồn tại của
trật tự thế giới hai cực, đối đầu giữa hai khối nước xã hội chủ nghĩa do Liên
Xô đứng đầu và tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Sau khi chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào giai
đoạn thoái trào, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiếp tục cải cách, đổi mới
và đã thu được những thành tựu bước đầu khẳng định vai trò vị trí của mình
trong khu vực và thế giới, khẳng định tính tất yếu của thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các nước đế quốc phương Tây có ưu thế
hơn đang tìm mọi cách gây sức ép về chính trị, kinh tế, quân sự, truyền bá các
giá trị dân chủ, nhân quyền, tiếp tục sử dụng chiến lược diễn biến hòa bình
nhằm thu hẹp dần phạm vi ảnh hưởng tiến tới thủ tiêu các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại. Các nước đang phát triển có xu hướng đoàn kết lại nhằm chống
lại sự áp đặt của các nước lớn vì lợi ích của quốc gia - dân tộc mình.
Bối cảnh quốc tế đó đang tạo ra cục diện mới tập hợp lực lượng trong
cuộc đấu tranh giữa các nước xã hội chủ nghĩa với các nước tư bản chủ nghĩa,
giữa các trung tâm tư bản với nhau, giữa các nước đang phát triển với chủ
nghĩa đế quốc và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản

8


trong lòng Chủ nghĩa đế quốc ngày càng phức tạp, đa dạng, nhiều chiều và
xuất hiện nhiều hình thái mới đan xen.
Hiện Mỹ vẫn là siêu cường, nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy Mỹ đang
ở thế đi xuống, không còn ở đỉnh cao của thời kỳ "hoàng kim". Sau khi giành
chiế n thắ ng trong Chiế n tranh Lạnh, Mỹ liên tục triển khai nhiều chính sách
đối ngoại để thiết lập trật tự thế giới đơn cực do Mỹ làm chủ nhằ m mục tiêu
củng cố vai trò lãnh đạo của Mỹ trong hệ thống kinh tế , chính trị toàn cầu ,
đồ ng thời có thể sử dụng vũ lực để ngăn chặn bất kỳ một hay một nhóm quốc

gia nào toan tính cạnh tranh ảnh hưởng vớ i Mỹ . Các căn cứ quân sự của Mỹ
hiện diện dày đặc ở mọi châu lục với số lượng lớn. Mặc dù khối quân sự
Vácsava - khối đối trọng trong thời kỳ trật tự thế giới hai cực không còn,
nhưng khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) do Mỹ chi phối vẫn tiếp
tục mở rộng từ 15 nước thành viên tăng lên 28 nước thành viên. Chiến lược
can dự và hợp tác của Mỹ tạo thành một vành đai an ninh xuyên suốt từ Âu
sang Á. Một mặt Mỹ củng cố và tăng cường sức mạnh của Hiệp ước Bắc Đại
Tây Dương ở Châu Âu, mặt khác tăng cường hợp tác an ninh ở Châu Á - Thái
Bình Dương với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc,Thái Lan, Singapo, Philipin,
Úc trong đó hợp tác an ninh Nhật - Mỹ là trục chính đảm bảo cho Mỹ triển
khai thế chiến lược toàn cầu của khu vực. Mỹ đơn phương thực hiện những
biện pháp trừng phạt hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia
khác bằng biện pháp quân sự như: chiến tranh vùng Vịnh Péc-xích năm 1991,
chiến tranh tại Nam Tư năm 1999, chiến tranh Apganixtan năm 2001, chiến
tranh I-rắc năm 2003, triển khai kế hoạch phòng thủ tên lửa quốc gia...
Cùng với sức mạnh quân sự, Mỹ có sức mạnh kinh tế to lớn: chiếm 1/3
tổng sản phẩm toàn cầu; nắm hầu hết các công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế
giới, có vai trò chi phối đối với các tổ chức kinh tế tài chính - tiền tệ và

9


thương mại quốc tế lớn nhất hành tinh. Ngoài ra sức mạnh của Mỹ được thể
hiện trên các lĩnh vực, như giáo dục - đào tạo, truyền thông, công nghệ.
Tuy nhiên, khoảng thời gian mà vị thế siêu cường duy nhất của Mỹ
không có đối thủ cạnh tranh kéo dài không lâu. Nhiều biến động lớn đã diễn
ra trên thế giới và ngay chính tại nước Mỹ khiến người ta bắt đầu nói tới sự
suy yếu của Mỹ cả về kinh tế, chính trị trên vị thế siêu cường lãnh đạo toàn
cầu. Một số nguyên nhân là do các nước trên thế giới phát triển nhanh chóng
và sự trỗi dậy này là tất yếu, không thể ngăn chặn đươ ̣c, gia tăng ảnh hưởng ở

khu vực và trên toàn cầu, đe dọa vi ̣thế siêu cường của Mỹ. Ngoài ra, hậu quả
của quá trình toàn cầu hóa cũng tác động tiêu cực tới vị thế “độc tôn” của Mỹ.
Chính trị thế giới hiện nay nổi lên xu hướng hội nhập về chính trị, các
nước cùng tham gia vào các cơ chế quyền lực tập thể nhằm theo đuổi những
mục tiêu nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Một quốc gia
có thể tiến hành hội nhập chính trị quốc tế thông qua ký hiệp ước với một hay
một số quốc gia khác trên cơ sở thiết lập các mối liên kết quyền lực giữa họ
hoặc tham gia vào các tổ chức chính trị khu vực chẳng hạn như Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á, Liên minh châu Âu … hay tổ chức có quy mô toàn
cầu chẳng hạn như Liên Hiệp quốc. Tiến trình hội nhập toàn diện trong Liên
minh châu Âu đã đạt đến mức cao, biến tổ chức này trở thành một thực thể
gần giống như một nhà nước liên bang. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
như là một định chế về chính trị-an ninh ở khu vực Đông Nam Á cũng đang
tiến hành mở rộng và làm sâu sắc tiến trình hội nhập khu vực một cách toàn
diện hơn thông qua xây dựng dựa trên ba trụ cột Cộng đồng Chính trị - An
ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội. Hàng loạt các hiệp
định đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược song phương được ký kết gần
đây bao quát khá toàn diện các lĩnh vực hợp tác và liên kết giữa các bên. Nói
một cách khác, đây là dạng thức ban đầu của hội nhập an ninh - chính trị.

10


Ngoài ra, hội nhập về an ninh - quốc phòng cũng là xu hướng nổi lên
từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI các nước hội nhập phải tham gia vào các
thỏa thuận song phương hay đa phương về an ninh - quốc phòng trên cơ sở
các nguyên tắc chia sẻ và liên kết: mục tiêu chung, kẻ thù chung, tiến hành
các hoạt động chung về đảm bảo an ninh - quốc phòng… Có nhiều kiểu liên
kết an ninh - quốc phòng khác nhau, trong đó nổi lên những hình thức chủ yếu
được nhiều nước sử dụng như sau: hiệp ước phòng thủ chung, hiệp ước liên

minh quân sự song phương, các dàn xếp an ninh tập thể, các dàn xếp về an
ninh hợp tác...
Trong những thập niên cuối của thế kỉ XX và những năm đầu của thế kỉ
XXI, xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo và nạn khủng bố trở thành mối đe
doạ trực tiếp tới ổn định, hoà bình của thế giới. Nạn khủng bố ngày nay xuất
hiện ở nhiều nơi trên thế giới, với rất nhiều cách thức khác nhau như: sát hại
thủ lĩnh chính trị, bắt cóc con tin, huấn luyện và sử dụng người làm thuê vào
hoạt động khủng bố... Vụ khủng bố 11- 9 - 2001 là phát súng dạo đầu cho chủ
nghĩa khủng bố và là một trong những vụ khủng bố gây thiệt hại nhiều nhất
về tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, và quân sự của lịch sử
Hoa Kỳ cũng như những nơi khác trên thế giới. Không tặc đã cướp 4 máy bay
chở khách rồi lao thẳng vào nhiều biểu tượng lớn của nước Mỹ như Tòa tháp
đôi ở Niu Yoóc, Lầu Năm Góc. Khoảng 3000 người đã thiệt mạng trong loạt
vụ tấn công khủng khiếp mà thủ phạm được xác định là tổ chức khủng bố AlQaeda do Bin La đen cầm đầu. Sự kiện 11- 9 không chỉ tác động toàn diện
đến nước Mỹ mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống quốc tế, bắt đầu “thời
đại khủng bố và chống khủng bố” trên phạm vi toàn cầu. Năm 2011, mặc dù
trùm khủng bố Bin La đen bị tiêu diệt, tinh thần của tổ chức khủng bố khét
tiếng Al-Qaeda và các phong trào vũ trang Hồi giáo cực đoan bị giáng một
đòn nặng nề, nhưng một nhánh của Al-Qaeda, một biến thể sinh ra từ tổ chức

11


này - cái gọi là Nhà nước Hồi giáo IS tự xưng ra đời vào tháng 6-2014 còn
cực đoan hơn, nguy hiểm hơn, tinh vi hơn, có tổ chức hơn, trở thành một dạng
khủng bố kiểu mới, chưa từng có tiền lệ. Điều đáng nói ở đây là các phần tử
khủng bố đã sử dụng các thành tựu của khoa học, công nghệ để thực hiện hoạt
động khủng bố như: tấn công bằng vũ khí sinh học, chất nổ, phá hoại mạng vi
tính… đây là những mối đe dọa đối với hoà bình và ổn định trên thế giới. Để
giải quyết các vấn đề trên, cần phải có sự chung tay hợp tác tích cực giữa các

quốc gia và toàn thể cộng đồng quốc tế.
*Về kinh tế
Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh chấm dứt sự đối đầu giữa hai hệ
thống chính trị - kinh tế - xã hội, các quốc gia đặt mục tiêu phát triển kinh tế
lên hàng đầu. Nhiều quốc gia đã nhận thức được những hạn chế của cơ chế kế
hoạch hóa tập trung và đã chuyển nền kinh tế của nước mình sang nền kinh tế
thị trường. Kinh tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất làm cho quy mô sản xuất không bị bó hẹp trong phạm vi của
từng quốc gia mà mang tầm quốc tế.
Trong thời kỳ phát triển của nền kinh tế thế giới sau chiến tranh có một
xu hướng phát triển có thể dễ dàng nhận ra ngay là xu hướng hợp tác quốc tế
giữa các nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực hay trên phạm vi toàn thế
giới. Biểu hiện rõ nét nhất của xu hướng này là sự hình thành và phát triển
của những tổ chức thương mại, tổ chức kinh tế mang tính chất quốc tế. Ngoài
ra các hiệp định song phương hay đa phương giữa các chính phủ các nước
đóng vai trò quan trọng kích thích và góp phần đẩy mạnh xu hướng hội nhập
và hợp tác kinh tế quốc tế – nhân tố cơ bản của tiến trình toàn cầu hoá. Những
ví dụ cơ bản nhất cho xu hướng này có thể thấy ngay ở các tổ chức, các hiệp
hội kinh tế hay thương mại như uỷ ban Châu Âu (EEC) – tiền thân của EU,
hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với khu mậu dịch tự do

12


(AFTA) - hiệp ước chung về thuế quan và thương mại (GATT) tiền thân của
tổ chức thương mại thế giới (WTO). Ngoài ra còn có một số các tổ chức và
các diễn đàn hợp tác kinh tế khác. Mặc dù các tổ chức hay các hiệp ước kinh
tế này được lập ra với các mục đích có thể không hoàn toàn giống nhau nhưng
chúng cùng có một điểm chung là dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi
và mục đích chính là để thúc đẩy phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân

bằng cách triệt để khai thác các lợi thế so sánh và tranh thủ các nguồn lực từ
bên ngoài hay đẩy mạnh thu hút và khai thác các nguồn lực nội sinh.
Trong bối cảnh đa dạng và phức tạp của tình hình thế giới sau chiến
tranh lạnh, xuất hiện nhiều những tổ chức hợp tác, liên minh và liên kết kinh
tế khu vực và thế giới thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ
các nền kinh tế khác nhau, trong số những tổ chức, những liên minh về kinh
tế ra đời trong xu hướng chung của thời đại ấy phải kể đến Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) – ra đời trên cơ sở hiệp định chung về thuế quan và
thương mại (GATT), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) tổ chức hợp tác Á-ÂU
(ASEM). Hiệp ước các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với khu vực mậu
dịch tự do Đông Nam Á. Ngoài ra còn có các tổ chức kinh tế tài chính mang
tính chất Quốc tế khác như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới
(WB)…Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với 162 thành viên (tính đến
tháng 7 - 2016) chiếm khoảng 90% số dân, chi phối 95% hoạt động thương
mại của thế giới và có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tự do hoá thương
mại, làm cho nền kinh tế thế giới phát triển năng động hơn.
Xét về phương diện hội nhập, tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay diễn
ra ở cả cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu. Trong khi tiến trình hội
nhập đa phương trong Tổ chức Thương mại Thế giới đang trì trệ, hội nhập
song phương và khu vực đang trở thành một xu hướng nổi trội.

13


Sự nổi lên của các nước lớn đang phát triển
động của khu vực châu Á

, với sự phát triển năng


- Thái Bình Dương , đặc biệt là sự trỗi dâ ̣y của

Trung Quố c. Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước lớn có nền kinh tế
mới nổi đã duy trì được đà tăng trưởng khá cao của mình ngay cả trong giai
đoạn thế giới trải qua cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế, trở thành trụ đỡ để
ngăn tốc độ tăng trưởng kinh tế của thế giới không giảm quá sâu. Ngoài các
nhóm các nước công nghiệp phát triển G7 (gồm Mỹ, Đức, Nhật Bản, Pháp,
Anh, Italia, Canada) xuất hiện nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi
hàng đầu thế giới - G20 (gồm G7, EU, Argentina, Australia, Brasil, Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Mêxico, Nga, Ả rập saudi, Nam Phi, Hàn Quốc và
Thổ Nhĩ Kỳ) được đánh giá là trung tâm điều phối các nỗ lực quốc tế nhằm
tạo ra sự phục hồi bền vững. Thế giới sau thập niên đầu của thế kỷ XXI đang
chứng kiến quá trình hình thành trật tự kinh tế mới.
*Về văn hóa – xã hội
Giao lưu văn hóa là hoạt động không thể thiếu giữa các cộng đồng
người với nhau, những hình thức giao lưu văn hóa chủ yếu trong lịch sử như:
hoạt động trao đổi buôn bán, thương mại; các cuộc di cư lớn nhỏ; sự hòa
huyết, hôn phối giữa các tộc người; hoạt động truyền giáo; ngoại giao… Hiện
nay, bước vào thời kỳ toàn cầu hóa, giao lưu văn hóa được thực hiện với
những sắc thái mới dựa vào các thành tựu của toàn cầu hóa: phân công lao
động toàn cầu, công nghệ thông tin và mạng viễn thông không dây toàn cầu.
Ở đây các phương tiện giao thông vận tải và công nghệ truyền thông hiện đại
cho phép chuyển giao những khối lượng lớn của giá trị vật chất và tinh thần
khổng lồ vượt qua những khoảng cách lớn, trong một khoảng thời gian ngắn
hơn nhiều.
Những trở ngại về không gian và thời gian đối với giao lưu văn hóa
ngày càng bị thu hẹp. Nhờ vậy mà các dân tộc và những nền văn hóa khác

14



nhau trên thế giới ngày càng thường xuyên tiếp xúc với nhau. Tần số hấp thu
cũng không ngừng gia tăng đối với từng cá thể. Giao lưu và hội nhập văn hóa
trên thế giới hiện nay đang diễn ra trên qui mô lớn hơn bao giờ hết. Những
hoạt động trao đổi kinh tế, mậu dịch, đầu tư quốc tế, trao đổi văn hóa, học
thuật trên phạm vi quốc tế và làn sóng di dân đã mở rộng hơn nữa diện giao
lưu. Do đó, nếu như trước kia giao lưu văn hóa chỉ mang tính lẻ tẻ, bộ phận
nằm trong khuôn khổ tự phát, thẩm thấu một cách tự nhiên, thì nay nó đã
mang một tầm cao mới với tính toàn thể, phát triển từ qui mô quốc gia đến qui
mô khu vực và qui mô toàn cầu.
Kết quả của những giao lưu văn hóa mang tính đa phương và đa
khuynh hướng như vậy đang hình thành nên một hệ giá trị và vật thể văn hóa
chung cho tất cả các nền văn hóa trên trái đất. Có nhiều nhà học giả gọi đó
là nền văn hóa toàn cầu hay văn minh toàn cầu.
Hiện nay, giao lưu văn hóa toàn cầu đang hiện hữu dưới nhiều hình
thức khác nhau, từ phân công lao động quốc tế cho đến thị trường tài chính
toàn cầu, Nhưng đặc trưng nhất của trong số các hình thái giao lưu của toàn
cầu hóa phải kể đến: thị trường toàn cầu hóa các ấn phẩm văn hóa; giao lưu
văn hóa qua internet; các hệ thống truyền thông đại chúng. Một biểu hiện mới
của giao lưu văn hóa làm xúc tiến các hoạt động kinh tế trong giai đoạn cuối
thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đó là thực tiễn của các công ty xuyên quốc gia. Để
có thể điều hành tốt quá trình đàm phán kinh doanh, nghiên cứu thị trường các
công ty phải thiết lập được cầu giao tiếp liên văn hóa giữa các đối tác nằm
trên các vùng lãnh thổ khác nhau của địa cầu. Từ trên những hiểu biết thu
được từ giao lưu văn hóa mà các công ty hoạch định chính sách, chiến lược
kinh doanh về sản phẩm, cũng như cách quản lý nhân lực sau cho phù hợp với
từng khu vực mà công ty của họ đầu tư. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử
một cấp độ liên kết văn hóa mới cao hơn đã xuất hiện. Nó lấy không gian toàn

15



cầu làm địa bàn tương tác mà không phải từng khu vực văn hóa riêng lẻ như
trước kia.
Trong những năm qua, ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới đã xảy
ra những cuộc xung đột, trong đó có một số cuộc xung đột liên quan đến dân
tộc, tôn giáo hoặc xen lẫn cả dân tộc và tôn giáo, như: xung đột giữa những
cộng đồng Hồi giáo theo dòng Sunni và Shiite hay các dòng khác nhau ở
trong một quốc gia như: Syria, Iraq; giữa một số quốc gia Ả-rập, các nước
Hồi giáo với nhau và với Do Thái giáo ở Israel; giữa Hồi giáo và Công giáo ở
Philippines, Indonesia; giữa Hồi giáo và Phật giáo ở miền Nam Thái Lan,
Myanmar... Ngoài ra, một số tổ chức đang có xu hướng lợi dụng dân tộc, tôn
giáo để thực hiện mưu đồ chính trị. Các cuộc xung đột dân tộc, tôn giáo
thường rất phức tạp, kéo dài và khó giải quyết do liên quan đến lịch sử, dân
tộc, đạo đức, truyền thống tôn giáo... có khi ở một vùng miền, một quốc gia
hay liên quan đến nhiều quốc gia; mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc, tôn
giáo ngày càng tăng, trở thành nhân tố gây mất ổn định ở nhiều nơi.
Dù là cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc hay đan xen luôn là mối quan
tâm, lo lắng của mọi người và làm cho lãnh đạo nhiều tổ chức quốc tế cũng
như quốc gia trên thế giới đau đầu. Tất cả các cuộc xung đột từ trước đến nay
đều để lại những hậu quả rất nặng nề, thậm chí biến thành những cuộc chiến
tranh kinh hoàng kéo dài nhiều năm. Biết bao dân thường vô tội ở nhiều nơi
luôn phải sống trong tình trạng căng thẳng, lo âu, sợ hãi. Để giải quyết xung
đột, việc tìm ra những nguyên nhân nhằm có giải pháp đúng đắn nhất, giải
quyết có hiệu quả nhất là nhiệm vụ quan trọng. Trong số các nguyên nhân thì
đáng chú ý đến nguyên nhân về sắc tộc, tôn giáo, như: một bộ phận người
thiểu số theo một tôn giáo với số ít tín đồ trong một quốc gia mà đa số người
theo một tôn giáo khác lại nắm quyền cai trị nên gây ra sự bất bình của cộng
đồng sắc tộc, tôn giáo đối lập. Cũng có trường hợp do không chịu sự thống trị


16


của chính quyền đương thời nên đã xuất hiện những cuộc đấu tranh đòi ly
khai…tất cả đều là những nguyên nhân gây nên xung đột.
Sau công cuộc cách mạng công nghiệp, nền kinh tế thế giới phát triển
với tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kì của nhiều nước. Nhưng mọi vấn đề đều
luôn có mặt trái của nó. Nhân loại cũng đang đứng trước nhiều vấn nạn xã hội
cần phải quan tâm. Thế giới đang phải gồng mình đối mặt với những nguy cơ
toàn cầu như: biến đổi khí hậu, thiên tai, dân số, vũ khí hạt nhân...
Dân số thế giới tăng nhanh, nhất là ở nửa sau của thế kỉ XX. Dự báo
dân số sẽ tăng trên 9 tỷ người vào năm 2050, chủ yếu tăng ở khu vực cận
Sahara châu Phi. Dân số thế giới đang có xu hướng già đi. Trong cơ cấu theo
độ tuổi, tỉ lệ người dưới 15 tuổi ngày càng thấp, tỉ lệ người trên 65 tuổi ngày
càng cao và tuổi thọ dân số thế giới ngày càng tăng.
Cùng với quá trình gia tăng dân số là quá trình đô thị hóa. Năm 1970,
chỉ có khoảng 1,3 tỷ người (36% dân số) sống ở đô thị. Đến nay, dân số đô thị
chiếm 54%. Dự báo đến 2025 sẽ có thêm khoảng 1 tỷ người sống ở đô thị,
chủ yếu ở châu Á. Đô thị chiếm 70% lượng khí nhà kính phát thải. Đô thị
cũng là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, như gia tăng về
cường độ sóng nhiệt, tăng lượng mưa, ngập lụt, sạt lở đất, ô nhiễm, hạn hán.
Dân số và môi trường là hai yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự
biến động của dân số có tác động đến môi trường. Tình trạng ô nhiễm môi
trường đang là vấn đề nóng của dư luận. Nhiệt độ trung bình của Trái Đất
hiện nay đang ngày càng tăng thêm.
Một trong những hệ quả tất yếu của sự gia tăng nhiệt độ của trái đất là
sự gia tăng mực nước biển, gia tăng cường độ các cơn bão và các hiện tượng
thời tiết cực đoan, lỗ thủng tầng ôzôn, thay đổi ngành nông nghiệp, và làm
suy giảm axit trong đại dương, hàng triệu tấn chất thải rắn đổ ra biển mỗi năm
gồm đất, cát, rác thải, phế liệu xây dựng, chất phóng xạ...Sức ép lớn tới tài


17


nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất do khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên phục vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản
xuất công nghiệp.
Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp
hoá và các nước đang phát triển gia tăng, dẫn đến sự nghèo đói ở các nước
đang phát triển và sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hoá. Sự chênh
lệch ngày càng tăng giữa đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển công
nghiệp và các nước kém phát triển dẫn đến sự di dân ở mọi hình thức.
Sự gia tăng dân số đô thị và sự hình thành các thành phố lớn - siêu đô
thị làm cho môi trường khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng.
Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự phát
triển dân cư. Ô nhiễm môi trường không khí, môi trường nước tăng lên. Các
tệ nạn xã hội và vấn đề quản lý xã hội trong đô thị ngày càng khó khăn.
Trong những thập niên cuối của thế kỉ XX và những năm đầu của thế kỉ
XXI, xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo và nạn khủng bố trở thành mối đe
doạ trực tiếp tới ổn định, hoà bình của thế giới. Nạn khủng bố ngày nay xuất
hiện ở nhiều nơi trên thế giới, với rất nhiều cách thức khác nhau như: sát hại
thủ lĩnh chính trị, bắt cóc con tin, huấn luyện và sử dụng người làm thuê vào
hoạt động khủng bố... Điều cực kì nguy hiểm là các phần tử khủng bố đã sử
dụng các thành tựu của khoa học, công nghệ để thực hiện hoạt động khủng bố
(tấn công bằng vũ khí sinh học, chất nổ, phá hoại mạng vi tính…). Bên cạnh
khủng bố, hoạt động kinh tế ngầm (buôn lậu vũ khí, rửa tiền...), tội phạm liên
quan đến sản xuất, vận chuyển, buôn bán ma tuý... cũng là những mối đe dọa
đối với hoà bình và ổn định trên thế giới. Để giải quyết các vấn đề trên, cần
phải có sự hợp tác tích cực giữa các quốc gia và toàn thể cộng đồng quốc tế.


18


1.2. Tiền đề khoa học công nghệ và tiền đề lý luận
1.2.1. Tiền đề khoa học công nghệ
Một vài thập kỷ vừa qua, thế giới đã chứng kiến những bước nhảy vọt
trong sự phát triển của khoa học và công nghệ. Điều này đã thực sự thúc đẩy
sự gia tăng của cải vật chất, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng ngày càng cao của con người. Khoa học và công nghệ đã trực tiếp
tác động nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động, giảm chi
phí, giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất xám
trong cấu tạo sản phẩm.
Về công nghệ sinh học, việc khám phá ra cấu trúc AND giúp hiểu biết
được mật mã của sự sống là bước ngoặt trong lịch sử sinh học. Đặc biệt vào
năm 2000 nhóm nhà khoa học Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc và Nhật Bản
đã hoàn thành công trình giải mã bộ gen người, giúp khám phá cơ chế hoạt
động của sự sống, qua đó tìm cách khắc phục các loại bệnh tật. Bản phác thảo
đầy đủ đầu tiên về bản đồ bộ gen người - một trong những sự kiện lớn nhất có
tầm vóc đột phá lịch sử khoa học của con người. Ngoài ra các nhà khoa học
Mỹ và Nhật Bản tuyên bố đã thành công trong việc tạo ra tế bào gốc từ da
người - một bước đột phá trong y học - mở ra khả năng tạo tế bào gốc với mã
gen cụ thể của cá nhân để chữa các bệnh nan y và loại trừ nguy cơ thải ghép.
Công nghệ sinh học ngày nay đã cho phép phát hiện, chẩn đoán nhiều
loại bệnh ở mức phân tử; sản xuất nhiều loại thuốc và vác xin mới an toàn
hơn; sản xuất nông nghiệp với sản lượng tăng, chi phí giảm, chất lượng môi
trường và sức khỏe con người được cải thiện; sản xuất thực phẩm với chất
lượng dinh dưỡng cao, không bị hư hỏng, không gây dị ứng... Nhiều công
nghệ liên quan hiện đang được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu và phát
triển công nghệ sinh học. Những ứng dụng công nghệ nano vào lĩ11nh vực
khoa học sự sống và công nghệ sinh học dẫn đến sự hình thành một lĩnh vực


19


khoa học và công nghệ mới như khoa học về sự sống ở kích thước nano và
công nghệ sinh học nano. Rất nhiều sản phẩm của ngành khoa học mới mẻ
này như hạt nano, cảm biến sinh học, microarray đã được nghiên cứu và sử
dụng rộng rãi trong các lĩnh vực y dược, sinh học, các ngành công nghiệp
thực phẩm và nông nghiệp.
Lĩnh vực công nghệ thông tin chứng kiến những tiến bộ phi thường,
đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa. Với hệ thống
các phương tiện và kỹ thuật thông tin hiện đại, cách mạng thông tin toàn cầu
như điện thoại, fax, internet… mối liên hệ qua lại và giao dịch giữa các cá
nhân và doanh nghiệp ở mọi nơi trên thế giới trở nên nhanh chóng, thường
xuyên và thuận tiện với chi phí ngày càng giảm dần; biên giới giữa các quốc
gia trên nhiều phương diện đã và đang bị xóa mờ. Sự biến đổi trong lĩnh vực
thông tin, đặc biệt đã biến thông tin trở thành một thứ hàng hóa, truyền thông
trở thành một trong những ngành công nghiệp hàng đầu trên thế giới. Nhờ vào
công nghệ thông tin, thương mại điện tử ra đời và phát triển ngày càng mạnh
mẽ. Nhờ vào công nghệ thông tin, phương thức tổ chức và quản lý sản xuất –
kinh doanh đã thay đổi vô cùng nhanh chóng.
Lĩnh vực khoa học vũ trụ, chứng kiến nhiều thành tựu vĩ đại trong công
cuộc khám phá không gian, chúng ta được ngắm những hình ảnh rõ, đẹp từ
các hành tinh thông qua tàu vũ trụ. Năm 2003, Trung Quốc phóng thành công
tàu vũ trụ Thần Châu 5 do nhà du hành Dương Lợi Vĩ điều khiển. Năm 2004,
các rôbốt tự hành Spirit và Opportunity của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ
thực hiện nhiều cuộc nghiên cứu khoa học trên Sao Hỏa. Với sự kiện này,
Trung Quốc trở thành quốc gia thứ ba đưa được con người ra ngoài bầu khí
quyển trái đất, sau Liên bang Xô Viết trước đây và Mỹ.
Trong những năm gần đây người ta đề cập đến một từ khóa mới

là "Công nghiệp 4.0" bắt đầu nổi lên xuất phát từ một báo cáo của chính phủ

20


×