Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.26 KB, 9 trang )

CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ Ở NGƯỜI BỆNH SAU PHẪU THUẬT Ổ BỤNG
TẠI KHOA NGOẠI TIÊU HÓA, BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG THÁI
NGUYÊN NĂM 2017
LÊ THỊ VÂN1, ĐOÀN THỊ NGA
TÓM TẮT
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 96 người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng tại khoa Ngoại
Tổng hợp bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên về chất lượng giấc ngủ với mục tiêu:
Đánh giá chất lượng giấc ngủ ở người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng tại khoa Ngoại Tổng
hợp, bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên năm 2017. Kết quả: chất lượng giấc ngủ
của người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng ở mức độ kém nhưng cận trung bình (249,58 ±
91,20/500). Kết luận: thực trạng chất lượng giấc ngủ của người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng
ở mức độ kém nhưng cận trung bình.
Từ khóa: giấc ngủ, chất lượng giấc ngủ.
ABSTRACT
A cross-sectional study was conducted on 96 patients after abdominal surgery at Thai
Nguyen Central General Hospital for quality of sleep with the aim: assessing the quality of
sleep in patients after abdomen surgery at General Surgery, Thai Nguyen Central General
Hospital in 2017. Results: The quality of sleep after abdominal surgery was low but near
the average (249.58 ± 91.20 / 500). Conclusion: The quality of sleep the patients after the
abdominal surgery is low but near moderate.
Key words: sleep, sleep quality.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật ổ bụng là một phẫu thuật rất phổ biến. Khảo sát tại Hoa Kỳ cho thấy phẫu
thuật liên quan đến hệ thống tiêu hóa là một trong ba phẫu thuật thường gặp nhất [7]. Ở Việt
Nam, phẫu thuật ổ bụng chiếm 30% tổng số các loại phẫu thuật tại thành phố Hồ Chí Minh,
tại bệnh viện đa khoa Đồng Tháp chiếm 36,9% [9].
Thống kê cho thấy, người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng sẽ xuất hiện các triệu chứng
khó chịu như đau, buồn nôn, nôn, lo lắng, mệt mỏi…[6]. Trong số các vấn đề sau phẫu
thuật đó, chất lượng giấc ngủ kém xảy ra rất phổ biến với 89% người bệnh trong giai đoạn
sau phẫu thuật có rối loạn giấc ngủ [8].
1




Nhiều bằng chứng khoa học đã chỉ ra, trong giai đoạn sau phẫu thuật, chất lượng giấc
ngủ kém có thể gây ra rất nhiều rối loạn về thể chất và tâm thần như dẫn đến mệt mỏi, mất
tập trung, trầm cảm, tăng lo lắng, khó chịu, tăng đau đớn, ức chế miễn dịch, chán ăn, táo
bón, và thiếu sự tỉnh táo vào ban ngày [4],[10]. Như vậy có thể thấy nâng cao chất lượng
giấc ngủ, phục hồi giấc ngủ tốt cho người bệnh sau phẫu thuật bụng là nhu cầu rất lớn
trong chăm sóc điều dưỡng.
Việc chăm sóc và nâng cao chất lượng giấc ngủ cho người bệnh là một trong những
vấn đề mà người điều dưỡng cần quan tâm. Tuy nhiên tại Việt Nam, tác giả chưa tìm thấy
nhiều tài liệu nghiên cứu về chất lượng giấc ngủ của người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng. Vì
vậy, nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu: Đánh giá chất lượng giấc ngủ ở người
bệnh sau phẫu thuật ổ bụng tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện đa khoa Trung ương Thái
Nguyên năm 2017.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng
* Tiêu chuẩn lựa chọn
+ Người bệnh >= 18 tuổi, đồng ý tham gia nghiên cứu.
+ Người bệnh sau phẫu thuật 3 ngày đầu được theo dõi và điều trị tại khoa.
+ Không có tiền sử rối loạn thần kinh hoặc tâm thần.
+ Có khả năng giao tiếp, đọc và hiểu tiếng Việt và sẵn sàng tham gia nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Người bệnh không đồng ý tham gia nghiên cứu.
+ Người bệnh có chấn thương sọ não kèm theo.
+ Sau phẫu thuật bất tỉnh, hôn mê hoặc mê sảng.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu.
- Thời gian: tháng 02/2017 – 06/2017.
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
2.3. Thiết kế nghiên cứu

- Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu:
a) Cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính theo công thức ước tính một tỷ lệ


n Z2 / 2

p (1  p)
d2

Trong đó:
α: là mức có ý nghĩa thống kê, chọn α = 0,05.
Z2α/2: ở đây Z(0,05/2) = 1,96.
p = 0,478 (tỷ lệ người bệnh có chất lượng giấc ngủ kém theo nghiên cứu của Nguyễn
Thị Trường Xuân, 2013).
d: là sai số cho phép, chọn tỉ lệ này là 10%.
Cỡ mẫu trong nghiên cứu: n = 96 người bệnh.
b) Phuơng pháp chọn mẫu
Vì lưu lượng người bệnh phẫu thuật ổ bụng tại khoa khoảng 25 - 35 người
bệnh/tháng. Do đó, để đủ mẫu chúng tôi sẽ chọn mẫu thuận tiện.
2.5. Phương pháp thu thập số liệu
* Công cụ thu thập số liệu
Phiếu thông tin người bệnh được phát triển bởi nghiên cứu viên.
Bộ công cụ đánh giá chất lượng giấc ngủ Richard-Campbell Sleep Questionnaire
(RCSQ) được phát triển bởi Richards (1987a). Bộ công cụ này gồm 5 mục câu hỏi ngắn.
Mỗi câu hỏi trong RCSQ được tính trên thang điểm 100mm. Điểm trung bình của 5 câu
hỏi được gọi là "tổng số điểm, đại diện cho chất lượng giấc ngủ nói chung. 0 là giấc ngủ
kém nhất và 500 là giấc ngủ tối ưu hay giấc ngủ rất tốt, số điểm mà ít hơn 250 là giấc ngủ
kém.

* Tiến hành nghiên cứu
Tất cả các dữ liệu được thu thập bằng cách phỏng vấn người bệnh (nhà nghiên cứu sẽ
đọc các câu hỏi, hướng dẫn, giải thích rõ ràng để giúp người bệnh lựa chọn câu trả lời) và
tham khảo hồ sơ bệnh án sau khi được sự chấp thuận của bệnh viện.
Vào sáng (8h – 11h) hẫu phẫu ngày thứ 2, 3, 4 gặp người bệnh để thu thập số liệu
bao gồm chất lượng giấc ngủ. Người nghiên cứu sẽ phỏng vấn người bệnh và giải thích
làm thế nào để họ có thể hoàn thành tất cả các mục trong bảng câu hỏi.
Trường hợp người bệnh phẫu thuật về phòng bệnh lúc 23h trở đi thì người nghiên
cứu đo chất lượng giấc ngủ ở đêm kế tiếp.
Các thông tin cần thiết khác như chẩn đoán, loại phẫu thuật, thời gian phẫu thuật… lấy
từ hồ sơ bệnh án của người bệnh vào 8h - 10h ngày thứ hai sau phẫu thuật.


Sau khi có toàn bộ thông tin, nhà nghiên cứu sẽ kiểm tra toàn bộ dữ liệu, các số liệu
được mã hóa, nhập vào một bảng tính và máy tính chuẩn bị cho việc phân tích dữ liệu.
2.6. Các biến số nghiên cứu.
Thông tin nhân khẩu học
Thông tin về phương pháp điều trị và chăm sóc
Chất lượng giấc ngủ sau phẫu thuật
2.7. Phương pháp phân tích số liệu
Dữ liệu được nhập và phân tích sử dụng phần mềm phân tích dữ liệu SPSS 18.0.
Các số liệu thống kê mô tả được sử dụng để mô tả đặc điểm của người bệnh, thông
tin về điều trị và chăm sóc, mức độ chất lượng giấc ngủ. Trong đó: chất lượng giấc ngủ
được mô tả sử dụng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn (tức là trung bình cộng của 3 đêm
sau phẫu thuật).
KẾT QUẢ
1. Đặc điểm nhân khẩu học
Bảng 1. Đăc điêm nhân khâu hoc (n =96)
Đặc điểm nhân
khẩu học

Tuổi
18 – 35
36 – 55
> =56
Giới tính
Nam
Nữ
Nghề nghiệp
Tự do
Nhân viên văn phòng
Công nhân
Nông dân
Nghề nghiệp khác
Trình độ học vấn
Giáo dục phổ thông
Cao đẳng, đại học hoặc
cao hơn
Tình trạng hôn nhân
Độc thân
Kết hôn
Mất vợ/chồng
Ly hôn

Tần suất

Tỉ lệ (%)

31
32
33


30,1
31,1
32

53
43

55,2
44,8

39
5
13
36
3

40,6
5,2
13,5
37,5
3,1

79
17

82,3
17,7

5

85
5
1

5,2
88,5
5,2
1

Range

M

SD

19-85

48.15

17.94


Bảng 1 cho thấy độ tuổi trung bình ở người bệnh phẫu thuật ổ bụng gặp nhiều ở độ
tuổi trung niên (48,15 ± 17,94), không có sự chênh lệch nhiều giữa các nhóm tuổi: 18 – 35
chiếm 30,1%, độ tuổi 36 – 55 chiếm 31,1 %, độ tuổi > 55 chiếm 32%. Nam giới chiếm
55,2% gặp nhiều hơn nữ giới (chiếm 44.8%). Về nghề nghiệp, tự do chiếm nhiều nhất
40.6%, tiếp theo là nông dân chiếm 37,5%. Về trình độ văn hóa, 82,3% người bệnh hoàn
thành giáo dục phổ thông. Phần lớn người bệnh đã kết hôn chiếm 88,5%.
2. Đặc điểm về bệnh và phương pháp điều trị
Bảng 1. Đăc điêm vê bênh va phương phap điêu tri (n=96)

Đặc điểm về bệnh và phương pháp
điều trị
Nơi phẫu thuật
Phẫu thuật đường ruột
Phẫu thuật gan, mật.
Phẫu thuật lá lách
Phẫu thuật tụy
Phẫu thuật dạ dày – tá tràng
Tình trạng giấc ngủ trước khi vào viện
Rất tốt
Tốt
Bình thường
Kém
Tiền sử phẫu thuật
Chưa phẫu thuật
Phẫu thuật 1 lần
Phẫu thuật >=2 lần
Loại phẫu thuật
Phẫu thuật cấp cứu
Phẫu thuật chương trình
Phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật nội soi
Phẫu thuật mở
Thời gian phẫu thuật
1- 2 giờ
>2 – 3 giờ
>3 giờ
Thuốc giảm đau, an thần
Giảm đau
An thần

24h sau phẫu thuật
Paracetamol
Seduxen
48h sau phẫu thuật

Tần suất
(n)

Tỷ lệ
(%)

65
16
2
1
12

67,7
16,7
2,1
1
12,5

6
37
47
6

6,3
38,4

49
6,3

85
9
2

88,5
9,4
2,1

73
23

76
24

73
23

76
24

74
17
5

77,1
17,7
5,2


93
4

96,9
4,2

93
4

96,9
4,2


Paracetamol
72h sau phẫu thuật
Paracetamol

73

78,5

29

30,2

Bảng 2 cho thấy phẫu thuật đường ruột là chủ yếu chiếm 67,7%, tiếp theo là phẫu
thuật gan mật chiếm 16,7%. Phần lớn người bệnh trước khi vào viện đều có giấc ngủ bình
thường (49%), người bệnh có giấc ngủ kém chiếm tỉ lệ thấp 6.3%. Hầu hết người bệnh
chưa có tiền sử phẫu thuật chiếm 88,5%. Loại phẫu thuật phần lớn là mổ cấp cứu và

phương pháp phẫu thuật là phẫu thuật nội soi đều chiếm 76%. Thời gian phẫu thuật kéo dài
1-2 giờ là chủ yếu chiếm 77,1%. Hầu hết người bệnh sau phẫu thuật ngày đầu tiên đều
được dùng thuốc giảm đau (96,9%) và có 4,2% người bệnh sau phẫu thuật phải dùng thuốc
an thần. Ngày thứ 2 sau phẫu thuật người bệnh dùng thuốc giảm đau là chiếm 78,5%, ngày
thứ 3 tỉ lệ người bệnh dùng thuốc là thấp nhất chiếm 30,2%. Thuốc an thần chỉ dùng ngày
đầu sau phẫu thuật chiếm 4,2%.
3. Thực trạng chất lượng giấc ngu
Bảng 3. Chât lương giâc ngu cua ngươi bênh (n = 96)
Chất lượng giấc ngu

X±SD
500
202,39 ± 90,64

Phân loại
mức độ
Kém

Chất lượng giấc ngủ đêm 1
Chất lượng giấc ngủ tốt
Chất lượng giấc ngủ kém
Chất lượng giấc ngủ đêm 2
246,43 ± 95,83
Kém
Chất lượng giấc ngủ tốt
Chất lượng giấc ngủ kém
Chất lượng giấc ngủ đêm 3
299,92 ± 94,32 Trung bình
Chất lượng giấc ngủ tốt
Chất lượng giấc ngủ kém

Chất lượng giấc ngủ (Total)
249,58 ± 91,20
Kém
Bảng 3 cho thấy chất lượng giấc ngủ trung bình của người bệnh sau

Tần
số

%

35
61

36,5
63,5

51
45

53,1
46,9

69
27

71,9
29,1

phẫu thuật ổ


bụng ở mức độ kém (249,58 ± 91,20/500). Chất lượng giấc ngủ kém xảy ra ở đêm đầu tiên
và đêm thứ 2 sau phẫu thuật (202,39 ± 90,64/500; 246,43 ± 95,83/500) trong đó đêm đầu
tiên chất lượng giấc ngủ tốt chiếm 36,50%, chất lượng giấc ngủ kém chiếm 63,50%; đêm
thứ 2 chất lượng giấc ngủ tốt chiếm 53,10%, ngủ kém chiếm 46,90%.
Chất lượng giấc ngủ ở đêm thứ 3 sau phẫu thuật đạt mức trung bình (299,92 ± 94,32)
trong đó ngủ tốt chiếm 71,90 %, ngủ kém chiếm 29,1%.
BÀN LUẬN


1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu
Người bệnh phẫu thuật ổ bụng gặp nhiều ở độ tuổi trung niên (48,15 ± 17,94), không
có sự chênh lệch nhiều giữa các nhóm tuổi: 18 – 35 chiếm 30.1%, độ tuổi 36 – 55 chiếm
31,1 %, độ tuổi > 55 chiếm 32%. Nam giới chiếm 55,2% gặp nhiều hơn nữ giới (chiếm
44,8%). Nam giới chiếm 55,2% gặp nhiều hơn nữ giới (chiếm 44,8%). Kết quả này được
giải thích là do người trung niên thường gặp nhiều vấn đề về sức khỏe hơn người trẻ tuổi.
Nam giới gặp nhiều hơn nữ giới, kết quả này tương tự nghiên cứu của Nguyễn Thị Trường
Xuân, 2014 .
2. Đặc điểm về bệnh và phương pháp điều trị
Phẫu thuật đường ruột là chủ yếu chiếm 67.7%. Loại phẫu thuật phần lớn là mổ cấp
cứu chiếm 76% và phương pháp phẫu thuật chủ yếu là phẫu thuật nội soi chiếm 76%. Thời
gian phẫu thuật kéo dài 1 -2 giờ là chủ yếu chiếm 77.1%. Kết quả này được giải thích là do
người bệnh trong nghiên cứu chủ yếu là mổ cấp cứu và phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa, thứ
hai là phẫu thuật nội soi cắt túi mật nên thời gian phẫu thuật trung bình 1-2 giờ.
Hầu hết người bệnh sau phẫu thuật ngày đầu tiên đều được dùng thuốc giảm đau
(96.9%) và có 4.2% người bệnh sau phẫu thuật phải dùng thuốc an thần. Kết quả được giải
thích là do người bệnh mổ ổ bụng thường gây mê nội khí quản. Thuốc mê thường được
đào thải sau 6 giờ nên khi hết thuốc mê người bệnh thường đau nhiều, một số người bệnh
khó ngủ cần sử dụng thuốc an thần chủ yếu trên người cao tuổi và người bệnh phẫu thuật
lớn đau nhiều. Ngày thứ 2 sau phẫu thuật người bệnh dùng thuốc giảm đau là chiếm
78.5%, ngày thứ 3 tỉ lệ người bệnh dùng thuốc là thấp nhất chiếm 30.2% vì đau sẽ giảm

dần trong 3 ngày đầu phẫu thuật. Và người bệnh chủ yếu phẫu thuật nội soi nên mức độ
đau thường ở mức trung bình hoặc đau nhẹ.
3. Chất lượng giấc ngủ
Chất lượng giấc ngủ ở mức độ kém (249,58 ± 91,20/500) nhưng cận mức trung bình
là 250. Kết quả này được giải thích là do người bệnh trằn trọc khó ngủ, bị gián đoạn giấc
ngủ vào ban đêm, thức giấc vào đêm và khi thức giấc thì khó ngủ lại.
Chất lượng giấc ngủ kém xảy ra ở đêm đầu tiên (202,39 ± 90,64/500) và đêm thứ 2
sau phẫu thuật (246,43 ± 95,83/500). Chất lượng giấc ngủ ở đêm thứ 3 sau phẫu thuật đạt
mức trung bình (299,92 ± 94,32/500). Điều này được giải thích là do đêm đầu tiên vừa trải
qua phẫu thuật, sức khỏe yếu nên người bệnh thường khó thích nghi được với môi trường
bệnh viện hoặc một phần do quá đau dẫn tới việc họ mất nhiều thời gian mới đi vào giấc


ngủ được và do đau sau phẫu thuật nên người bệnh dễ bị thức giấc và khó ngủ lại. Đêm thứ
hai và thứ ba thì người bệnh dần quen với môi trường bệnh viện và lúc này đau cũng giảm
dần nên người bệnh dễ đi vào giấc ngủ hơn, ít tỉnh giấc giữa đêm hơn và khi tỉnh giấc
người bệnh cũng dễ ngủ lại hơn đêm đầu tiên. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế
chung của hầu hết người bệnh. Khi nằm viện, nhất là sau trải qua một cuộc phẫu thuật,
người bệnh phải đối mặt với nhiều thay đổi như môi trường, thói quen giấc ngủ...dẫn đến
khó ngủ và hay tỉnh giấc giữa đêm, và khó ngủ lại khi tỉnh giấc.
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Trường Xuân, 2013 việc chỉ ra
rằng chất lượng giấc ngủ kém xảy ra ở 90 người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng (206.65 ±
47.80) và nghiên cứu của Phùng Văn Lợi, 2014 cho thấy chất lượng giấc ngủ ở người
bệnh sau phẫu thuật ổ bụng ở mức trung bình sau 72 phẫu thuật (73.45 ± 10.02) . Một
nghiên cứu khác cho thấy 42% người bệnh phàn nàn về giấc ngủ sau phẫu thuật và có 23%
trường hợp có chất lượng giấc ngủ không đạt yêu cầu cho đến ngày thứ 4 (Chouchou et al,
2014) . Nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Long, 2010 cũng cho thấy giấc ngủ là triệu chứng
có vấn đề trong suốt 3 ngày đầu sau phẫu thuật ổ bụng [5].
KẾT LUẬN
Chất lượng giấc ngủ trung bình của người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng ở mức độ kém

(249.58 ± 91.20/500). Chất lượng giấc ngủ kém xảy ra ở đêm đầu tiên và đêm thứ 2 sau
phẫu thuật (202.39 ± 90.64; 246.43 ± 95.83). Chất lượng giấc ngủ ở đêm thứ 3 sau phẫu
thuật đạt mức trung bình (299.92 ± 94.32).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phùng Văn Lợi và cộng sự (2014). Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng giấc ngủ của
người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, Tạp
chí Y học Thực hành, 941 (11), 54.
2. Nguyễn Thị Trường Xuân (2013). Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ
của người bệnh phẫu thuật bụng trong giai đoạn hậu phẫu tại bệnh viện đa khoa tỉnh
Bình Dương, Tạp chí Y Học Thành phố Hồ Chí Minh, 18(5), 113-117.
3. Chouchou F et al. (2014). Postoperative sleep disruptions: A potential catalyst of acute
pain, Sleep Medicine Reviews, 18(3), 273 - 282.
4. Dogan O et al (2005). Sleep quality in hospitalized patients, Journal of Clinical
Nursing, 14(1), 107-131.


5. Long NH (2010). Factors related to postoperative symptoms among patients
undergoing abdominal surgery, Master’s thesis, Adult nursing, Faculty of Nursing Forum,
Burapha University.
6. Mei W et al (2009). Independent risk factors for postoperative pain in need for
intervention early after awakening from general anaesthesia, European Journal of Pain,
14(2), 1-7.
7. Nunoo–Mensah J et al (2009). Prevalence of intra-abdominal surgery: What is an
individual‘s lifetime risk, Southern Medical Journal, 102(1), 25-29.
8. Schulz P et al (2009). Symptom management strategies used by elderly patients after
coronary artery bypass surgery, Applied Nursing Research, 24(2), 65-73.
9. Ta L and Nguyen C (2010). Construction of surgery disease of general hospital‘s Dong Thap
from 2003 to 2007, Y hoc TP. Ho Chi Minh, 14(1), 77-82.
10. Tranmer J. E et al. (2003). The sleep experience of medical and surgical patients,
Clinical Nursing Research, 12(2), 159-173.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×