Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nghiên cứu sự phát triển thể lực chuyên môn và kỹ thuật của vận động viên nam u17 đội tuyển bóng đá thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.26 KB, 90 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, con người vừa là mục tiêu giáo dục vừa là động lực phát
triển kinh tế xã hội vì giáo dục đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát
triển. Đánh giá được tầm quan trọng của công tác huấn luyện thể thao, ngày 1
tháng 12 năm 2011 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
ra Nghị Quyết 08 NQ/TW với mục tiêu. Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức,
đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thể dục, thể thao; tăng
cường cơ sở vật chất, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ làm nền tảng
phát triển mạnh mẽ và vững chắc sự nghiệp thể dục thể thao; đến năm 2020,
phấn đấu 90% học sinh, sinh viên đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể; các
trường học, xã, phường, thị trấn, khu công nghiệp có đủ cơ sở vật chất thể
dục, thể thao phục vụ việc tập luyện của nhân dân; trình độ một số môn thể
thao trọng điểm được nâng cao ngang tầm Châu Á và thế giới; bảo đảm các
điều kiện để sẵn sàng đăng cai tổ chức thành công các sự kiện thể thao lớn
của Châu Á và thế giới.
Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, văn hóa, xã
hội. Thể thao Việt Nam cũng có những bước tiến khởi sắc rất đáng khích lệ.
Trước tiên phải kể đến thể thao thành tích cao, một bộ phận cấu thành của thể
thao Việt Nam, với việc lãnh đạo ngành TDTT đã lập ra đội tuyển ở các môn
để tham gia thi đấu, giao hữu ở các giải quốc tế, tham gia đều đặn và đạt được
những thành tích đáng kể ở các kỳ Olympic, Sea Games. Thành tích của đoàn
thể thao Việt Nam tại các đại hội thể thao Đông Nam Á đã tuần tự tăng lên mà
đỉnh cao là ngôi đầu trên bảng xếp hạng toàn đoàn với 158 HCV tại SEA
Games 22 mà Việt Nam là nước chủ nhà đăng cai tổ chức năm 2003. Bên
cạnh đó, thể thao quần chúng được mở rộng trong các đối tượng và địa bàn
với nhiều hình thức phong phú, thể thao trường học được chú trọng hơn, cơ sở
vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác TDTT ở một số địa phương và ngành



2

bước đầu được chú ý đầu tư nâng cấp, xây dựng mới, công tác tổ chức quản
lý ngành được tăng cường một bước quan trọng, cùng với những tấm huy
chương đạt được trong các cuộc thi đấu ở khu vực và quốc tế thể thao Việt
Nam đã khẳng định với toàn thế giới về tiềm năng rất to lớn của mình, góp
phần xứng đáng thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của TDTT trong giao lưu
quốc tế và một vài môn nhanh chóng hòa nhập với trình độ thể thao khu vực,
Châu Á và thế giới. Đạt được những tiến bộ đó là nhờ sự quan tâm của Nhà
nước, đoàn thể, sự cố gắng của đội ngũ cán bộ, huấn luyện viên, vận động
viên, và sự hưởng ứng nhiệt tình của nhân dân trong việc thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng. Tuy nhiên, khách quan mà nói nền TDTT của
nước ta còn ở trình độ thấp, thành tích các môn thể thao còn thua kém xa so
với nhiều nước trong khu vực và thế giới, lực lượng vận động viên trẻ kế cận
còn rất mỏng. Vì thế mục tiêu ngành thể dục thể thao nước ta đã xác định
“phát triển thể thao thành tích cao” là một trong 3 nhiệm vụ chiến lược xuyên
suốt của ngành mà trước tiên phải từng bước hoàn thiện hệ thống tuyển chọn
và đào tạo tài năng thể thao, xuất phát từ việc tuyển chọn, đào tạo vận động
viên trẻ và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong tất cả các khâu.
Thể thao luôn hướng tới những mục tiêu nhanh hơn, cao hơn, mạnh
hơn như khẩu hiệu của phong trào Olympic quốc tế và chúng ta cũng không
thể đứng ngoài dòng chảy liên tục đó. Những kết quả đã đạt được chưa phải là
mục tiêu cuối cùng trong kế hoạch phát triển của thể thao Việt Nam và nó
cũng đặt ra những vấn đề mới cần giải quyết. Khi mục tiêu của chúng ta
không chỉ bó hẹp ở các đại hội thể thao trong khu vực mà đã vươn lên tầm
châu lục và thế giới, đồng nghĩa với việc tăng cường tính chuyên nghiệp trong
đào tạo, tập huấn VĐV, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, đánh
giá đúng trình độ tập luyện của lực lượng hậu bị cho bóng đá là điều kiện tiên
quyết trên con đường đưa bóng đá Việt Nam hòa nhập đấu trường quốc tế.



3

Thật vậy, trong quy trình huấn luyện vận động viên, việc kiểm tra, đánh giá
đúng, kịp thời, thường xuyên trình độ thể lực và kỹ thuật là một khâu quan
trọng, nó xem như là một quá trình điều khiển. Quá trình này không thể thành
công nếu không có nhận được những thông tin “ngược” phản ánh hiệu quả
điều khiển.
Hiện nay, bóng đá Việt Nam cũng đang đứng trước một thực tế là thiếu
sự chuẩn hóa trong công tác đánh giá. Mặt khác, nhờ có những thông tin
chính xác về sự phát triển thể lực và kỹ thuật của VĐV mà giúp cho các huấn
luyện viên có những điều chỉnh trong kế hoạch, giáo án, lượng vận động trong
công tác huấn luyện nhằm mang lại hiệu quả tối ưu, qua đó dự báo được tiềm
năng và sự phát triển của vận động viên trong tương lai.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, bóng đá là môn thể thao phát triển rất
mạnh và thu hút được nhiều đối tượng tham gia tập với điều kiện sân bãi, cơ
sở vật chất hiện đại, đầy đủ. Đội ngũ cán bộ, huấn luyện viên, giảng viên giàu
kinh nghiệm cũng như chuyên môn dẫn dắt đào tạo.
Tuy nhiên, bóng đá thành phố Hố Chí Minh trong những năm gần đây
đang có dấu hiệu đi xuống. Hiện tại không còn câu lạc bộ nào tham gia thi
đấu giải vô địch Quốc Gia. Các đội hạng nhất hay hạng nhì còn hạn chế về
mặt chuyên môn. Lưc lượng vận động viên còn yếu về thể lực,kỹ thuật,chiến
thuật,….. Khâu đào tạo trẻ còn nhiều bất cập, công tác tuyển chọn còn sơ sài
thiếu đồng bộ không thống nhất giữa các tuyến với nhau.
Là cán bộ quản lý trung tâm thể dục thể thao Thống Nhất cũng như
chịu trách nhiêm chuyên môn bộ môn bóng đá để từng bước cải tiến và nâng
cao trình độ thể lực chuyên môn và hoàn thiện kỹ thuật cơ bản cho vận động
viên nam U17 đội tuyển bóng đá thành phố Hồ Chí Minh tôi mạnh dạn nghiên
cứu đề tài:

“Nghiên cứu sự phát triển thể lực chuyên môn và kỹ thuật của vận động
viên nam U17 đội tuyển bóng đá thành phố Hồ Chí Minh”.


4

Mục đích nghiên cứu:
Xác định các test đánh giá thể lực chuyên môn và kỹ thuật, xây dựng
tiêu chuẩn đánh giá thể lực chuyên môn và kỹ thuật cho vận động viên nam
U17 đội tuyển bóng đá thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó đánh giá sự phát triển
về thể lực chuyên môn và kỹ thuật cho vận động viên nam U17 đội tuyển
bóng đá thành phố Hồ Chí Minh sau một năm tập luyện. Kết quả nghiên cứu
có thể góp phần nâng cao hiệu quả công tác huấn luyện, thành tích thi đấu của
đội tuyển bóng đá nam U17 và làm tài liệu tham khảo cho các huấn luyện
viên, chuyên gia bóng đá, các nhà chuyên môn.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu 1: Xác định hệ thống các test đánh giá thể lực chuyên môn
và kỹ thuật của vận động viên nam U17 đội tuyển bóng đá thành phố Hồ Chí
Minh.
+ Tổng hợp các test đánh giá thể lực chuyên môn và kỹ thuật của
các tác giả trong nước và ngoài nước.
+ Phỏng vấn các huấn luyện viên, các chuyên gia và các nhà chuyên
môn.
+ Kiểm định độ tin cậy của các test được chọn.
Mục tiêu 2: Đánh giá sự phát triển thể lực chuyên môn và kỹ thuật
của vận động viên nam U17 đội tuyển bóng đá thành phố Hồ Chí Minh sau 1
năm tập luyện.
+ Đánh giá thực trạng thể lực chuyên môn và kỹ thuật của vận động
viên nam U17 đội tuyển bóng đá thành phố Hồ Chí Minh.
+ Đánh giá sự phát triển thể lực chuyên môn và kỹ thuật của vận động

viên nam U17 đội tuyển bóng đá thành phố Hồ Chí Minh sau một năm tập
luyện.
Mục tiêu 3: Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá thể lực chuyên môn và kỹ
thuật của vận động viên nam U17 đội tuyển bóng đá thành phố Hồ Chí
Minh.
+ Lập thang điểm đánh giá thể lực chuyên môn và kỹ thuật của vận
động viên nam U17 đội tuyển bóng đá thành phố Hồ Chí Minh.


5

+ Xếp loại trình độ thể lực chuyên môn và kỹ thuật cho các VĐV nam
bóng đá đội tuyển TPHCM thời điểm ban đầu và sau 1 năm tập luyện
+ Xây dựng bảng phân loại đánh giá thể lực chuyên môn và kỹ thuật
của vận động viên nam U17 đội tuyển bóng đá thành phố Hồ Chí Minh


6

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thể dục thể
thao.
Thể dục thể thao (hay gọi là văn hóa thể chất) có ý nghĩa to lớn trong
việc bảo vệ, tăng cường sức khỏe, phát triển và hoàn thiện thể chất cho con
người, góp phần tích cực vào quá trình bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân
lực, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần phong phú, lối sống lành mạnh
nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Đường lối, quan điểm của Đảng về công tác TDTT, được hình thành

ngay từ những năm đầu của cách mạng nước ta, đã từng bước được bổ sung,
hoàn chỉnh phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng và
luôn luôn là kim chỉ nam cho sự phát triển của nền TDTT nước nhà.
Trong chỉ thị 17/CT-TƯ ngày 23/10/2002 về phát triển TDTT đến năm
2010, Ban bí thư Trung ương Đảng xác định “Đẩy mạnh hoạt động TDTT
nâng cao thể trạng và tầm vóc của người Việt Nam. Phát triển phong trào
TDTT quần chúng với mạng lưới cơ sở rộng khắp; Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ
VĐV thành tích cao… Đẩy mạnh hoạt động TDTT ở trường học, tiến tới đảm
bảo mỗi trường học đều có giáo viên thể dục chuyên trách và lớp học thể dục
đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao chất lượng GDTC; Xem đây là một
tiêu chí công nhận trường chuẩn quốc gia... Tăng đầu tư của Nhà nước cho
việc phát triển TDTT ở trường học, ở nông thôn và miền núi…”. [4]
Đảng và chính phủ luôn luôn coi trọng đến việc giáo dục con người một
cách toàn diện, trong đó có 5 phẩm chất: Đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục và lao
động. Giáo dục thể chất là một bộ phận của nền văn hòa xã hội, một di sản quý
giá của loài người. Giáo dục thể chất tồn tại và phát triển theo các bước tiến của


7

xã hội. Nó không bao giờ mất đi mà ngược lại nó ngày càng phát triển.
Đảng ta luôn khẳng định rõ vị trí quan trọng của TDTT trong chính
sách kinh tế - xã hội nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, tạo ra
sức mạnh và động lực phát triển đất nước.
Phạm vi công tác TDTT rất rộng, bởi đối tượng tác động của TDTT là
con người, thuộc mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước.
Người cán bộ làm công tác TDTT cần nắm vững đường lối, quan điểm
TDTT của Đảng để:
- Tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo công tác TDTT, công tác tuyên truyền,
giáo dục, vận động và tổ chức, động viên mọi lực lượng xã hội tham gia hoạt

động TDTT.
- Khai thác và phát huy những giá trị nhân dân của TDTT để nâng cao
sức khoẻ, thể lực, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân, đặc biệt
là thế hệ trẻ Việt Nam.
- Kết hợp công tác phát triển TDTT với việc xây dựng con người
Việt Nam, góp phần tích cực thực hiện các nhiệm vụ kinh kế, chính trị, văn
hoá – xã hội, đối ngoại và an ninh quốc phòng nhằm phát triển bền vững đất
nước và bảo vệ tổ quốc.
Công tác TDTT có hiệu quả tích cực trong việc nâng cao sức khỏe của
nhân dân, góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần, xây dựng lối
sống lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn xã hội.
Các quan điểm của Đảng về phát triển TDTT là những định hướng cơ
bản để xác định vị trí và mối quan hệ của toàn bộ sự nghiệp TDTT đối với các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội … các mối quan hệ nội tại của TDTT. Vì vậy
đó chính là các cơ sở để lựa chọn, xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
để xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp TDTT trong một thời
kỳ tương đối dài.


8

Giáo dục toàn diện là mục tiêu luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm,
nhằm chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ 21. Bàn về định
hướng công tác GD-ĐT, khoa học công nghệ trong những năm tới, Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII đã khẳng định: “Cùng với khoa học công nghệ Giáo dục
– Đào tạo phải trở thành quốc sách hàng đầu”.
“ Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh phải có con người phát triển toàn diện, tức là không chỉ phát triển về mặt trì
tuệ, đạo đức mà còn phải cường tráng về thể chất, là trách nhiệm của toàn xã hội,
của tất cả các cấp, các ngành, các đoàn thể, trong đó có Giáo dục – Đào tạo, Y tế

và TDTT”.
Các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, thứ VII và thứ
VIII, IX, X và XI của Đảng đã xác định những quan điểm cơ bản và chủ
trương lớn để chỉ đạo công tác TDTT trong sự nghiệp đổi mới.
Quan điểm 1: Phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan, một mặt
quan trọng của chính sách xã hội, một biện pháp tích cực để giữ gìn và nâng
cao sức khỏe, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, góp
phần mở rộng giao lưu quốc tế, phục vụ tích cực các nhiệm vụ kinh tế- xã hội,
an ninh và quốc phòng của đất nước.
Quan điểm 2: Phát triển TDTT phải đảm bảo tính dân tộc, tính khoa
học và nhân dân.
Quan điểm 3: Kết hợp Phát triển phong trào TDTT quần chúng với xây
dựng lực lượng vận động viên, nâng cao thành tích các môn thể thao là
phương châm quan trọng đảm bảo cho TDTT phát triển nhanh và đúng
hướng.
Quan điểm 4: Thực hiện xã hội hóa tổ chức, quản lý TDTT, kết hợp
chặt chẽ sự quản lý của nhà nước, của các tổ chức xã hội.


9

Quan điểm 5: Kết hợp phát triển TDTT trong nước với mở rộng các
quan hệ quốc tế về TDTT.
Sau Đại hội XI vừa thành công tốt đẹp, Ban Bí thư giao cho Ban Tuyên
giáo Trung ương chủ trì phối hợp với Ban cán sự Đảng Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch dự thảo để ban hành Nghị quyết của Bộ Chính trị “Về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến
năm 2020”.
Đây là sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước, khẳng định vị trí,
vai trò của thể dục thể thao trong việc chuẩn bị bồi dưỡng nguồn nhân lực,

phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, cũng khẳng định
trách nhiệm của ngành thể dục thể thao phải làm sao cho công tác thể dục thể
thao phát triển mạnh mẽ, nâng cao sức khỏe nhân dân, xây dựng lối sống lành
mạnh…
"Đầu tư cho thể dục, thể thao là đầu tư cho con người, cho sự phát triển
của đất nước. Tăng tỉ lệ chi ngân sách nhà nước, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất thể dục, thể thao và đào tạo vận động viên thể thao thành tích cao;
đồng thời phát huy các nguồn lực của xã hội để phát triển thể dục, thể thao."
Thể dục thể thao là một trong những mặt cơ bản của giáo dục. Sự kết hợp
trí dục và thể dục với lao động sản xuất không chỉ là một trong những phương
tiện để nâng cao sản xuất xã hội mà còn là phương thức duy nhất để đào tạo ra
những con người phát triển toàn diện.
1.2 ĐẶC ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN BÓNG ĐÁ HIỆN ĐẠI.
1.2.1 Đặc điểm môn bóng đá.
Bóng đá là môn thể thao mang tính chiến đấu và tính đối kháng quyết
liệt. Trong thi đấu hai đội đều tranh giành quyết liệt, làm sao đưa bóng vào
cầu môn đối phương, đồng thời cũng tranh cướp quyết liệt, giành giật quả
bóng, không cho đối phương đá bóng vào cầu môn của mình.


10

Kỹ thuật bóng đá đa dạng, chiến thuật rất phức tạp nên việc nắm vững
kỹ - chiến thuật là một việc khó và phải qua một quá trình khổ luyện lâu dài.
Thi đấu bóng đá thời gian kéo dài (90 phút) sân bãi rộng lớn và tiêu hao
thể lực rất lớn. Một trận thi đấu bóng đá quyết liệt, một cầu thủ có thể chạy
một cự ly 6 - 10 km, thực hiện trên 100 động tác kỹ thuật có bóng và không
có bóng. Sự tiêu hao năng lượng của cơ thể là rất lớn, một trận thi đấu căng
thẳng quyết liệt năng lượng tiêu hao hơn 2000kg calo và trọng lượng cơ thể
có thể giảm từ 3 – 5 kg [26, tr.4].

1.2.2. Xu hướng phát triển bóng đá hiện đại.
Sự phát triển của bóng đá luôn gắn chặt với việc giải quyết mâu thuẩn
giữa hai phương diện tấn công và phòng thủ với mục đích cuối cùng là bảo vệ
an toàn cầu môn của đội mình, đồng thời đưa được bóng vào lưới cầu môn
của đối phương để giành thắng lợi dù chỉ là một bàn thắng cho một trận đấu là
đủ. Chính các biện pháp giải quyết mâu thuẩn này đã thôi thúc nhiều chuyên
gia, nhiều huấn luyện viên các nước không ngừng nghiên cứu, cải tiến lối đá,
cải tiến đấu pháp thực hành chiến thuật ở từng trận đấu trước mỗi đấu thủ
khác nhau… điều đó đã tạo nên động lực thúc đẩy trình độ bóng đá tiến lên và
ngày càng tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn không ngừng của người ham mộ trên
khắp hành tinh đối với môn bóng đá, môn thể thao được mệnh danh là “môn
thể thao vua”.
Trước năm 1970, bóng đá thế giới đã hình thành hai trường phái bóng đá
Nam Mỹ và trường phái bóng đá Châu Âu. Trong đó, trường phái bóng đá Nam
Mỹ với đặc điểm dựa trên nền tảng chiến thuật cao với tính ngẩu hứng hoa mỹ
của từng cá nhân, lối chơi sử dụng các đường chuyền ngắn, phối hợp nhỏ, triển
khai tấn công chậm, cường độ hoạt động không cao. Ngược lại trường phái bóng
đá Châu Âu với đặc điểm có tính kỹ luật chiến thuật cao, sử dụng phát huy tối ưu
lối chơi đồng đội dựa trên nền tảng thể lực dồi dào, phòng ngự chặt, phản công


11

nhanh, truy cản tranh chấp quyết liệt trên toàn sân, khi tấn công sử dụng các
đường chuyền dài, lối chơi mang tính thực dụng không hoa mỹ. Từ Mondial
1974 “Giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 10”, bóng đá thế giới đã chuyển sang
một xu hướng mới đó là “Bóng đá tổng lực” mà người đề xướng lối chơi này là
huấn luyện viên Michel (Hà Lan) với nguyên tắc toàn đội tấn công, toàn đội
phòng ngự và đã gặt hái được một số thành tích rất đáng tự hào với hai huy
chương bạc liên tiếp của đội tuyển Hà Lan tại hai kỳ World cup 1974 và 1978 và

cho đến hôm nay với xu thế là kết hợp các đặc điểm ưu việt của hai trường phái
bóng đá Châu Âu và Nam Mỹ. Xét từ góc độ phát triển của đội hình chiến thuật
ta thấy rất rõ điều đó. Năm 1958, đội bóng đá Brazil sử dụng hệ thống chiến thuật
4 – 2 – 4, năm 1966 đội tuyển Anh sử dụng chiến thuật 4 – 3 – 3, đến 1974 bóng
đá thế giới đặc trưng với chiến thuật 4 – 4 – 2, và sau đó là chiến thuật 5 – 3 – 2
là phổ biến. Khi tấn công có thể biến hóa thành sơ đồ chiến thuật 3 – 5 – 2 và 3 –
4 – 1 – 2 [31,Tr 110]. Chính những thay đổi trong đội hình chiến thuật kéo theo
những thay đổi trong phạm vi kỹ thuật, thể lực và tâm lý thi đấu, các chuyên gia
bóng đá đã thống nhất quan điểm rằng xây dựng lối đá hay hệ thống chiến thuật
nào cũng phải dựa trên nền tảng thể lực và trình độ cá nhân của các cầu thủ trong
đội phù hợp với lối đá ấy.
Hiện nay bóng đá thế giới đang phát triển cao độ toàn diện trên ba mặt: Kỹ
năng, thể lực và trí tuệ. Bóng đá hiện đại đòi hỏi các cầu thủ phải có trình độ kỹ
thuật điêu luyện, phải có thể lực tốt, toàn diện và đặc biệt là phải có tri thức, có
trình độ học vấn để phân tích, đánh giá và nhận định đúng mọi diễn biến trên sân
trong quá trình thi đấu. Thời đại nhấn mạnh mặt kỹ thuật của bóng đá Nam Mỹ hay
nhấn mạnh mặt thể lực của trường phái bóng đá Châu Âu đã lui về quá khứ.
Theo nhận định của các chuyên gia AFC trực tiếp tham gia giảng dạy tại
Việt Nam thì bóng đá thế giới đang phát triển theo xu hướng hiện đại với các
đặc điểm sau:


12

+ Bóng đá hiện đại là bóng đá tấn công, lối chơi tấn công triển khai với
nhịp độ nhanh, toàn đội tấn công, lấy số đông đánh ít, các cầu thủ di chuyển
với tốc độ nhanh, bất ngờ dứt điểm ghi bàn ở mọi tình huống trên cơ sở phòng
ngự chặt, trường hợp bị mất bóng khi tấn công, toàn đội chuyển sang phòng
ngự và tranh chấp tay đôi diễn ra hết sức quyết liệt giữa các cầu thủ, cả ở trên
không cho đến dưới đất, toàn đội luôn có ý thức hỗ trợ bọc lót cho nhau trên

tất cả các tuyến. Để phòng thủ vững chắc, đòi hỏi các cầu thủ phải thành thạo
chiến thuật như: tiền vệ bọc lót hậu vệ biên, hậu vệ biên bọc lót trung lộ, tiền
vệ trụ và trung vệ giữa bọc lót trung vệ thòng…
+ Trên cơ bản mỗi cầu thủ phải được phát triển toàn diện, biết tư duy
hoạt động từng vị trí trên sân. Từ đó với năng lực chuyên môn, cầu thủ phải
được chuyên môn hóa vị trí, đảm đương một nhiệm vụ cụ thể bên trái hoặc
bên phải và hoàn thành tốt tấn công lẫn phòng thủ.
+ Kết hợp tính nguyên tắc, tính kỹ luật trong phối hợp chiến thuật thi
đấu với phát huy tính sáng tạo, tính ngẫu hứng của từng cầu thủ, biểu hiện
tầm quan sát phán đoán, nhạy bén tình huống, nhanh chóng chớp thời cơ,
chuyển hướng bất ngờ với mục tiêu ghi bàn. Thông thường một đội bóng có
đẳng cấp cao ở các tuyến đều có một cầu thủ dẫn dắt điều khiển nhịp độ trận
đấu lối chơi của đội theo tình huống xảy ra trên sân, các cầu thủ này được thể
hiện ở kinh nghiệm và bản lĩnh.
+ Trong trận đấu phải có chuyên gia sút phạt như: phạt trực tiếp, phạt góc,
phạt đền vì trong bóng đá hiện đại những quả sút phạt có thể ghi bàn thắng.
+ Trong bóng đá hiện đại, việc chuẩn bị tâm lý cho một trận đấu luôn
được coi trọng vì mỗi cầu thủ luôn bị những áp lực từ bên ngoài như: khán giả
sân đối phương, sự thiếu vô tư của trọng tài, tiểu xảo của đối thủ, một vài tình
huống thiếu ăn ý của đồng đội, đột ngột bị dẫn trước tỉ số… Trước những tình


13

huống ấy, cầu thủ phải biết tự kiềm chế, bản lĩnh, tự tin, chế ngự cảm xúc, nổ
lực ý chí bình tĩnh xử lý tình huống tất cả vì mục đích chiến thắng.
1.2.3. Khái niệm và quan điểm đánh giá TĐTL, trình độ thể lực và kỹ thuật
trong thể thao:
Trong huấn luyện thể thao hiện đại, việc kiểm tra đánh giá trình độ tập
luyện cho VĐV giữ một vai trò vô cùng quan trọng giúp cho quá trình tuyển

chọn và đào tạo VĐV. Vậy thế nào gọi là trình độ tập luyện? Về khái niệm
này trong các sách, tạp chí lý luận chuyên ngành trong và ngoài nước, chúng
ta có thể tìm thấy rất nhiều các định nghĩa khác nhau.
- Theo Novicov A. D - Mátveev L. P thì trình độ tập luyện liên quan
phần lớn đến những thay đổi thích ứng sinh học (chức năng và hình thái) xảy
ra trong cơ thể VĐV dưới tác động của lượng vận động tập luyện và những
thay đổi có biểu hiện ở sự phát triển năng lực của VĐV. Từ đó các ông đưa ra
khái niệm : “Trình độ tập luyện là thước đo mức thích ứng của cơ thể đối với
một hoạt động cụ thể đạt được qua tập luyện” [19, tr. 8].
- Aulic I.V 1982 trong cuốn “Đánh giá trình độ tập luyện thể thao” cho
rằng : “Việc đánh giá trình độ tập luyện không phải là mục đích tự thân. Là
nhiệm vụ hàng thứ hai, nó như là một phương tiện kiểm tra cần phải có để
phục vụ cho vấn đề chính, đó là vấn đề phương pháp luyện tập tạo điều kiện
đạt được những thành tích thể thao cao” [1, tr. 11]. Ông nhận xét :“Có một
yếu tố cơ bản của TĐTL không được Nôvicốp và Mátveev nói tới, đó là thành
tích thể thao”. Vì vậy theo ông thì: “Trình độ tập luyện là năng lực tiềm tàng
của VĐV để đạt được những thành tích nhất định trong môn thể thao lựa
chọn và năng lực này được biểu hiện cụ thể ở mức chuẩn bị về kỹ - chiến
thuật, thể lực, đạo đức, ý chí và trí tuệ. Trình độ tập luyện nâng cao thì VĐV
càng có thể làm trọn vẹn được một nhiệm vụ nhất định với hiệu quả mỹ mãn
hơn” [1, tr 5 - 6].


14

- Tiến sĩ Harre D cho rằng : “Trình độ tập luyện của VĐV thể hiện ở sự
nâng cao năng lực thể thao nhờ ảnh hưởng của lượng vận động tập luyện,
lượng vận động thi đấu và các biện pháp bổ trợ khác” [10, tr .101]. Như vậy,
theo định nghĩa trên của Harre cho thấy ngoài lượng vận động tập luyện và
lượng vận động thi đấu, trình độ tập luyện của VĐV còn phụ thuộc vào các

biện pháp bổ trợ khác nữa. Cũng theo Harre thì các thông tin về trình độ tập
luyện của VĐV được thể hiện ở các cuộc thi đấu và kiểm tra thành tích (test
kiểm tra).
- Giáo sư M.Ia Nabatnhicova trong “Quản lý và đào tạo VĐV trẻ”
[17], đã đề cập đến việc nghiên cứu trình độ tập luyện một cách sâu rộng
thông qua việc mô hình hóa các mặt khác nhau của thành tích thể thao. Các
chỉ số của mô hình được soạn thảo đối với cả những VĐV trẻ (cụ thể hóa các
tiêu chuẩn cho VĐV của một số môn thể thao) đã cho phép xác định đúng đắn
hơn các phương pháp giảng dạy huấn luyện theo đặc thù từng môn thể thao.
Ngoài ra trong tác phẩm của mình giáo sư còn nêu 10 nguyên tắc có tính chất
chỉ đạo việc tiến hành kiểm tra tổng hợp sư phạm và y sinh đối với việc đánh
giá trình độ tập luyện cho VĐV trẻ.
Theo tạp chí Olympic Việt Nam, số 13 tháng 6/1997 và sách giáo khoa
bậc đại học về bóng bàn( NXB thể dục thể thao Bắc Kinh,1995) có nêu định
nghĩa: “ Trình độ tập luyện là một hợp kim phức hợp nhiều thành tố, nhiều
mặt về hình thái, chức năng tâm lý, thể lực, hiểu biết”.
Bên cạnh đó còn có khá nhiều tác phẩm với các quan điểm, luận cứ đề
cập đến việc đánh giá TĐTL cho VĐV như: “Hệ thống kiểm tra sư phạm
trong chuẩn bị cho VĐV trẻ” của L.Zinkinna - P.Vabatrcova, 1978; “Tuyển
chọn và dự báo thành tích thể thao” Plattrienco -Bludov, 1983 v.v…
Ở Việt Nam cũng có nhiều tác phẩm, bài viết của các tác giả đã đưa ra
các khái niệm về trình độ tập luyện khác nhau như :


15

- Quan điểm của Nguyễn Toán - Phạm Danh Tốn : “Trình độ tập luyện
của VĐV là kết quả tổng hợp của việc giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn
tập luyện thể thao. Nó thể hiện ở mức nâng cao khả năng chức phận của cơ
thể, năng lực hoạt động chung và chuyên môn của VĐV ở mức hoàn thiện các

kỹ năng kỹ xảo thể thao phù hợp” [28, tr. 423]. Khi phân tích, PGS Nguyễn
Toán còn chỉ ra rằng TĐTL của VĐV được thể hiện trong một cấu trúc tổng
hợp (như là một hợp kim) về thể năng, kỹ năng, trí năng, chiến thuật, năng lực
tâm lý. Đó là 5 thành tố cơ bản trong TĐTL, giữa chúng có quan hệ vừa thúc
đẩy vừa chế ước cho nhau [29, tr 26].
- Theo PGS.TS Trịnh Trung Hiếu - TS Nguyễn Sĩ Hà : “Trình độ tập
luyện là trạng thái gắn liền với những biến đổi thích nghi của các đặc tính
sinh học trong cơ thể VĐV, những biến đổi đó xác định mức độ khả năng của
các hệ thống chức năng cơ thể” [14, tr .12].
- Theo GS.TS Lưu Quang Hiệp: “Mức độ thích nghi của cơ thể với một
hoạt động cụ thể nào đó đạt được bằng tập luyện đặc biệt, được gọi là trình
độ tập luyện” [12, tr .339]. Như vậy dưới con mắt của các nhà y sinh học nhìn
từ góc độ sinh lý, sinh hóa để xem xét trình độ tập luyện, ta thấy : Về bản
chất, đó chính là quá trình tạo cho con người thích nghi với hoạt động cơ bắp
nhờ hoàn thiện sự điều khiển và phối hợp vận động giữa các hệ chức năng
trên cơ sở những biến đổi sâu sắc về cấu tạo, chức năng sinh lý và sinh hóa
trong cơ thể.
Mặt khác các môn thể thao khác nhau thì mức độ quan trọng của từng
mặt năng lực thể thao trong trình độ tập luyện có khác nhau, mỗi môn thể
thao đều có những yêu cầu cao có tính chất riêng đối với cơ quan hoặc hệ cơ
quan trong cơ thể. Vì vậy, mỗi môn thể thao đều có tác dụng hoàn thiện chủ
yếu một hay một số chức năng hoặc cơ quan nhất định. Trình độ tập luyện của
cơ thể VĐV được xác định thông qua các phương pháp sư phạm, tâm lý, y


16

sinh học. Tuy nhiên, trình độ tập luyện là một khái niệm tổng hợp, đặc trưng
cho khả năng của toàn bộ cơ thể.
- Theo TS Nguyễn Thế Truyền – PGS. TS Nguyễn Kim Minh – TS

Trần Quốc Tuấn: “Trình độ tập luyện là một phức hợp của nhiều thành tố y
sinh, tâm lý, kỹ, chiến thuật, thể lực ngày càng được nâng cao nhờ ảnh hưởng
trực tiếp lâu dài của lượng vận động tập luyện và thi đấu cũng như các liệu
pháp hỗ trợ ngoại sinh khác” [31] .
- Theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn Danh Thái - Dương Nghiệp
Chí: “Trình độ tập luyện của VĐV bóng bàn là trình độ điêu luyện về kỹ chiến thuật, mức độ phát triển về tố chất thể lực và sự vững vàng nhạy bén về
tính thần và ý thức để đáp ứng yêu cầu đạt thành tích thể thao ngày càng
cao”. Cũng theo tác giả, những yếu tố quan trọng nhất cấu thành trình độ tập
luyện đó là:
- Cấu trúc hình thái, các chỉ số chức năng sinh lý, sinh hóa và tâm lý
của VĐV.
- Trình độ chuẩn bị thể lực chung và chuyên môn.
- Trình độ điêu luyện về kỹ thuật và khả năng tiếp tục hoàn thiện phù
hợp với quy luật sinh cơ học.
- Tư duy chiến thuật, bản lĩnh chiến lược thực hiện các trận đấu then
chốt.
- Trạng thái sức khỏe và khả năng hồi phục của cơ thể.
Như vậy, các định nghĩa trên của các tác giả đã xem xét trình độ tập
luyện bằng khả năng thích ứng của cơ thể VĐV biểu hiện trong sự phát triển
tổng hợp các mặt năng lực thể thao, dưới tác động của lượng vận động tập
luyện và thi đấu.
Xem xét các quan điểm nghiên cứu nói trên của các tác giả trong và
ngoài nước, chúng tôi thấy trình độ tập luyện được phân tích và nhìn nhận


17

dưới các góc độ, các khía cạnh khác nhau, như là một hợp kim của nhiều
thành tố. Song nhìn chung các khái niệm về trình độ tập luyện được các tác
giả thể hiện qua các luận điểm chính như sau :

+ Trình độ tập luyện luôn được xem xét trong trạng thái động.
+ Trình độ tập luyện được thể hiện qua những biến đổi thích ứng về
mặt sinh học (chức năng và hình thái) của các hệ thống cơ quan xảy ra trong
cơ thể VĐV.
+ Thành tố cơ bản nhất, quan trọng nhất của trình độ tập luyện là
thành tích thể thao.
+ TĐTL được nâng cao qua con đường tập luyện và thi đấu thể thao.
Theo khái niệm về cấu trúc nhiều thành phần của trình độ tập luyện, thì
việc đánh giá trình độ tập luyện phải theo nguyên tắc giải quyết tổng hợp các
thành tố cấu thành trình độ tập luyện, các thành tố này có thể ghép chung vào
một số nhóm. Do vậy nghiên cứu về trình độ tập luyện phải xem xét ở các
khía cạnh khác nhau : Sư phạm, tâm lý, y sinh, xã hội. Trong đó thuộc về khía
cạnh sư phạm của trình độ tập luyện có trình độ kỹ thuật, chiến thuật và thể
lực (chung và chuyên môn) của VĐV. Thuộc khía cạnh tâm lý của trình độ tập
luyện phải kể đến trạng thái tâm lý, các phẩm chất ý chí phù hợp môn thể thao
đặc thù và cả đạo đức của VĐV. Cũng cần lưu ý rằng đối với các môn bóng
nói chung và đặc biệt là môn bóng đá, yếu tố tâm lý có liên quan chặt với
thành tích thể thao. Thuộc khía cạnh y sinh của trình độ tập luyện cần xem xét
đến các chỉ số hình thái chức năng, sinh lý của cơ thể và tình trạng sức khỏe.
Bởi rõ ràng là sức khỏe tốt và khả năng chức phận cao của cơ thể là tiền đề
cần thiết để đạt những thành tích xuất sắc. Về khía cạnh xã hội của trình độ
tập luyện là việc xác định vị trí của thể thao và của VĐV trong xã hội, nó thể
hiện ở điều kiện sống của VĐV, động cơ và cả về những tính chất khác nhau
của tính cách … [6]. Nghiên cứu đánh giá trình độ tập luyện là nghiên cứu


18

trên các khía cạnh : Hình thái, y sinh học, sư phạm và tâm lý. Trong đó các
chỉ số hình thái và y sinh cùng lực cơ được xem xét đánh giá chủ yếu về mặt

trạng thái sức khỏe của VĐV. Về mặt tâm lý chủ yếu xem xét trạng thái tâm lý
của hệ thần kinh. Còn dưới góc độ sư phạm chủ yếu xem xét các mặt năng lực
kỹ thuật, chiến thuật, thể lực (chung và chuyên môn) .Tuy nhiên, cũng cần
phải phân biệt rõ hơn về đặc điểm của trình độ tập luyện ở VĐV cấp cao và
VĐV trẻ có khác nhau :
- VĐV cấp cao: Có đặc điểm trình độ tập luyện luôn ổn định ở mức
cao, vì thế khi đánh giá trình độ tập luyện, thường gắn với trạng thái sung sức
thể thao ứng với từng chu kỳ huấn luyện và thành tích thi đấu thể thao cụ thể.
- VĐV trẻ: Có đặc điểm trình độ tập luyện thấp và luôn biến động trong
quá trình phát triển, vì thế khi đánh giá tổng hợp trình độ tập luyện VĐV thiếu
niên cần phải xem xét nhiều chỉ tiêu, các test có độ tăng trưởng tốt trong quá
trình tập luyện, phản ánh trạng thái tập luyện phù hợp với môn thể thao đặc
thù.
Quá trình biến đổi lâu dài của trình độ tập luyện luôn gắn liền với các
phạm trù “Phát triển” và “Thích nghi”. Sự phát triển trình độ tập luyện nhờ
tác động lâu dài của lượng vân động tạo nên những biến đổi về chức năng và
cấu trúc trong các cơ quan và các hệ thống cơ thể . Sự phát triển trình độ tập
luyện thực chất là chu kỳ của những phản ứng thích nghi, quá trình thích nghi
là một trong những mặt quan trọng của quá trình phát triển trình độ tập luyện
lâu dài. Rõ ràng, quá trình thích nghi là một trong những mặt quan trọng của
quá trình phát triển trình độ tập luyện lâu dài.
Như vậy vấn đề mà đề tài nghiên cứu, chỉ giới hạn chủ yếu ở hai yếu
tố cơ bản của trình độ tập luyện là thể lực và kỹ thuật! Vậy trình độ thể lực là
gì? Trình độ kỹ thuật là gì? Để làm rõ “nội hàm” của hai thuật ngữ này,
thông qua các khái niệm của các tác giả có thể thấy:


19

Theo PGS.TS Nguyễn Toán và TS. Phạm Danh Tốn thì: Trình độ thể

lực là mức độ phát triển về sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm dẻo và các tố
chất thể lực khác của VĐV. Cũng theo tác giả thì : Trình độ kỹ thuật là trình
độ điêu luyện về mặt ấy của VĐV [28]. Do vậy, để đánh giá trình độ thể lực
chính là đánh giá sự phát triển của các tố chất thể lực, đặc biệt là các tố chất
thể lực chuyên môn của môn thể thao lựa chọn qua từng giai đoạn huấn luyện.
Còn đánh giá trình độ kỹ thuật chính là đánh giá mức độ hoàn thiện kỹ thuật ở
môn thể thao lựa chọn, mà biểu hiện cao nhất của nó là các kỹ năng, kỹ xảo ở
mức “Tự động hóa cao” khi thực hiện các động tác kỹ thuật trong các tình
huống khác nhau. Tuy nhiên, khi đánh giá trình độ thể lực và kỹ thuật ở VĐV
bóng đá thông qua kế hoạch huấn luyện năm, chúng ta không thể không đề
cập đến việc xem xét xu hướng tác động của huấn luyện thể thao đến cơ thể
VĐV như là xem xét về trạng thái sức khỏe.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thành tích môn bóng đá.
1.2.4.1. Cấu trúc thành tích môn bóng đá.
Trong hoạt động thi đấu bóng đá đòi hỏi sự phối hợp nhuần nhuyễn của
tập thể ở từng cá nhân, từng nhóm vị trí như: Biên, trung lộ, từ phòng thủ cho
đến tấn công và ngược lại, tính đối kháng quyết liệt do đối phương đeo bám
kèm chặt để tranh cướp bóng bảo vệ cầu môn, cũng như sử dụng mọi khả
năng khéo léo nhanh nhẹn vượt qua đối phương truy cản để dứt điểm ghi bàn
hoặc nói cách khác bóng đá là môn thể thao dùng nhiều thủ pháp, thủ thuật để
xử lý khôn khéo tình huống diễn ra trong quá trình thi đấu trên cơ sở của một
sự chuẩn bị chu đáo trước đó, do đó đòi hỏi sự tổng hợp trong cấu trúc thành
tích thi đấu của bóng đá, có thể tổng kết thành tích của một đội bóng đá phụ
thuộc vào nhiều yếu tố qua sơ đồ sau:


20

Thành tích thi đấu


+ Trình độ huấn luyện.
+ Kinh nghiệm thi đấu của các cầu
thủ trong đội.
+ Đánh giá đúng đối thủ.

+ Sự phối hợp tốt kỹ – chiến thuật
phù hợp với những tình huống biến
đổi trong tấn công và phòng thủ.

+ Đánh giá đúng đối thủ.

+ Tâm lý thi đấu toàn đội
+ Sự nổ lực ý chí một cách tự giác,
có mục đích, có động cơ, thi đấu
đúng năng lực và hiệu quả.

+ Điều kiện đảm bảo và những điều
kiện khách quan bên ngoài.
- Dinh dưỡng.
- Sức khỏe sung mãn.
- Phương tiện, dụng cụ, trang phục
thi đấu.
- Sân bãi, thời tiết, trọng tài, khán
giả.

Sơ đồ 1.1: Các yếu tố cấu thành thành tích thi đấu
Sơ đồ trên cho thấy các yếu tố thành phần chính cấu thành nên thành
tích thi đấu của một đội bóng. Nhưng rõ ràng thực tế thi đấu ở các giải bóng
đá cho thấy việc dự báo về thành tích thi đấu của một đội bóng trong từng trận
đấu hay một giải đấu thường không được chính xác, do có những sai số về

“chủ quan” và “khách quan”. Vì một đội bóng thi đấu trên sân gồm 11 cầu
thủ, nên đòi hỏi 11 người phải rất ăn ý trong phối hợp, cả 11 người phải luôn
giữ được phong độ và ổn định tâm lý trong từng trận đấu, trình độ các cầu thủ


21

dự bị và chính thức phải tương đối bằng nhau, có ý chí quyết tâm cao…Thực
tế việc này rất khó duy trì và ổn định cùng một lúc và kéo dài suốt một giải
đấu đối với một đội bóng. Mặt khác, trong thi đấu bóng đá, thành tích thi đấu
đôi khi còn do yếu tố “may mắn” và “không may mắn”. Ví dụ: Một cầu thủ bị
chạm tay trong vòng 16m50 và bị phạt đền, hay vô tình bị thẻ vàng thứ hai,
thẻ đỏ, làm mất người, thiếu hụt người trong đội hình thi đấu, hay cầu thủ “trụ
cột” bị chấn thương,… Tuy vậy, cũng phải nhận thức rõ là chỉ có trên cơ sở
kiểm tra, đánh giá một cách tổng hợp các chỉ tiêu của trình độ tập luyện, đồng
thời kết hợp với các thông số kỹ thuật, thống kê kết quả trong thi đấu mới là
những “thông tin ngược chiều bổ ích”, giúp HLV, các nhà chuyên môn xem
xét để có những điều chỉnh, bổ sung cần thiết ở từng giai đoạn, từng trận đấu
nhằm đạt được thành tích tốt nhất trong thi đấu.
1.2.4.2. Đặc điểm của VĐV bóng đá cấp cao.
Năng lực của một VĐV bóng đá mang tính tổng hợp đòi hỏi sự phối
hợp của nhiều yếu tố phù hợp với yêu cầu đặc trưng cấu thành TTTT của môn
thể thao này. Vì thế đòi hỏi các VĐV bóng đá ngoài các tiêu chuẩn chung còn
có những đặc điểm riêng. Các đặc điểm của VĐV bóng đá là:
+ Đặc điểm hình dáng cấu trúc cơ thể:
Trong một đội bóng, các VĐV bóng đá không có các yêu cầu khắc khe
về hình thái và cấu trúc cơ thể như một số môn thể thao (điền kinh, bơi lội,
thể dục…). Tuy vậy, ở một số vị trí như thủ môn, trung vệ, trung phong, luôn
đòi hỏi phải là những VĐV cao, to sẽ có nhiều ưu thế hơn, có lợi trong thi
đấu. Song một thực tế hiện nay xu hướng chung của hầu hết các môn thể thao,

các HLV vẫn luôn ưu tiên tuyển chọn các VĐV có thể hình cao, to sẽ đặc biệt
lợi thế hơn trong di chuyển, tranh chấp. Vì vậy, thể hình của VĐV bóng đá
cũng đòi hỏi là những người có chiều cao trên trung bình trở lên.
+ Những đặc điểm về tâm lý:


22

Trong đội hình thi đấu bóng đá, những hành vi đạo đức của từng cầu
thủ trên sân không chỉ ảnh hưởng tới đồng đội, đối phương mà còn tác động
đến khán giả, gây cho họ sự yêu mến, ngưỡng mộ đến cuồng nhiệt hoặc
ngược lại là sự bất bình, nỗi giận… Vì vậy, những đặc điểm tâm lý của VĐV
bóng đá trên sân được biểu hiện thông qua:
- Mức độ thể hiện sự nổ lực ý chí như tinh thần thái độ tận tình thi đấu,
ngoan cường, tự tin.
- Tính sáng tạo và sẵn sàng hỗ trợ đồng đội trong thi đấu.
- Thái độ và hành vi đối với cầu thủ trên sân, đặc biệt trong các tình
huống tranh chấp tay đôi đòi hỏi sự dũng cảm, khôn khéo, mạnh mẽ. Thái độ
tự kiềm chế trước lối chơi xấu và thô bạo của đối phương.
- Sự ổn định cao về tâm lý biểu hiện qua khả năng xử lý khôn khéo và
chính xác tình huống ở các trận thi đấu quan trọng.
+ Những đặc trưng về hoạt động thể lực của VĐV bóng đá:
Bóng đá hiện đại đòi hỏi sự phát triển cao tất cả các tố chất thể lực, bởi
VĐV bóng đá phải thường xuyên di chuyển, thay đổi nhịp độ chạy liên tục trong
suốt thời gian thi đấu trên sân. Theo các chuyên gia bóng đá, VĐV bóng đá di
chuyển trong một trận thi đấu bóng đá thường từ 12 – 15 km, trong đó bao gồm
các hình thức chạy xen kẽ như: Chạy nước rút, cự ly ngắn, chạy tốc độ trung
bình, chạy chậm và đi bộ.
Theo Wiherr VanGool (1982 - 1985) thì chạy nước rút chiếm tỉ lệ 18%
tổng quãng đường với tốc độ chạy từ 6,92 – 8,15 m/s (cự ly chạy từ 30 – 50m),

chạy tốc độ trung bình và chạy chậm chiếm 44% tổng quãng đường với tốc độ
chạy 2,04 – 6,04 m/s, đi bộ chiếm khoảng 36% với tốc độ đi từ 1,3 – 2,04 m/s.
Do vậy VĐV bóng đá có sức bền chuyên môn cao khi giải quyết các
tình huống thi đấu như chạy chỗ, kèm người, phối hợp với đồng đội,… tất cả


23

những điều này đều đòi hỏi cao về tốc độ, đặc biệt là tốc độ xuất phát cần
phải nhanh và có sức bền tốt.
Để thực hiện các cú sút cầu môn từ khoảng cách xa, các đường chuyền
dài, mạnh, chuẩn xác, hay những động tác bật nhảy để đánh đầu và tranh cướp
bóng trên không, các động tác va chạm dùng sức đẩy, tỳ, theo qui định của
luật. Do vậy đòi hỏi VĐV bóng đá không chỉ có sức bền chuyên môn cao, sức
mạnh tốc độ mà còn đòi hỏi phải có sức bật tốt.
Như vậy, có thể thấy thể lực của VĐV bóng đá cần phải toàn diện để nâng
cao năng lực hoạt động chung của cơ thể. Thể lực tốt sẽ tạo tiền đề cho việc thực
hiện các kỹ thuật và chiến thuật đồng thời thúc đẩy việc học tập và nắm vững kỹ
thuật, chiến thuật, tăng cường khả năng chịu đựng lượng vận động trong tập
luyện và thi đấu, đề phòng chấn thương, nâng cao thành tích thi đấu và kéo dài
thời gian duy trì thành tích của VĐV. Cũng như nhiều môn thể thao khác, thể lực
của VĐV bóng đá bao gồm thể lực chung và chuyên môn. Trong đó:
Thể lực chung: Với mục đích nhằm chuẩn bị cho VĐV đạt được khả năng
làm việc cao nhất, tạo nên sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động của các cơ quan,
chức phận trong cơ thể, các tác động tích cực vào sự phát triển thể hình cho VĐV.
Thể lực chung còn hướng đến sự phát triển toàn diện cho VĐV. Vì thế,
để hoàn thiện nó cần áp dụng các loại bài tập của các môn thể thao hỗ trợ cho
bóng đá như: các môn bóng, điền kinh, thể dục, bơi lội… tác động của các bài
tập này có ảnh hưởng tốt tới sự phát triển và cũng cố các chức năng vận động
như: cơ, dây chằng, khớp, chi dưới, đồng thời tạo nên điều kiện để thúc đẩy

các chức năng hoạt đông khác trong cơ thể.
Thể lực chuyên môn: Nhằm giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu là phát
triển và hoàn thiện các tố chất thể lực đặc trưng cho hoạt động thi đấu bóng
đá. Để làm được điều đó cần phải lựa chọn các phương tiện, phương pháp
theo hướng nâng cao năng lực chuyên môn, phù hợp với trình độ của VĐV.


24

1.3. Cơ sở lý luận về công tác huấn luyện cho VĐV bóng đá:
1.3.1. Cơ sở lý luận chung về công tác huấn luyện cho VĐV bóng đá:
Công tác huấn luyện VĐV thể thao nói chung và bóng đá nói riêng phải
được bắt nguồn từ cấu trúc thành tích của mỗi môn nhất định. Có nhiều yếu tố
tạo nên một VĐV bóng đá giỏi. Một số người sinh ra đã có sẵn năng khiếu
bẩm sinh để chơi bộ môn này, trong khi những người khác phải tập luyện cực
lực để lấp những thiếu hụt về những khả năng của mình. Nhưng bất kể những
mức độ khác nhau về năng khiếu, người chơi vẫn có thể trở thành một VĐV
giỏi hơn nếu họ biết nổ lực và được đào tạo khoa học thông qua những kế
hoạch, giáo án huấn luyện và một quy trình tuyển chọn, đánh giá cụ thể.
Tháp biểu diễn dưới đây là "Tháp của sự thành công" của Jonh
Wooden.

Hình 1: Tháp của sự thành công của John Wooden
Bóng đá là một môn thể thao có yêu cầu cao về tất cả các mặt, qua tháp
trên ta thấy rằng thành tích của một môn thể thao này phụ thuộc rất nhiều vào
các yếu tố hình thái, thể lực, kỹ - chiến thuật, tâm - sinh lý và chức năng cơ
thể... khó đánh giá được yếu tố nào là quan trọng nhất bởi vì :
- Một là: Bóng đá là môn thể thao định tính, không có chu kỳ, hoạt
động theo tình huống, tính bất ngờ là điểm thú vị của môn thể thao này, vì
quả bóng luôn luôn tròn và mọi chuyện có thể xảy ra ngoài dự báo. Là môn



25

đối kháng trực tiếp thường xuyên có những va chạm ở tất cả các “điểm nóng”
trên khắp mặt sân.
- Hai là: Bóng đá là môn mà phong độ tỉ lệ nghịch với lứa tuổi đặc
điểm riêng biệt của từng cá nhân, từng vị trí trên sân. Đối với người mới tập
thì việc học kỹ thuật là phần quan trọng nhất. Các khía cạnh này có mối quan
hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, có thể biểu diễn mối quan hệ này theo
biểu đồ dưới đây.

Hình 2: Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành thành tích một môn thể
thao
Việc huấn luyện VĐV phải được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu VĐV
một cách tổng hợp và lựa chọn một số phương pháp kiểm tra như: phương
pháp sư phạm, y sinh, tâm lý, xã hội nhằm đảm bảo phát triển toàn diện cá
nhân vận động viên. Từ những quan điểm trên cho thấy, trong huấn luyện
VĐV bóng đá cần được xác định bởi các yếu tố đặc trưng sau: yếu tố hình
thái, chức năng tâm – sinh lý, kỹ - chiến thuật và thể lực. Sự tiến bộ của vận
động viên cần phải được nâng cao năng lực, chức phận cơ thể, chuyển biến về
chất, năng lực, kỹ năng, kỹ xảo vận động. Nhưng trong việc đánh giá, mà cụ
thể là trong thời gian ngắn một năm tập luyện là khoảng thời gian mà đề tài
tiến hành nghiên cứu thì những biến đổi ngoài hai yếu tố thể lực và kỹ thuật
thì các yếu tố còn lại là không rõ rệt. Trong mối quan hệ giữa hai yếu tố thể
lực và kỹ thuật thì thể lực là nền tảng ban đầu, vững chắc cho vận động viên


×