Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Liên kết câu trong đoạn văn nghị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.02 KB, 57 trang )

luan van,khoa luan, thac si , su pham 1document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Lời cảm ơn
Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này lời đầu tiên em xin gửi lời cảm
ơn chân thành tới cô giáo - Th.S. GVC Nguyễn Thi Thức đã trực tiếp hướng
dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ, các
thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, cùng
toàn thể các bạn sinh viên đã tạo điều kiện thuận lợi và đóng góp những ý kiến
quý báu để em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 04 năm 2007
Tác giả

Đỗ Thị Hiền

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1

tai lieu,dh su pham, luan van thac si1download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 2document,pdf,docx


Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Lời cam đoan
Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Th.S
GVC Nguyễn Thị Thức. Tôi xin cam đoan rằng:
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi có tham khảo một số tài liệu, nhưng
khoá luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi.

Hà Nội, ngày 8 tháng 05 năm 2007
Tác giả

Đỗ Thị Hiền

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2

tai lieu,dh su pham, luan van thac si2download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 3document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền


Phần Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi đoạn văn là một chỉnh thể thống nhất nhỏ nằm trong chỉnh thể
thống nhất lớn là văn bản. Tính chỉnh thể thống nhất ấy được tạo thành nhờ
các phương diện liên kết câu. Liên kết câu làm cho đoạn văn không phải là
phép cộng đơn thuần giữa các câu mà là một chỉnh thể có tổ chức. Để tạo lập
được một đoạn văn, một văn bản có tính thống nhất, có tính chỉnh thể thì
không thể thiếu yếu tố liên kết. Vì vậy, việc tìm hiểu về liên kết câu trong
đoạn văn luôn là vấn đề có ý nghĩa.
Trong khi viết văn cũng như trong thực tế giao tiếp nhiều người do chưa
hiểu một cách đầy đủ về các phương diện liên kết nên đã không biết vận dụng
linh hoạt các phương diện liên kết, không phát huy được vai trò và chức năng
của chúng một cách đầy đủ và toàn diện để xây dựng văn bản, tạo nên tính
mạch lạc cho văn bản. Hệ quả tất yếu là dẫn đến nhiều lỗi trong diễn đạt, nội
dung cần diễn đạt nhiều khi mơ hồ không rõ nghĩa.
Chính vì vậy, với đề tài Liên kết câu trong đoạn văn nghị luận
chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu về các phương diện liên kết câu trong đoạn
văn nhằm nắm được rõ hơn bản chất cũng như vai trò của các phương tiện liên
kết trong việc xây dựng đoạn văn và tạo lập văn bản.
Việc thực hiện đề tài này nhằm trang bị cho bản thân hành trang tri thức
để bước vào nghề vững vàng hơn, tự tin hơn, đặc biệt giúp cho việc giảng dạy
môn Ngữ văn trong trường phổ thông.
Hiện nay, chất lượng viết văn của học sinh có phần ngày càng giảm sút.
Các nhà ngôn ngữ học và giáo viên dạy văn đều có một nhận xét chung:
nguyên nhân chính của tình trạng này là do các em chưa biết viết đoạn văn,
bài văn mạch lạc và logic. Vấn đề đặt ra cho giáo viên dạy văn là phải tìm
cách khắc phục hiện tượng này.

Trường ĐHSP Hà Nội 2


3

tai lieu,dh su pham, luan van thac si3download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 4document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Với đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hy vọng trên cơ sở nghiên cứu
những kiến thức lý thuyết và thông qua việc phân tích một số ví dụ cụ thể để
rút ra được những điều cần thiết, bổ ích cho việc giảng dạy sau này của bản
thân, góp phần nâng cao chất lượng học Ngữ văn, cũng như nâng cao khả năng
viết và diễn đạt của bản thân, bởi mỗi giáo viên dạy văn trước hết phải là một
nhà hùng biện.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề liên kết câu trong đoạn văn không phải là vấn đề mới mẻ, trong
khoảng những năm 40 của thế kỷ XX khi ngôn ngữ học văn bản đi tiếp quá
trình thứ hai vượt qua khỏi giới hạn câu để đến với cácđơn vị trên câu là ngữ
pháp văn bản thì vấn đề liên kết đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu và
hình thành lên cả một hệ thống kiến thức trong việc xác định bản chất cũng
như vai trò và chức năng của các phương diện liên kết câu.
Theo các nhà nghiên cứu: Đoạn văn không phải là phép cộng đơn thuần
của các câu. Giữa các câu trong đoạn văn có những sợi dây liên kết quan hệ
chặt chẽ Những sợi dây này (K.Boxtơ viết vào năm 1949) kéo dài từ câu
nọ sang câu kia nhiều đến nỗi tạo nên một màng lưới dày đặc (...) trong đó

mỗi câu riêng biệt gắn bó chặt chẽ với những câu còn lại [1]
Hiện tượng này về sau được xem là một phát hiện mới, một thuộc tính
đặc thù chỉ có ở cấp độ trên câu.
Xuất phát từ những góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
học văn bản đã nêu bật một số đặc trưng của đoạn văn. Chẳng hạn, có tác giả
đưa lên đầu tính giao tiếp, tác giả nhấn mạnh tính hệ thống, tính hoàn chỉnh,
tính cân đối, tính logic... Có nhà nghiên cứu lại quan tâm nhiều đến mặt phong
cách, loại hình của đoạn văn... Song, tất cả giới nghiên cứu ngữ pháp văn bản
đều đi đến một kết luận cuối cùng: không thể hình dung văn bản đứng ngoài
tính liên kết, xét về mặt tổ chức, tính liên kết là đặc trưng cần yếu và
[1] Trần Ngọc Thêm Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt Nxb Giáo dục 2000

Trường ĐHSP Hà Nội 2

4

tai lieu,dh su pham, luan van thac si4download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 5document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

quan trọng nhất của đoạn văn, là điều kiện tối thiểu để xây dựng đoạn văn, để
tạo lập văn bản.
Các nhà nghiên cứu trước đây quan niệm: Tính liên kết chủ yếu chỉ hạn

chế ở những biểu hiện hình thức. Với cách hiểu như vậy, khái niệm tính liên
kết có ngoại diên quá rộng và không có khả năng đóng vai trò nhân tố quyết
định trong việc phân biệt đoạn văn có liên kết với chuỗi câu hỗn độn. Bởi ta có
thể dễ dàng tạo ra những chuỗi câu có đủ các dấu hiệu liên kết hình thức
nhưng không diễn đạt nội dung hoàn chỉnh nào.
Đi sâu vào tìm hiểu những đặc trưng của đoạn văn, các nhà nghiên cứu
ngày càng chú ý đến vai trò của liên kết ngữ nghĩa: X.I.Gridin (1972) rút ra
kết luận rằng: ở cấp độ trên câu, cú pháp được xây dựng trước hết trên cơ sở
sự phù hợp những đặc trưng ngữ nghĩa của các đơn vị thuộc cấp độ dưới [1]
Nói về sự tương tác giữa các cú pháp của câu với cú pháp của văn bản,
V.V.Bacđacnôp cũng nhấn mạnh rằng: Điều quan trọng là sự tương tác ấy
hoàn toàn trên cơ sở ngữ nghĩa.
Với sự bổ sung của liên kết ngữ nghĩa các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
học văn bản đưa ra hai hướng xử lý.
Hướng thứ nhất: Liên kết ngữ nghĩa hay chính là liên kết nội dung được
xem xét một cách tách biệt khỏi liên kết hình thức. Điều đó dẫn đến sự tách
rời hoàn toàn hình thức khỏi nội dung và khiến cho ngoại diên của khái niệm
tính liên kết càng trở nên rộng hơn, càng có thêm nhiều phi văn bản được
coi là văn bản. Ví dụ nhà nghiên cứu Tiệp Khắc K.Côgiupniôva đã thừa nhận
sự tồn tại của những văn bản có đủ các dấu hiệu của liên kết hình thức
nhưng không có sự liên kết tư tưởng tương ứng, và những văn bản liên kết
về tư tưởng trần trụi không có những dấu hiệu liên kết hình thức.
Hướng thứ hai tính liên kết được định nghĩa là sự gắn bó về nghĩa
và về hình thức của các yếu tố không nhỏ hơn câu trong văn bản, nghĩa là
[1] (Trần Ngọc Thêm Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, NXBGD 2000)

Trường ĐHSP Hà Nội 2

5


tai lieu,dh su pham, luan van thac si5download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 6document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

đòi hỏi văn bản nhất thiết phải có đầy đủ cả liên kết hình thức lẫn liên kết ngữ
nghĩa. Cách hiểu này tuy hiện đang được chấp nhận khá rộng rãi nhưng thực
chất lại rơi vào một thái cực mới. Từ chỗ quá rộng, nó lại trở thành quá chật,
không bao quát hết được các loại văn bản. A.A. Leonchep không thừa nhận
những đối thoại không nhằm vào một chủ đề, một mục đích nhất định là văn
bản mà phần lớn đối thoại đều như thế!. Nhà nghiên cứu Ba Lan
M.Maienova cũng không coi đối thoại là văn bản. Theo cách hiểu này cũng sẽ
không thể coi là văn bản hàng loạt những văn bản kịch phi lý đang thịnh
hành ở phương Tây. [1]
Liên kết nội dung là khái niệm thuộc loại khó định nghĩa. Nó được giải
quyết thông qua cách phân tích một số ví dụ rằng: Tất cả các câu trong đó
đều phối hợp cả các câu với nhau một cách hài hoà, bổ sung cho nhau để
thể hiện cùng một nội dung và khái niệm liên kết nội dung rộng hơn khái
niệm liên kết ngữ nghĩa. Liên kết nội dung chỉ được nhận ra trong mối
quan hệ với liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung
[2 ]
Theo Diệp Quan Ban: Liên kết nội dung sẽ được nhận biết rõ hơn thông
qua việc xem xét hai bình diện của nó là liên kết chủ đề và liên kết logic.
Với Trần Ngọc Thêm, Đỗ Hữu Châu liên kết hình thức và liên kết nội

dung của văn bản không chỉ giới hạn trong phạm vi giữa các phát ngôn mà nó
còn thể hiện ở mọi cấp độ có nghĩa khác: giữa các vế phát ngôn, giữa các đoạn
văn và đặc biệt là ở cấp độ giữa các câu trong một đoạn văn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Khi nghiên cứu Liên kết câu trong đoạn văn nghị luận, chúng tôi đi
sâu phân tích, tìm hiểu bản chất của các phương diện liên kết.
Dựa trên kết quả nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học đặc biệt là các
nhà ngôn ngữ học văn bản, chúng tôi hệ thống hoá lại các khái niệm, cách
[1], [2] (Trần Ngọc Thêm Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, 1985)

Trường ĐHSP Hà Nội 2

6

tai lieu,dh su pham, luan van thac si6download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 7document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

phân loại các phương diện liên kết, xem xét vai trò, chức năng liên kết của
chúng trong đoạn văn, trong văn bản. Qua đó, hình thành cho bản thân một
quan niệm, một vốn kiến thức về phương diện liên kết một cách cơ bản và có
hệ thống. Trên cơ sở lý thuyết, người viết đi phân tích một số ví dụ cụ thể để
thấy sự thể hiện của các phương diện liên kết trong đoạn văn.

4. Phạm vi nghiên cứu
Liên kết câu trong đoạn văn là vấn đề đa dạng, phong phú. Do vậy,
chúng tôi không thể phân tích, tìm hiểu nó ở từng đoạn văn của những văn bản
thuộc mọi phong cách khác nhau. Chúng tôi chỉ giới hạn phân tích các phương
diện liên kết câu trong đoạn văn thuộc thể loại văn bản nghị luận.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp hoá, hệ thống vấn đề.
Phương pháp phân tích ngôn ngữ.
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp ngữ liệu.
Phối hợp các phương pháp lập luận: quy nạp, diễn dịch

Trường ĐHSP Hà Nội 2

7

tai lieu,dh su pham, luan van thac si7download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 8document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Phần nội dung
Chương 1. Cơ sở lý luận
1.1.Khái quát về câu tiếng Việt
1.1.1. Quan niệm về câu cấu trúc

Câu là một hiện tượng đa dạng phong phú trong nghiên cứu ngôn ngữ.
Tuỳ theo những góc độ nghiên cứu khác nhau mà các nhà nghiên cứu đề xuất
những tiêu chí xác định câu khác nhau. Dưới đây là một số quan niệm về câu:
Ngôn ngữ học truyền thống quan niệm:
Câu là sự tổ hợp các từ biểu thị một tư tưởng trọn vẹn.
Blunphin viết: Câu là một hình thái ngôn ngữ độc lập không bị bao
hàm vào bất kỳ một hình thái ngôn ngữ nào phức tạp hơn, bởi một kiểu cấu
trúc ngữ pháp này hay một kiểu cấu trúc ngữ pháp nọ
Vinôgradôp viết : Câu là một đơn vị hoàn chỉnh của lời nói, được hình
thành về mặt ngữ pháp theo các quy luật của một ngôn ngữ nhất định làm
công cụ quan trọng đề giao tiếp. Trong câu không phải chỉ có sự truyền đạt
hiện thực mà còn có cả mối quan hệ đối với hiện thực.
Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt Nguyễn Tài Cẩn lại không nêu
thành định nghĩa, mà nêu những đặc trưng cơ bản của câu:
Khẳng định câu là một đơn vị của ngôn ngữ biểu thị một tư tưởng tương
đối trọn vẹn.
Câu không chỉ phản ánh hiện thực mà còn chứa đựng một sự đánh giá
hiện thực.
Câu có những đặc trưng bên ngoài là những tiểu từ tình thái dứt câu và
chỗ ngắt câu.
Câu có những đặc trưng bên trong là cấu trúc của nó.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

8

tai lieu,dh su pham, luan van thac si8download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn



luan van,khoa luan, thac si , su pham 9document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Quan niệm khác về câu: Câu là đơn vị nhỏ nhất của lời nói được dùng
từ hay đúng hơn là dùng ngữ mà cấu tạo nên trong quá trình tư duy, thông
báo, nó có nghĩa hoàn chỉnh có cấu tạo ngữ pháp và có tính chất độc lập.
[1]
Nguyễn Thị Thìn định nghĩa: Câu là một đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có
chức năng thông báo được dùng trong giao tiếp hàng ngày.
Trên đây là những quan niệm về câu tiếng Việt. Qua việc nghiên cứu và
đưa ra những quan niệm khác nhau về câu, cuối cùng các nhà nghiên cứu cũng
đưa ra một định nghĩa chung nhất về câu như sau:
Câu là một đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ chứa đựng một nội dung
thông báo tương đối hoàn chỉnh, được cấu tạo theo một quy tắc ngữ pháp
nhất định của một ngôn ngữ cụ thể và luôn luôn găn liền với một ngữ điệu
được dùng để giao tiếp và biểu hiện tư duy.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của câu
Về chức năng:
Câu là đơn vị ngôn ngữ có chức năng giao tiếp, hành vi thông báo là
hành vi quan trọng nhất của câu trong giao tiếp hàng ngày. Ngoài ra, câu còn
có thể được sử dụng để thực hiện nhiều hành vi ngôn ngữ khác.
Câu là đơn vị ngôn ngữ có chức năng biểu thị tư duy phán đoán, mọi
phán đoán đều được biểu thị bằng câu.
Phán đoán là một hình thức của tư duy nhằm nhận thức được hiện thực
khách quan, mỗi phán đoán đơn là sự liên hệ giữa một khái niệm về một đối
tượng được phán ánh, được ký hiệu là S với một khái niệm về thuộc tính của

đối tương được ký hiệu là P.
Như vậy, mỗi phán đoán đơn được tạo thành bởi hai bộ phận:
Chủ từ logic S: biểu thị đối tượng của nhận thức.
Vị từ logic P: biểu thị nội dung nhận thức về đối tượng. P có thể là một
[1] Nhiều tác giả - Ngữ pháp tiếng Việt 1983.Nxb Giáo dục.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

9

tai lieu,dh su pham, luan van thac si9download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 10document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

thuộc tính động hoặc thuộc tính tĩnh của đối tượng S.
Mối quan hệ giữa S và P có thể được thể hiện trực tiếp không cần quan
hệ từ, cũng có thể được thể hiện gián tiếp qua liên từ là trong trường hợp
khẳng định, và qua các từ ngữ phủ định không là trong trường hợp phủ định.
Phán đoán đơn được biểu thị bằng câu đơn hai thành phần chính:
Chủ ngữ (CN): Biểu thị đối tượng nhận thức S
Vị ngữ (VN): Biểu thị nội dung nhận thức P
Trong giao tiếp, câu còn được dùng để biểu thị những phán đoán phức:
Phán đoán phức là sự kết hợp giữa hai hay nhiều phán đoán đơn tạo thành,

phán đoán phức có thể được biểu thị bằng một câu đơn có một chủ ngữ và
nhiều vị ngữ, cũng có thể được biểu thị bằng một câu ghép có nhiều vế.
Ví dụ1: Bạn ấy vừa thông minh vừa chăm chỉ.
CN

VN1

VN2

Bạn A thì thông minh, bạn B thì chăm chỉ.
CN1

VN1

CN2

VN2

Đặc trưng về hình thức.
Thứ nhất: Về ngữ âm: Câu luôn luôn được gắn liền với một ngữ điệu
kết thúc khi nói, đó là sự hạ giọng hoặc lên cao giọng hơn ở cuối câu và một
quãng ngừng giọng trước khi chuyển sang một câu khác. Khi ngữ điệu dứt câu
chưa đủ rõ người ta có thể dựa thêm vào các tiêu chí khác: các trợ từ tình thái
cuối câu, các phó từ tình thái trong câu hoặc là sự diễn đạt một ý tương đối
trọn vẹn trong nội dung thông báo của câu. Khi viết thì câu được mở đầu bằng
một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một dấu ngắt câu.
Thứ hai: Về hình thức ngữ pháp: Mỗi câu có một cấu tạo ngữ pháp
hoàn chỉnh, và có tính chất độc lập (hiểu một cách tương đối). Câu là một kiểu
kiến trúc ngôn từ lớn nhất và các thành tố cấu tạo nên nó có sự phụ thuộc vào
nhau bởi những quan hệ ngữ pháp nhất định đã được ngữ pháp truyền thống

nhận định, đó là ba quan hệ ngữ pháp cơ bản:

Trường ĐHSP Hà Nội 2

10

tai lieu,dh su pham, luan van thac si10download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 11document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Chủ ngữ - vị ngữ: Quan hệ phụ thuộc hai chiều.
Chính - phụ: Quan hệ phụ thuộc một chiều
Đẳng lập: Quan hệ ngang hàng,bình đẳng.
Giữa các câu không có mối quan hệ ngữ pháp chặt chẽ như vậy, mỗi
câu là một đơn vị độc lập về mặt cấu tạo (hiểu theo nghĩa là câu nọ không làm
thành phần ngữ pháp của câu kia.). Mỗi thành tố trực tiếp cấu tạo thành câu
được đặc trưng bởi một chức năng ngữ pháp nhất định gọi là chức năng đảm
nhiệm thành phần câu như: chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ... Một câu được gọi là
đúng ngữ pháp (khi nó tách khỏi văn cảnh) là do cấu tạo nội tại của câu quyết
định.
Ví dụ 2:

Lao động là vinh quang. --> độc lập với ngữ cảnh.

CN

VN

Đó là điều rất quan trọng. --> phụ thuộc vào câu trước
Không được tỳ tay lên bàn --> Câu mệnh lệnh
Chú ý: Tính độc lập hoàn chỉnh về ngữ pháp của câu không đồng nghĩa
với sự biệt lập và hiểu theo nghĩa tương đối, khi câu nằm trong các đoạn văn
hay trong các văn bản thì nó bị sự chi phối bởi mối quan hệ giữa nó với các
câu đứng trước và sau nó để thực hiện nhiệm vụ triển khai chủ đề cho văn bản.
Đặc trưng về nội dung.
Nội dung của hầu hết các câu gồm hai thành phần nghĩa cơ bản.
Nghĩa biểu hiện: Là nghĩa phản ánh mối quan hệ giữa nội dung câu với
hiện thực được phản ánh, kí hiệu P
Thành phần nghĩa tình thái được ký hiệu là M: thể hiện mối quan hệ
của người nói đối với hiện thực khách quan được nói tới trong câu hoặc với
người nghe.
Nghĩa tình thái thể hiện hai nội dung:
Lập trường, thái độ, tình cảm, cảm xúc, quan hệ của người nói đối với
sự kiện được nói tới ở trong câu hoặc với người nghe.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

11

tai lieu,dh su pham, luan van thac si11download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn



luan van,khoa luan, thac si , su pham 12document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Hành vi ngôn ngữ ở lời: Mục đích phát ngôn của người nói.
1.1.3. Câu trong ngôn bản.
Câu tiếng Việt là một hiện tượng ngôn ngữ khá phong phú và phức tạp.
Để hiểu toàn diện hơn về câu tiếng Việt chúng ta không thể chỉ tìm hiểu ở
những câu văn rời, mà phải tìm hiểu câu trong mối quan hệ với đoạn văn, và
văn bản. Chúng ta đặt câu trong đoạn văn để tìm hiểu về mối quan hệ giữa các
câu trong đoạn, các phương diện liên kết câu thể hiện như thế nào? và trong
văn bản câu bị chi phối ra sao?
Chúng ta biết rằng ngôn bản có hai dạng: Dạng nói và dạng viết. Ngôn
bản nói chính là những giao tiếp hàng ngày của con người, đó là những đoạn
hội thoại, đối thoại trực tiếp hoặc gián tiếp bằng nhiều hình thức khác nhau.
Câu trong dạng nói thường ngắn gọn, xem xét câu trong ngôn bản nói
thường khó thấy được hết những chức năng, đặc điểm của câu và sự chi phối
của ngôn bản đối với câu.
Ví dục: Có đoạn đối thoại giữa A và B:
A hỏi B: Hôm nay là thứ mấy nhỉ?
B trả lời: Thứ năm.
A nói: Vậy đã cuối tuần đến nơi đấy!
Bạn có kế hoạch gì không?
B trả lời: ở nhà ngủ thôi. Kế hoạch gì?
Nếu chúng ta muốn tìm hiểu về câu trong ngôn bản nói thì đó là một
vấn đề khá phức tạp. Trong ngôn bản viết, câu biểu hiện cụ thể hơn, chịu sự
chi phối nhất định của ngôn bản.
Ví dụ: Chưa kể cái cảm xúc rất tinh vi khi nghe chiếc lá đa tiếng rơi

rất mỏng như là rơi nghiêng, cả bài thơ thật ngắn gọn, không thừa câu, rườm
chữ, mà rộng lớn một cách tự nhiên, không rườm gượng và khêu gợi rất giỏi.
Đây là một bút pháp người lớn.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

12

tai lieu,dh su pham, luan van thac si12download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 13document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Dưới đây là vài nét về những bài thơ em Khoa làm từ năm 1969 lại
đây.
(Xuân Diệu)
Sự có mặt của những câu trong đoạn văn chúng chi phối lẫn nhau. Câu
văn trên nói về đặc điểm thơ của em Khoa: tinh tế nhạy cảm với thiên nhiên.
Và câu sau là một kết luận về bút pháp thơ em Khoa. Nếu không có câu trước
thì không có kết luận ở câu sau đó.
Khi tìm hiểu câu trong ngôn bản cũng cần phân biệt hai khái niệm: câu
và phát ngôn.
Câu thường được dùng với hai nghĩa:
Nghĩa thông thường: Câu được hiểu là một câu nói cụ thể được gắn liền

với ngữ cảnh và cũng có thể tách rời ngữ cảnh.
Nghĩa thuật ngữ khoa học: Câu được hiểu là một câu nói cụ thể được
tách khỏi ngữ cảnh tồn tại và chứa đựng nội dung mệnh đề.
Phát ngôn: Thường được dùng với hai nghĩa.
Phát ngôn được hiểu như một sự phát ngôn, được coi như là một hành vi
ngôn ngữ, hành vi nói năng của con người, đó là hành động tạo ra lời nói và n
được thực hiện bằng chính việc phát ra những câu nói và không có ranh giới
xác định.
Phát ngôn được coi là lời phát ngôn, đó là chuỗi từ ngữ được phát ra, là
kết quả, sản phẩm của sự phát ngôn, nó có ranh giới xác định giữa hai quãng
ngắt hơi.
Như vậy, câu và phát ngôn có những điểm trùng nhau hoặc không trùng
nhau.
Câu là đơn vị của ngôn ngữ, nó có tính tái sinh, được nhắc đi nhắc lại
trong lời nói, là một khuôn hình ngữ pháp chung để từ đó có thể cấu tạo ra
nhiều phát ngôn cụ thể, nó là cái tương đối ổn định nằm trong các phát ngôn

Trường ĐHSP Hà Nội 2

13

tai lieu,dh su pham, luan van thac si13download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 14document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp


Đỗ Thị Hiền

cụ thể và chỉ được phát ra từ những phát ngôn cụ thể qua việc nghiên cứu
chúng. Câu là kết quả được rút ra từ quá trình phân tích các phát ngôn.
Phát ngôn: Là đơn vị của lời nói, không có tính tái sinh, để thể hiện
những nội dung mới, phát ngôn là những biến thể lời nói của câu, là biểu hiện
cụ thể, trực tiếp của câu trong từng hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Nó là một
hoạt động giao tiếp, một đơn vị thông báo mà người nghe có thể tiếp nhận
được trong hoạt động giao tiếp.
Quan hệ giữa câu và phát ngôn là quan hệ giữa cái chung và cái riêng,
cái khái quát và cái cụ thể.
1.2. Đoạn văn và liên kết câu trong đoạn văn.
1.2.1. Khái niệm đoạn văn.
Tên gọi đoạn văn trong tiếng Việt được dùng để chỉ nhiều khúc đoạn
khác nhau, chủ yếu là của văn bản viết.
Đứng trước câu hỏi Bài văn này chia làm mấy đoạn? có người trả lời
hai đoạn, có người trả lời ba đoạn. Thực ra sự phân đoạn như vậy là căn cứ vào
ý nghĩa chung trong văn bản để tìm ra những khúc đoạn ý lớn của văn bản đó.
Những phần như vậy nên gọi là đoạn ý để không gây nhầm lẫn.
Ví dụ:
Đến khi miêu tả thiên nhiên, cách nhìn của Xuân Hương cũng thật kỳ
lạ. Nó như có ma lực làm cho mọi vật sống lên, sôi động.(a)
Màu sắc dường như muốn thét lên. Tấm ván đẫm sương trên bờ giếng,
ánh sáng chiếu vào thì không chỉ trắng mà trắng phau phau cầu trắng phau
phau đôi ván ghép (Cái giếng). Trăng đang độ rằm, lúc mới lên trong trĩnh
như một quả cây lại vàng ửng như đã chín thì là chính rục, chín mõm mòm:
Một trái trăng thu chín mõm mòm (Trăng)... (b)
(Lê Trí Viễn Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương)
Hai khúc đoạn này có thể coi là hai đoạn văn hay không? Chúng ta thấy
rằng: Khúc đoạn a chỉ đóng vai trò như là câu chủ đề , câu chốt nói về cách


Trường ĐHSP Hà Nội 2

14

tai lieu,dh su pham, luan van thac si14download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 15document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Hồ Xuân Hương miêu tả thiên nhiên. Khúc đoạn b là sự chứng minh cho khúc
đoạn a. Vậy thì có thể coi đó là hai đoạn văn được không. Đây không phải là
hai đoạn văn, mà nó là hai đoạn ý của một đoạn văn hay chỉ là những đoạn ý
nhỏ của một đoạn văn.
Với tư cách là một bộ phận trong việc xem xét văn bản, tên gọi đoạn
văn cần được xác định chặt chẽ hơn.
Diệp Quang Ban quan niệm: Đoạn văn thông thường được hiểu là một
phần của văn bản tính từ chỗ viết hoa, thường lùi vào ở đầu dòng cho đến chỗ
dấu chấm xuống dòng.[ 1]
Trong cách hiểu này, đoạn văn thuộc về phương diện kết cấu phong
cách học.
Đoạn văn là một bộ phận của văn bản bao gồm một số câu liên kết với
nhau được xây dựng theo một cấu trúc nhất định và được thể hiện một tiểu chủ
đề của văn bản. Đoạn văn được tách ra bằng dấu hiệu hình thức: Bắt đầu bằng

chữ cái viết hoa lùi đầu dòng và kết thúc bằng chỗ chấm xuống dòng.
Đoạn văn là một đơn vị lớn hơn câu và nhỏ hơn văn bản những dung
lượng của nó cụ thể như thế nào thì không thể xác định được, chỉ có thể xác
định ranh giới của đoạn văn căn cứ vào chủ đề mà nó lựa chọn biểu hiện.
Một đặc điểm dễ nhận biết đoạn văn đó là dựa vào câu chủ đề, câu chủ
đề mang một nội dung thông tin chính, lời lẽ ngắn gọn, thường đầy đủ cả chủ
ngữ vị ngữ, câu chủ đề có thể đứng đầu hoặc cuối đoạn, có trường hợp xen
vào giữa đoạn. Câu chủ đề thường là câu tự nghĩa hay câu chủ ngôn.
1.2.2. Liên kết câu trong đoạn.
1.2.2.1. Khái niệm Liên kết.
Liên kết là thứ quan hệ nghĩa giữa hai yếu tố ngôn ngữ nằm trong hai câu
theo kiểu giải thích nghĩa cho nhau. Nói chi tiết hơn, liên kết là thứ quan hệ
nghĩa giữa hai yếu tố ngôn ngữ mà muốn hiểu nghĩa cụ thể của yếu tố này
[1]Diệp Quang Ban Giao tiếp văn bản, mạch lạc, liên kết, đoạn văn tr. 290

Trường ĐHSP Hà Nội 2

15

tai lieu,dh su pham, luan van thac si15download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 16document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền


thì phải tham khảo nghĩa của yếu kia và trên cơ sở đó hai câu chứa
chúng liên kết được với nhau.[1]
Văn bản hay là đoạn văn không phải là phép cộng đơn thuần của các
câu, tập hợp các câu chỉ được gọi là đoạn văn, văn bản khi giữa chúng có
những sợi dây liên kết chặt chẽ. Như vậy, để có được một đoạn văn, một văn
bản thì điều kiện đầu tiên là phải xem xét về tính liên kết giữa các câu.
Tính liên kết là mạng lưới các mối quan hệ, chính là mối quan hệ giữa
các từ, các câu và các đoạn.
Ví dụ: Cắm đi một mình trong đêm. Trận địa đại đội hai ở phía bãi
bồi bên một dòng sông. Hai bố con cùng viết đơn xin ra lính đi mặt trận. Mùa
thu hoạch lạc đã vào chặng cuối.
Ta thấy: Bốn câu trong ví dụ trên là bốn nội dung, không có liên quan
đến nhau, bốn câu này không có mạng lưới liên kết, không có mối quan hệ với
nhau. Chúng là bốn câu độc lập, không có liên quan với nhau về nội dung, ý
nghĩa, mỗi câu diễn đạt một nội dung khác nhau.
Tính liên kết là một điều kiện cơ bản để cho một chuỗi câu trở thành
đoạn văn, văn bản và nó làm cho đoạn văn, văn bản trở thành một thể thống
nhất chặt chẽ, một khối định hình về các mặt: nội dung, hình thức, và kết cấu.
Như vậy, các câu khi đi vào đoạn văn hoặc văn bản thì phải nằm trong
mạng lưới liên kết và tham gia sự duy trì liên kết, tách khỏi mạng lưới liên kết
các câu sẽ mất đi giá trị đích thực của nó. Vậy thì, trong đoạn văn liên kết có
vai trò và tác dụng như thế nào?
Liên kết có khả năng biến những câu tưởng như là sai ngữ pháp thành
những câu đúng và có giá trị thông báo, có giá trị nghệ thuật.
Liên kết có khả năng biến những kết hợp sai nghĩa thành những kết hợp
có thể chấp nhận được.
Liên kết có tác dụng nối kết câu với câu trong đoạn văn.
[1]Diệp Quang Ban Giao tiếp văn bản, mạch lạc, liên kết, đoạn văn tr. 290

Trường ĐHSP Hà Nội 2


16

tai lieu,dh su pham, luan van thac si16download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 17document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Liên kết có thể làm cho một chuỗi câu không có liên quan gì đến nhau
trở thành một bộ phận của văn bản.
1.2.2. Các phương diện liên kết trong đoạn văn
Liên kết được xem xét ở hai phương diện: Liên kết nội dung và liên kết
hình thức. Hai phương diện này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giữa hai
mặt liên kết nội dung và liên kết hình thức có mối quan hệ biện chứng chặt
chẽ: liên kết nội dung được thể hiện bằng hệ thống các phương thức liên kết
hình thức, và liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung
liên kết.[ 1]
Liên kết nội dung bao gồm: Liên kết chủ đề và liên kết logic nó là hai
mặt không thể tách rời trong phương diện này.
Liên kết hình thức, chúng ta tìm hiểu trên hai phương tiện chủ yếu: Các
phương tiện từ vựng và các phương tiện ngữ pháp dùng để liên kết câu.
Các phương tiện từ vựng dùng để liên kết câu:
Phép lặp từ vựng.
Lặp ngữ âm.

Sử dụng từ đồng nghĩa.
Sử dụng từ trái nghĩa
Sử dụng các từ có liên hệ liên tưởng
Sử dụng đại từ thay thế.
Phương tiện ngữ pháp để liên kết câu:
Phép nối.
Phép lặp ngữ pháp
Phép đối
Phép nêu câu hỏi
Phép tỉnh lược
Phép tuyến tính
[1] Trần Ngọc Thêm SĐD

Trường ĐHSP Hà Nội 2

17

tai lieu,dh su pham, luan van thac si17download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 18document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Chương 2
Các phương diện liên kết câu trong đoạn văn.

2.1. Liên kết nội dung:
Liên kết nội dung là sự móc nối ý nghĩa giữa các bộ phận trong văn bản
nhằm bộc lộ ý nghĩa chủ đề của văn bản.
Lý thuyết văn bản về liên kết bao gồm cả mặt liên kết hình thức lẫn mặt
liên kết nội dung là giai đoạn phát triển mới sau giai đoạn quan niệm liên kết
chỉ thuộc bề mặt hình thức. Liên kết nội dung và liên kết hình thức luôn là hai
mặt gắn bó mật thiết với nhau: tính liên kết chính là nhân tố quan trọng nhất
có tác dụng biến một chuỗi câu trở thành văn bản [1]. Vì vậy nói đến liên kết
hình thức không thể không nói đến liên kết nội dung.
Liên kết nội dung là khái niệm thuộc loại khó định nghĩa. Liên kết nội
dung chỉ được nhận ra trong mối quan hệ với liên kết hình thức: Liên kết nội
dung được thể hiện bằng một hệ thống các phương thức liên kết hình thức, và
liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung [2 ].
Liên kết nội dung sẽ được nhận biết rõ hơn thông qua việc xem xét hai
bình diện của nó: Liên kết chủ đề và liên kết logic.
2.1.1. Liên kết chủ đề.
Thuật ngữ chủ đề ở liên kết chủ đề được hiểu là: đề tài, vật, việc được
nói đến.
Liên kết chủ đề là sự liên kết các sự kiện, sự việc, các hiện tượng được
nêu ra trong văn bản và các câu liên kết với nhau để cùng nói đến một đối
tượng, một sự việc, một hiện tượng.
Liên kết chủ đề đòi hỏi toàn văn bản phải xoay quanh một chủ đề. Chủ
đề lớn có thể chia tách thành các tiểu chủ đề được thể hiện qua phần nêu của
các phát ngôn. Liên kết chủ đề chính là sự tổ chức những phần
nêu trong các phát ngôn.
[1], [2] Trần Ngọc Thêm Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt 1985

Trường ĐHSP Hà Nội 2

18


tai lieu,dh su pham, luan van thac si18download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 19document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Nói cách khác: Liên kết chủ đề là mối liên hệ giữa các ý trong văn bản
nhằm vào đối tượng chủ đề nhằm đảm bảo tính thống nhất về đối tượng của
văn bản.
Ví dụ1:
Đức hạnh với lòng kiên trinh, sức chịu đựng, nghị lực của phụ nữ trong
cuộc sống, từ lâu đã thành truyền thống. Cuộc đời đầy áp bức, bất công, giăng
giăng những trói buộc, khinh khi chỉ làm sắc thêm đức hạnh của người con gái
được rèn luyện trong lao động và thương đau. Hạt mưa, con thuyền là phía thở
dài, Bánh trôi nước mới là một sử thi trọn vẹn, dù chỉ mấy mươi chữ: Có
hiện thực khổ đau của hạt mưa, con thuyền, nhưng còn đức kiên trinh, còn
nghị lực, kể cả phản lực vượt lên cái khổ đau ấy. Tấm lòng son đó mới thật
quý. Chính nhờ nó mà có gia đình, có dạy con, nuôi chồng và lúc cần, cầm
gươm lên ngựa hoặc hy sinh như những Lệ Nương, An Tư thời xưa, Minh
Khai, Võ Thị Sáu... thời cách mạng.
(Giáo sư Lê Trí Viễn- Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, tr 22)
Chủ đề của đoạn văn: Nói về lòng kiên trinh, sức chịu đựng, nghị lực
của phụ nữ trong cuộc sống.
Liên kết chủ đề của đoạn văn thể hiện ở mối liên hệ giữa các sự kiện,

sự việc:
áp bức, bất công trong cuộc đời càng làm sắc thêm đức hạnh của người
con gái.
Nghị lực vượt lên khổ đau.
Tấm lòng son của người phụ nữ.
Có thể thực hiện việc liên kết chủ đề bằng hai cách:
Thứ nhất: Duy trì chủ đề, hiểu một cách đơn giản là nhắc lại cùng một
vật, một việc nào đó trong các câu có liên kết với nhau.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

19

tai lieu,dh su pham, luan van thac si19download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 20document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Ví dụ 2:
Con người Xuân Hương như đã biết: Một tính cách mãnh liệt, tha thiết
với những ngày yêu thương, đầm ấm trọn vẹn. Nhưng Xuân Hươngđã bị mất
mát những ngày tháng sôi động nhất của tuổi đáng được hưởng hạnh phúc. Có
lẽ lúc nhà thơ làm bài này tuổi đã xế. Một quãng đời đi qua trong xót xa. Nỗi
chua chát ấy hiện lên trong đêm, lúc tàn canh, giật mình... Thương thân trách

phận.
(Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương tr 44)
Các phép liên kết thường dùng để duy trì chủ đề gồm có: Lặp từ vựng,
thế đồng nghĩa, thế đại từ, tỉnh lược.
Các phép liên kết này có thể tạo ra một chuỗi chủ đề đồng nhất, cũng
tức là duy trì được một chủ đề qua chuỗi câu liên kết với nhau.
Thứ hai: Triển khai chủ đề, là cùng với một (hoặc vài) chủ đề đưa thêm
vào một hoặc những chủ đề (vật, việc) khác nữa có liên quan với chủ đề ban
đầu, theo tiêu chuẩn cần và đủ của logíc để đảm bảo cho các câu chứa chúng
liên kết được với nhau.
Ví dụ 3:
Phùng Khắc Khoan không có nhiều thơ văn tố cáo chiến tranh như
Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong khi tố cáo lại chủ yếu nhấn mạnh nhiều hơn tác
hại của chiến tranh đối với mình và tầng lớp trí thức, đó là chỗ hạn chế. Nhưng
cần thấy rằng tính chất phản chiến trong một số bài thơ, ý thư, ở một mức độ
nhất định dã biểu thị sự thông cảm của ông đối với nỗi đau khổ của nhân dân.
Niềm thông cảm ấy xuất phát từ lòng nhân ái của nhà thơ, một lòng nhân ái
giàu tinh thần nhân đạo mà trí thức yêu nước thời ấy đã tiếp thu được từ truyền
thống nhân đạo chủ nghĩa cao cả của dân tộc.
(Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII)
Triển khai chủ đề: Nói về tinh thần nhân đạo trong thơ Phùng Khắc
Khoan.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

20

tai lieu,dh su pham, luan van thac si20download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn



luan van,khoa luan, thac si , su pham 21document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Các phép liên kết cơ bản dùng để triển khai chủ đề gồm có: Phép liên
tưởng và phép đối. Với hai phép liên kết này có thể tạo ra chuỗi chủ đề khu
biệt, tức là chuỗi của những chủ đề (đề tài) khác biệt nhau.
Trong liên kết chủ đề cần lưu ý:
Các vật được diễn đạt bằng các danh từ, cụm danh từ xuất hiện trong
chuỗi câu liên kết nhau (cũng như trong toàn văn bản) đều có khả năng trở
thành chủ đề (đề tài) dùng cho liên kết chủ đề.
Các việc, hiện tượng, các tính chất được diễn đạt bằng động từ, tính từ,
cụm động từ, cụm tính từ hay một cụm chủ vị, cũng có thể trở thành chủ đề
trong liên kết chủ đề.
Trong việc xem xét liên kết chủ đề không nên dùng các thuật ngữ cú
pháp như chủ ngữ, bổ ngữ, vị ngữ, ... để tránh lúng túng trong việc xem xét
các liên hệ liên kết. Bởi vì trên thực tế những thuật ngữ ấy chỉ được xác định
bên trong một câu đơn, chúng không có tác dụng nhiều trong việc liên kết câu,
còn ở liên kết chủ đề thì có thể nói là chúng không có tác dụng liên kết.
2.1.2. Liên kết logic
ở liên kết logic sự chú ý tập trung vào phần nêu đặc trưng của vật, việc
được nói tới. Có thể xem xét liên kết logic ở hai phạm vi rộng hẹp khác nhau:
Bên trong một câu và giữa câu với câu (hoặc rộng hơn: giữa cụm câu này với
cụm câu khác).
Liên kết logic là sợi dây nối kết hợp lý giữa vật, việc với đặc trưng của
chúng trong một câu và giữa đặc trưng này với đặc trưng kia trong những câu

liên kết với nhau.
Ví dụ:
Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên
là ánh trăng lừa dối. Nó có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp
lầm than.
(Trăng sáng Nam Cao)

Trường ĐHSP Hà Nội 2

21

tai lieu,dh su pham, luan van thac si21download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 22document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Đặc trưng của nghệ thuật là phản ánh hiện thực nó hãy thực hiện đúng
đặc trưng đó mà không nên bị gán ghép với một đặc trưng nào khác không
hợp lý.
Qua việc xem xét liên kết nội dung theo hai phương diện: liên kết chủ
đề và liên kết logic, chúng ta hiểu được tầm quan trọng của liên kết nội dung
trong việc làm cho một chuỗi câu trở thành văn bản.
Nếu liên kết chủ chủ đề được tạo ra bởi mối liên kết giữa các sự vật thì
liên kết logic chủ yếu được tạo ra bởi hành động, trạng thái, tính chất của các

sự vật đó. Sự liên kết logic có thể quy về một số kiểu như sau: Quan hệ nhân
quả, quan hệ bao hàm, quan hệ nhượng bộ, quan hệ đồng nhất, quan hệ móc
xích, quan hệ so sánh, quan hệ loại suy.
2.2. Liên kết hình thức.
Liên kết hình thức là Hệ thống các phương thức liên kết hình thức, và
những cái được liên kết với nhau trong văn bản là các câu (phát ngôn).
Liên kết hình thức là các phương tiện vật chất để nối kết các câu trong
đoạn văn, trong văn bản. Liên kết hình thưc rất phong phú nó có thể là liên kết
trực tiếp, liên kết cách bức, liên kết bắc cầu hoặc có thể là những phép thế,
phép nối, phép lặp,...
Liên kết hình thức chủ yếu được thực hiện bằng hai phương tiện:
Phương tiện từ vựng và phương tiện ngữ pháp sử dụng để liên kết câu.
Phương tiện liên kết là các yếu tố hình thức cụ thể của ngôn ngữ tham
gia vào việc tạo ra sự nối kết giữa các câu với nhau. Phương tiện liên kết là
những yếu tố ngôn ngữ cụ thể được dùng trong việc nối kết câu với câu.[1 ]
2.2.1. Các phương tiện từ vựng dùng để liên kết câu.
2.2.1.1. Phép lặp từ vựng.
Phép lặp từ vựng là một dạng thức của phương thức lặp mà ở đó chủ tố
lặp và lặp tố là những yếu tố từ vựng (từ thực, cụm từ). [ 2]
[11 Diệp Quang Ban. SĐD
[2] Trần Ngọc Thêm SĐD

Trường ĐHSP Hà Nội 2

22

tai lieu,dh su pham, luan van thac si22download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn



luan van,khoa luan, thac si , su pham 23document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

Lặp từ vựng là dạng thức liên kết phổ biến nhất trong văn bản. Hiện
tượng lặp từ vựng phổ biến đến mức giữa nó và tính liên kết của văn bản tồn
tại một mối quan hệ hai chiều.
Trước hết, ở một văn bản có liên kết, tất yếu phải có lặp từ vựng. Đây là
hậu quả do mâu thuẫn giữa tính hình tuyến của văn bản và tính nhiều chiều
của hiện thực gây ra. Bởi lẽ các đối tượng của hiện thực luôn nằm trong những
mối quan hệ đa dạng khác nhau và được xem xét từ nhiều góc độ. Để thể hiện
được những mỗi quan hệ ấy và những góc độ cần xem xét ấy trong một văn
bản hình tuyến, bắt buộc đối tượng phải xuất hiện nhiều lần, tên gọi của đối
tượng phải lặp lại. ở bất kỳ một chuỗi câu nào, nếu đã có lặp từ vựng thì sự
liên kết cũng xuất hiện. Nếu hai câu có chứa những từ được lặp lại thì chắc
hẳn chúng cùng bàn về một chủ đề. Như vậy, lặp từ vựng là một dạng thức
liên kết dùng để thể hiện liên kết chủ đề của văn bản.
Ví dụ1:
Một phản đề dễ hiểu thêm lòng yêu sự sống ở Xuân Hương là những
lời tâm sự trước cái chết . Có cái chết bên hàng xóm láng giềng. Nhiều kẻ
chết, nhiều kiểu chết. Nhưng Xuân Hương chỉ quan tâm mỗi một cảnh chết
chồng. ấy là Xuân Hương có quan điểm rành rọt của mình. Chết nào cũng mất
mát đau thương. Chết chồng mới là mối đau khổ nhất của người phụ nữ. Và
thường tình phụ nữ là nhiều nước mắt, nhiều tiếng khóc nhất. Lấy gì để
khuyên giải? không một gương người nào có thể có hiệu lực lau nước mắt cho
họ được. Dùng trí khôn của sự sống vậy. Nào: người ta khóc tràn ra đó, giàu
thì khóc bằng ma chay linh đình, khóc bằng thầy tu, bằng vàng mã, nghèo thì

quả trứng, lưng cơm liệm sấp chôn nghiêng... nhưng rồi ít lâu ai cũng trở lại
lao động bình thường lao động thì lo làm, lo ăn, lo con, lo cái. Khóc thì phải
nhưng hơi đâu khóc mãi.
(Giáo sư Lê Trí Viễn Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương)

Trường ĐHSP Hà Nội 2

23

tai lieu,dh su pham, luan van thac si23download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 24document,pdf,docx

Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

ở đoạn văn trên tác giả đã sử dụng phép lặp từ vựng, nhấn mạnh khắc
sâu vấn đề: Xuân Hương nói về cái chết để khẳng định lòng yêu cuộc sốngcủa
mình.
Ví dụ 2:
Nhưng nếu Kiều là một người yếu đuối thì Từ là kẻ hùng mạnh, Kiều
là một người tủi nhục thì Từ là kẻ vinh quang. ở trong cuộc sống, mỗi bước
chân Kiều đều vấp phải mọi bất chắc thì trên quãng đường ngang dọc, từ
không hề gặp khó khăn. Suốt cuộc đời, Kiều sống chịu đựng, Từ sống bất
bình. Kiều quen tiếng khóc, Từ quen tiếng cười. Kiều đội trên đầu nào trung
nào hiếu thì trên đầu Từ chỉ là một khoảng trống không Nào biết trên đầu

có ai. Nếu Kiều lê lết trên mặt đất đầy những éo le trói buộc thì Từ vùng vẫy
trên cao phóng túng tự do.Kiều là hiện thân của mối mặc cảm tự ti, còn Từ là
nguyên hình của mối mặc cảm tự tôn.
( Vũ Hạnh)
Lặp từ vựng: Kiều- Từ. Đây là một điều bắt buộc vì đoạn văn nói về hai
nhân vật này. Đó là những lời nhận định về hai nhân vật văn học.
Trong đoạn văn này tác giả sử dụng phép lặp như một thủ pháp nghệ
thuật, dùng để so sánh, nhấn mạnh.
Lặp cả cặp quan hệ từ nếu- thì nhấn mạnh vấn đề muốn nói: Sự
ngang trái cơ cực trong cuộc đời Kiều. Sự đối lập giữa cuộc đời của Kiều và
cuộc đời của Từ Hải.
Về mặt sử dụng: Phép lặp từ vựng có khả năng truyền cho văn bản tính
chính xác, rõ ràng, chặt chẽ. Chính vì vậy mà nó được dùng phổ biến để lặp
các thuật ngữ trong văn bản khoa học, văn bản hành chính, và một phần trong
văn bản chính luận.
Đối với các loại từ không phải thuật ngữ và đối với các loại văn bản
khác, thì phải tránh lặp từ vựng vì sự xuất hiện của nó quá nhiều gây lên cảm
giác đơn điệu, nhàm chán, hiện tượng này rất phổ biến trong các bài làm của

Trường ĐHSP Hà Nội 2

24

tai lieu,dh su pham, luan van thac si24download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


luan van,khoa luan, thac si , su pham 25document,pdf,docx


Khoá luận tốt nghiệp

Đỗ Thị Hiền

học sinh. Để khắc phục lỗi lặp từ thì cần cố gắng đạt đến sự đa dạng, phong
phú của văn bản bằng cách dùng các phương thức liên kết khác để thay thế
cho nó, ví dụ như: các phép thế, các phép tỉnh lược.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp lặp từ vựng vẫn có thể được sử dụng
như một thủ pháp nghệ thuật trong các văn bản văn học.
2.2.1.2. Phép lặp ngữ âm.
Không chỉ có phép lặp từ vựng mới co tác dụng liên kết, mà lặp ngữ âm
cũng có tác dụng liên kết các phát ngôn.
Phép lặp ngữ âm là một dạng thức của phương thức lặp thể hiện ở việc
lặp lại trong kết ngôn những yếu tố như: (âm tiết, số lượng,âm tiết, khuôn vần,
phụ âm đầu, thanh điệu) đã có ở chủ ngôn.[1]
Phép lặp ngữ âm như một dạng thức liên kết phát ngôn được sử dụng
trong mọi loại văn bản, và nó được thể thiện rõ nhất trong các loại văn vần.
Trong văn vần, các phương tiện liên kết lặp ngữ âm đều được sử dụng,
tuy nhiên lặp số lượng âm tiết được sử dụng nhiều hơn cả.
Ví dụ:
Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng lên thành đồng Tổ
quốc ! và sông Hồng bất khuất có cái chông tre
(Thép mới Cây Tre)
Trong các đoạn văn nghị luận ít xuất hiện phép lặp ngữ âm hơn. Do tính
chất lập luận của văn nghị luận đòi hỏi sự chính xác, logic, thuyết phục chứ
không phải sự vần vè.
Ngoài việc dùng để liên kết câu, lặp ngữ âm còn đem lại cho văn xuôi
tiếng Việt tính nhịp điệu, tính nhạc, tính thơ rất rõ rệt.

[1] Trần Ngọc Thêm - SĐD


Trường ĐHSP Hà Nội 2

25

tai lieu,dh su pham, luan van thac si25download,bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc

K29 H Ngữ Văn


×