Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

tiểu luận trẻ chậm phát triển trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.55 KB, 51 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam số lượng trẻ em chậm phát
triển trí tuệ (CPTTT) ngày càng gia tăng. Trẻ em CPTTT là một trong những đối
tượng đặc biệt cần nghiên cứu của tâm lý học. Việc nghiên cứu về tâm lý trẻ
CPTTT giúp ích rất nhiều cho các bậc phụ huynh, thầy cô giáo trong việc phát
hiện sớm những dấu hiệu bất thường của con trẻ cũng như có những chương
trình, kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ CPTTT một cách đặc thù và hợp lý để
1


giúp các em trở nên độc lập hơn, dễ thích ứng với các môi trường xã hội hơn,
không còn quá phụ thuộc vào người khác và không trở thành gánh nặng của xã
hội. Bên cạnh đó việc có những kiến thức cơ bản về trẻ CPTTT sẽ giúp cộng
đồng, xã hội có những nhìn nhận đúng đắn, sự cảm thông và không kì thị đối với
nhóm trẻ CPTTT – vốn đã chịu nhiều thiệt thòi từ khi sinh ra cũng như thức tỉnh
ý thức trách nhiệm cộng đồng trong việc chung tay nâng đỡ nhóm đối tượng đặc
biệt này để giúp xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ và nhân ái hơn.

PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát về trẻ CPTTT
1.1. Khái niệm
1.1.1. Thuật ngữ trẻ CPTTT
Trước đây ở nước ta, đặc biệt là ở phía Bắc những trẻ CPTTT thường
được gọi là “trẻ chậm khôn”, thuật ngữ này được sử dụng đầu tiên tại Trung tâm
nghiên cứu tâm lý trẻ em (NT) của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện.
2


Thuật ngữ “chậm phát triển tâm thần” cũng được sử dụng trong nhiều tài


liệu tiếng Anh và tiếng Việt. Trong tiếng Anh thuật ngữ đó là “Mental
Retardation”. Hiệp hội chậm phát triển trí tuệ Mỹ (AAMR) và các tác giả của
cuốn Sổ tay thống kê – chẩn đoán những rối nhiễu tâm thần IV (DSM - IV) sử
dụng thuật ngữ này.
Hiện nay, trên thế giới có xu hướng sử dụng thuật ngữ ít mang tính kì thị
hơn đối với các khuyết tật: trẻ ngoại lệ, trẻ có khó khăn về học tập, trẻ có khuyết
tật về phát triển, trẻ có nhu cầu đặc biệt,… Những cách sử dụng này nhằm tránh
ảnh hưởng tiêu cực của những thuật ngữ “chậm phát triển trí tuệ” hoặc “chậm
phát triển tâm thần” vì những thuật ngữ này có thể làm cha mẹ trả cảm thấy
buồn, trẻ dễ bị các bạn trêu chọc và giáo viên ít tin tưởng vào khả năng học tập
của trẻ.
Những lí giải trên của các nhà khoa học về nhiều khía cạnh cũng có lí do
thỏa đáng, nhưng có những thuật ngữ như “trẻ giảm khả năng” lại quá chung
chung, bởi lẽ “trẻ giảm khả năng” không chỉ có trẻ CPTTT mà còn có các trẻ
khuyết tật khác.
Hầu hết những người chưa bao giờ gặp người CPTTT đều cho rằng người
CPTTT là những người khác biệt. Trong thực tế, nhận định này hoàn toàn không
đúng. Người CPTTT sống cùng trong một xã hội với người bình thường, khi
đường ranh giới CPTTT được vạch ra thì nó đã tách những người này ra khỏi
những người không bị coi là CPTTT. Đây là việc làm hoàn toàn mang tính
chuyên môn.
Xem xét trên những mặt chung nhất, người CPTTT hoàn toàn không khác
những người không CPTTT. Những người bị gán tên CPTTT và những người
không bị gán tên gọi này đều có suy nghĩ, tình cảm, nguyện vọng,… Nhưng nếu
kết luận người CPTTT không có gì khác biệt so với mọi người thì lại cực đoan.
3


Mặc dù người bị gán nhãn CPTTT có nhiều điểm giống với người không
CPTTT, nhưng nói chung họ vẫn khác với phần đông mọi người. Đó là những

vấn đề cần nghiên cứu và lí giải.
Ngay trong nhóm người CPTTT cũng cần thận trọng, tránh kết luận đơn
giản rằng tất cả những người CPTTT đều giống nhau bởi vì những người CPTTT
cũng khác nhau (về mức độ CPTTT).
Trên thế giới hiện nay có hai thuật ngữ được sử dụng phổ biến là “Metal
Retaration” do Hiệp hội chậm phát triển trí tuệ Mỹ lựa chọn và “Intelectual
Disability” do tổ chức nghiên cứu khoa học quốc tế về CPTTT (IASSID) lựa
chọn.
1.1.2. Những cách nhìn nhận về CPTTT
1.1.2.1. Khái niệm CPTTT dựa trên trắc nghiệm trí tuệ
Hai tác giả người Pháp là Afred Simon và Theodore Simon là những
người đầu tiên phát minh ra trắc nghiệm trí tuệ vào đầu thế kỷ XX. Mục đích của
trắc nghiệm này là để phân biệt trẻ em bình thường học kém và trẻ em học kém
do CPTTT. Sau khi ra đời nó đã được các nhà tâm lý học Mỹ chú ý và được lấy
làm cơ sở cho nhiều trắc nghiệm trí tuệ khác.
Từ khi trắc nghiệm trí tuệ ra đời, qua nhiều năm nghiên cứu, đại đa số các
chuyên gia đã thống nhất sử dụng trắc nghiệm trí tuệ để xác định CPTTT. Theo
họ những người có chỉ số trí tuệ dưới 70 là CPTTT.
Sử dụng trắc nghiệm trí tuệ để chẩn đoán CPTTT có ưu điểm là khách
quan, đáng tin cậy và dễ thực hiện, đặc biệt là trong trường hợp cần đánh giá,
phân loại nhanh. Tuy nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định
như:

4


- Chỉ số trí tuệ không phải là đơn vị đo lường duy nhất về tiềm năng trí tuệ của
con người.
- Không phải lúc nào kết quả chẩn đoán trên trắc nghiệm trí tuệ cũng tương ứng
với khả năng thích ứng của cá nhân trong thực tế. Có nhiều trường hợp trẻ đạt

chỉ số trí tuệ thấp nhưng lại thích ứng dễ dàng với môi trường.
Nhược điểm lớn nhất khi xác định trẻ CPTTT theo phương pháp này là
trắc nghiệm trí tuệ ít có hiệu quả với trẻ em nghèo và trẻ em có nguồn gốc văn
hóa khác nhau. Như vậy để đánh giá xác thực và toàn diện cần phải dựa vào
nguồn gốc văn hóa, hoàn cảnh địa lý, kinh tế, xã hội.
1.1.2.2. Khái niệm CPTTT dựa trên cơ sở khiếm khuyết về khả năng điều
chỉnh xã hội
Theo Benda – người có quan điểm dựa trên khả năng thích ứng của cá
nhân: “Một người CPTTT là người không có khả năng điều khiển bản thân mình
và cần đến sự chăm sóc của cộng đồng”.
Khái niệm này cho rằng những người CPTTT trong quá trình phát triển và
trưởng thành sẽ không đạt được cuộc sống độc lập. Đồng thời cách tiếp cận này
có những nhược điểm là:
- Một cá nhân có thể bị coi là CPTTT trong môi trường này nhưng lại không gặp
khó khăn trong môi trường khác. Ví dụ như một người cảm thấy học Toán hay
Tiếng Việt thì khó nhưng lại có thể thích nghi tốt nếu sống ở nông thôn hoặc làm
công việc đồng án.
- Khó xác định thế nào là một trẻ chưa thích ứng được vì các chuyên gia chưa
thống nhất được thế nào là một trẻ thích ứng được. Hiện nay các chuyên gia
đang thiết kế một số thang đo thích ứng như trắc nghiệm trí tuệ.

5


- Khả năng thích ứng kém không chỉ do CPTTT mà còn do nhiều nguyên nhân
khác gây nên những thiếu hụt về hành vi thích ứng. Ví dụ như nhiều người do
hụt hẫng về tình cảm đã ảnh hưởng đến khả năng độc lập của họ.
1.1.2.3. Khái niệm CPTTT dựa vào nguyên nhân gây ra CPTTT
Theo quan điểm dựa vào nguyên nhân gây ra CPTTT, Luria cho rằng:
“Trẻ CPTTT là trẻ mắc bệnh về não rất nặng khi còn trong bào thai hoặc nhưng

năm tháng đầu đời. Bệnh này cản trở sự phát triển của não, do vậy nó gây ra sự
phát triển không bình thường về tinh thần. Trẻ CPTTT dễ dàng được nhận ra do
khả năng lĩnh hội ý tưởng và khả năng tiếp nhận thực tế bị hạn chế.”
Việc phân loại trẻ CPTTT dựa trên nguyên nhân có giá trị thực tiễn đặc
biệt là trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ. Tuy nhiên khó khăn thường gặp
trong việc phân loại theo cách này là tính đa dạng của nguyên nhân. Hơn nữa, có
nhiều trẻ em và người lớn CPTTT nhưng lại không phát hiện được những khiếm
khuyết trong hệ thần kinh của họ (khoảng 1/3 người CPTTT không phát hiện ra
nguyên nhân gây CPTTT).
1.1.2.4. Khái niệm CPTTT theo Sổ tay chẩn đoán và thống kê rối nhiễu tâm
thần IV (DSM – IV)
Theo DSM – IV, tiêu chuẩn chẩn đoán CPTTT bao gồm:
A. Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình: Chỉ số trí tuệ đạt gần 70 trên một lần
thực hiện trắc nghiệm cá nhân.
B. Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết hai trong số những hành vi thích ứng sau:
giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kỹ năng xã hội/liên cá nhân, sử dụng
tiện ích công cộng, tự định hướng, kỹ năng học đường chức năng, lao động, giải
trí, sức khỏe và an toàn.
C. Hiện tượng CPTTT xuất hiện trước 18 tuổi.
6


Như vậy, theo DSM – IV, đặc điểm cơ bản của khuyết tật là hoạt động trí
tuệ dưới mức trung bình (Tiêu chí A), bị hạn chế đáng kể hai trong số những
hành vi thích ứng được đề cập ở trên (Tiêu chí B), khuyết tật xuất hiện trước 18
tuổi (Tiêu chí C).
Chức năng trí tuệ tổng quát là chỉ số trí tuệ (IQ) đo được qua một hoặc
hơn một trắc nghiệm cá nhân về trí tuệ. Độ chênh lệch cao nhất trong quá trình
xác định chỉ số trí tuệ là 5 điểm, kể cả khi công cụ đo có những đặc điểm khác
biệt nhất định. Do vậy vẫn có thể chẩn đoán những người khiếm khuyết về hành

vi xã hội và có chỉ số trí tuệ dao động từ 70 – 75 là người CPTTT. Ngược lại một
số người có chỉ số trí tuệ thấp hơn 70 nhưng lại ít bị khiếm khuyết và thiếu hụt
về khả năng thích ứng thì không bị coi là CPTTT.
Ngoài chỉ số trí tuệ thấp, khả năng thích ứng kém thường là triệu chứng
của cá nhân CPTTT. Khả năng thích ứng là khả năng đáp ứng những đòi hỏi
chung của cuộc sống và mức độ đáp ứng tiêu chuẩn độc lập cá nhân, tiêu chuẩn
mà một người cùng tuổi đạt được trong cùng một hoàn cảnh văn hóa và môi
trường cộng đồng.
Khả năng thích ứng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau như
giáo dục, động cơ, đặc điểm nhân cách, rối loạn tinh thần và những vấn đề sức
khỏe; các yếu tố này có thể xuất hiện cùng với CPTTT.

1.1.2.5. Khái niệm CPTTT theo Hiệp hội Chậm phát triển trí tuệ Mỹ
(AAMR) năm 1992
Theo AAMR – 1992, CPTTT là những hạn chế lớn về khả năng thực hiện
chức năng, đặc điểm của nó là:
- Hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình.
7


- Hạn chế về hai hoặc nhiều hơn những kỹ năng tự thích ứng như: kỹ năng giao
tiếp, tự phục vụ, sống tại gia đình, sử dụng các tiện ích công cộng, tự định
hướng, sức khỏe, an toàn, kỹ năng học đường chức năng, giải trí, lao động.
- Hiện tượng CPTTT xuất hiện trước 18 tuổi.
Theo AAMR, đặc điểm cơ bản của CPTTT được biểu thị ở hoạt động trí
tuệ dưới mức trung bình, điều này xác định khi chỉ số trí tuệ cá nhân chỉ đạt từ
70 – 75 hoặc thấp hơn, chỉ số trí tuệ được đo thông qua một hoặc hơn một trắc
nghiệm, đồng thời phải thông qua một nhóm chuyên gia, phù hợp với các trắc
nghiệm bổ sung cũng như phù hợp với thông tin đánh giá.
Hạn chế về trí tuệ xảy ra đồng thời với hạn chế khả năng thích ứng, trên cơ

sở đó ta biết được hạn chế chung và giảm bớt khả năng sai số trong quá trình
chẩn đoán.
Mười lĩnh vực kỹ năng thích ứng (giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia
đình, kỹ năng xã hội, sử dụng các phương tiện công cộng, sức khoẻ, an toàn, tự
định hướng, kỹ năng học đường chức năng, giải trí và lao động).
18 tuổi là điểm mốc đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của một cá nhân
trong xã hội. Theo AAMR, CPTTT không phải là cái mà bạn có như mắt, mũi
hay một trái tim yếu đuối; nó cũng không phải là hình thức gầy hay thấp; CPTTT
cũng không phải là sự rối loạn về y học hoặc rối loạn về tinh thần; CPTTT là tình
trạng đặc biệt về chức năng bắt đầu xuất hiện từ khi trẻ còn nhỏ và được biểu
hiện ở sự hạn chế về trí tuệ và khả năng thích ứng.
AAMR nhấn mạnh 4 yếu tố cần phải cân nhắc khi áp dụng khái niệm này:
1. Một sự đánh giá hiệu quả phải tính đến sự đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ,
cũng như sự khác biệt về yếu tố giao tiếp hành vi.

8


2. Sự hạn chế về kỹ năng thích ứng xảy ra trong hoàn cảnh môi trường đặc trưng
cho tuổi đồng trang lứa và thể hiện rõ nhu cầu cần thể hiện của người đó.
3. Với sự hỗ trợ thích hợp trong khoảng thời gian thích hợp, khả năng thực hiện
chức năng cuộc sống của người CPTTT nói chung sẽ được cải thiện.
4. Xã hội có trách nhiệm hỗ trợ để trẻ khuyết tật có khả năng hòa nhập cộng
đồng. Hệ thống hỗ trợ người CPTTT về nhiều dịch vụ và điều phối phù hợp với
người khuyết tật. Nếu người khuyết tật càng nặng thì mức độ hỗ trợ càng cao để
người đó có thể hòa nhập vào cộng đồng một cách tối đa.
Cho đến nay khái niệm CPTTT được sử dụng rộng rãi trên thế giới và ở
Việt Nam là khái niệm CPTTT theo bảng phân loại DSM – IV và khái niệm
CPTTT theo bảng phân loại AAMR năm 1992. Hai định nghĩa này đều sử dụng
các tiêu chí cơ bản giống nhau là hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình, hạn chế

về kỹ năng thích ứng và khuyết tật xuất hiện trước năm 18 tuổi. Sự khác nhau
giữa hai định nghĩa này là DSM – IV sử dụng chỉ số trí tuệ làm tiêu chí xác định
CPTTT còn theo bảng phân loại AAMR sử dụng khả năng thích ứng xã hội để
phân loại mức độ CPTTT.

1.2. Phân loại mức độ CPTTT
Theo bảng phân loại DSM – IV có 4 mức độ CPTTT như sau:
1. CPTTT mức độ nhẹ: chỉ số IQ từ 50 – 55 đến xấp xỉ 70
2. CPTTT mức độ trung bình: chỉ số IQ từ 35 – 40 đến 50 – 55
3. CPTTT mức độ nặng: chỉ số IQ từ 20 -25 đến 35 – 40.
9


4. CPTTT mức độ rất nặng: chỉ số IQ dưới 20 – 25.
1.2.1. Trẻ CPTTT mức độ nhẹ
Trẻ CPTTT mức độ nhẹ có thể đạt tuổi trí tuệ từ 7 – 12 (IQ từ 50 – 55 đến
khoảng 70). Theo Piaget đây là giai đoạn thao tác cụ thể. Trẻ giải quyết vấn đề
bằng tư duy logic nhưng vẫn chưa thể suy nghĩ theo cách trừu tượng. Trong giai
đoạn trước khi đến trường (0 – 5 tuổi), chúng phát triển kỹ năng giao tiếp và xã
hội. Trẻ có những khuyết tật nhỏ trong vận động cảm giác và thường không phân
biệt được với những trẻ không bị CPTTT. Đến cuối thời kì thanh thiếu niên
chúng có thể đạt được kỹ năng học tập ở mức độ xấp xỉ với lớp 6. Chúng cần
được dạy những môn cơ bản tại trường ở mức độ tối đa mà khả năng chúng cho
phép. Trẻ CPTTT nhẹ có khả năng thể hiện mình trong các hoạt động chọn bạn,
cách ăn mặc, các hoạt động giải trí… Khi đã thành người lớn chúng thường đạt
được kỹ năng xã hội và nghề phù hợp cho việc tự hỗ trợ bản thân ở mức tối thiểu
nhưng vẫn cần có người giám sát và giúp đỡ, đặc biệt khi chúng chịu những sức
ép từ kinh tế hoặc tình cảm bất thường (trẻ thường dễ bị tổn thương bởi vấn đề
tình cảm). Khi được trợ giúp phù hợp, người lớn CPTTT có thể sống khá ổn
trong cộng đồng, một cách độc lập hoặc tại những nơi có giám sát.

1.2.2. Trẻ CPTTT ở mức trung bình
Trẻ CPTTT ở mức trung bình có thể đạt tuổi trí tuệ từ 4 – 7 (IQ từ 35 - 40
đến 50 -55). Theo Piaget trẻ CPTTT trung bình ở vào giai đoạn tiền tư duy logic.
Chúng có thể xây dựng những khái niệm hữu ích dựa vào kinh nghiệm nhưng
chủ yếu chúng vẫn quan tâm đến những trải nghiệm trực tiếp thông qua tiếp
nhận. Chúng thường cố gắng giải quyết vấn đề bằng nguyên tắc thử và sai. Hầu
hết trẻ có kỹ năng giao tiếp trong những năm đầu của thời kì thơ ấu. Khi lớn lên
trẻ CPTTT trung bình có khả năng đưa ra quyết định nhưng chúng cần được giúp
đỡ. Người lớn giúp trẻ bằng cách chỉ cho chúng những lựa chọn khác nhau và
10


cùng chúng tìm hiểu kết quả. Trẻ có thể thảo luận về những nguyên tắc và quyết
định. Người lớn nên có thái độ cởi mở đối với những ý kiến của trẻ và phải có
khả năng thay đổi các nguyên tắc nhằm đáp ứng nhu cầu của chúng. Điều quan
trọng đối với trẻ là khi trẻ lớn lên, trẻ phải cảm thấy mình có nhiều quyền hạn
hơn trong cuộc sống của mình. Tại trường trẻ có thể phát triển qua mức lớp hai.
Chúng có thể thu được kết quả từ quá trình dạy và hướng dẫn các kỹ năng nghề,
kỹ năng xã hội. Ở một chừng mực nhất định, chúng có thể chịu trách nhiệm với
một số nhiệm vụ cụ thể. Chúng trải nghiệm niềm vui khi thành công đồng thời
cũng trải nghiệm thất bại. Nỗi thất bại có thể cản trở hoạt động của chúng. Trẻ
CPTTT trung bình có thể học để đi lại độc lập trong những địa điểm quen thuộc.
Ở thời kỳ thanh thiếu niên, những khó khăn trong việc nhận ra những quy tắc xã
hội thông thường có thể cản trở mối quan hệ bạn bè. Khi lớn lên, phần lớn trẻ có
thể thực hiện những công việc không đòi hỏi nhiều kỹ năng dưới sự giám sát tại
các xưởng làm việc riêng hay trong hoạt động lao động chung (như lắp ráp, đóng
gói đơn giản). Chúng thích nghi tốt với cuộc sống trong cộng đồng, thường là
những nơi có giám sát.
1.2.3. Trẻ CPTTT mức độ nặng
Trẻ CPTTT mức độ nặng sẽ đạt tuổi trí tuệ giữa 2 và 4 (IQ từ 20 – 25 đến

35 – 40). Theo lý thuyết của Piaget, đây là giai đoạn tiền thao tác trong quá trình
phát triển. Trong những năm đầu thời kỳ thơ ấu, trẻ CPTTT nặng không phát
triển hoặc ít phát triển ngôn ngữ nói. Khi lớn lên, chúng có thể học nói nhưng
giao tiếp vẫn rất đơn giản. Trẻ CPTTT nặng có thể tư duy liên kết theo kiểu “cái
này đi với cái kia” (ví dụ cái chén đi với đôi đũa) và kiểu “cái này rồi đến cái
kia” (ví dụ mẹ lấy mũ rồi chúng ta sẽ đi chơi) nhưng không có khả năng tư duy ở
dạng phán đoán xem điều gì sẽ xảy ra trong những tình huống mới. Những kỹ
năng của chúng không dựa nhiều trên sự hiểu biết về bản chất của sự vật mà chủ
yếu dựa trên trình tự của hành động mà chúng đã được dạy kỹ lưỡng. Chúng
11


quen với những chuỗi hành động (đầu tiên ra khỏi giường sau đó đi đánh răng rồi
ăn sáng) nên chúng sẽ rất lúng túng khi một mắc xích trong chuỗi bị đứt đoạn vì
một lí do không biết trước. Trẻ thậm chí có thể hoảng sợ vì chúng không biết
cách ứng phó với tình huống mới. Trẻ CPTTT nặng có thể phát triển tốt trong
một chương trình hằng ngày có tổ chức, trong những quy tắc ổn định và trong
những tình huống dễ nhận ra. Sự lặp lại và tính quen thuộc có thể dần đưa đến sự
hiểu bản chất sự vật. Mặt khác, chúng ta cần phải cẩn thận để không gây cho trẻ
sự buồn tẻ, chán nản. Tình trạng đồng bộ hóa quá mức có thể đưa đến sự cứng
nhắc. Bằng cách mang đến cho trẻ một sự đa dạng nhất định, trẻ có thể mở rộng
kinh nghiệm. Mặc dù trẻ CPTTT nặng vẫn có khả năng phân biệt giữa bản thân
và người khác nhưng trẻ không thể đặt mình vào vị trí của người khác, thực tế trẻ
vẫn có thái độ coi bản thân mình là trung tâm. Trẻ CPTTT nặng có thể được
huấn luyện về những kỹ năng tự chăm sóc bản thân cơ bản. Chúng chỉ thu nhận
được ở mức độ hạn chế từ những chỉ dẫn trong các môn học tiền học đường, ví
dụ như nhận mặt chữ cái hoặc đếm đơn giản. Khi lớn lên chúng có thể thực hiện
những kỹ năng đơn giản ở môi trường được giám sát chặt chẽ. Hầu hết chúng có
thể thích nghi tốt với cuộc sống cộng đồng, trong nhà tập thể hoặc tại nhà mình,
trừ khi chúng có những khuyết tật đòi hỏi cần được chăm sóc đặc biệt.

1.2.4. Trẻ CPTTT mức rất nặng
Trẻ CPTTT mức rất nặng sẽ đạt tuổi trí tuệ từ 0 – 2 tuổi (IQ < 20 – 25).
Hầu hết trẻ được chẩn đoán là CPTTT mức rất nặng đều có vấn đề về thần kinh,
đây được coi là nguyên nhân gây ra CPTTT. Trong những năm đầu của thời kỳ
thơ ấu, trẻ có thể hiện khuyết tật nặng về vận động, nghe và nhìn. Rất nhiều
trong số những trẻ này bị động kinh. Theo Piaget, trẻ CPTTT mức độ rất nặng có
sự phát triển ở giai đoạn cảm giác – vận động. Nhận thức của trẻ về thế giới
xung quanh chỉ hạn chế ở những gì trẻ nhận được thông qua cảm giác và những
hoạt động vận động. Ban đầu, chỉ những gì mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy,
12


ngửi thấy hoặc nếm thấy trực tiếp thì mới tồn tại; còn những gì trẻ không thể
nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy, ngửi thấy thì không tồn tại. Dựa vào những kinh
nghiệm lặp lại và trí nhớ trẻ dần dần có khả năng liên kết giữa các kinh nghiệm,
trẻ bắt đầu tư duy theo kiểu liên kết. Một trong những nhận thức liên kết đầu tiên
mà trẻ có là liên hệ về sự xuất hiện của những người trông trẻ với việc trẻ được
ăn. Trẻ CPTTT rất nặng thể hiện ý thích khám phá môi trường của mình và thể
hiện những trò chơi phối hợp và trò chơi thể hiện chức năng. Trò chơi phối hợp
tay mắt là trò chơi trong đó đứa trẻ chơi với dồ chơi bằng cách sờ vào chúng, bỏ
vào miệng, gõ chúng xuống sàn,…Trong những trò chơi phối hợp, trẻ phối hợp
hai đồ vật đó với nhau như đập khối hộp vào nhau hoặc đặt một khối hộp lên trên
khối kia. Trò chơi thể hiện chức năng là trò chơi mà trẻ bắt đầu sử dụng những
vật liệu đúng cách, ví dụ như chơi với một chiếc ô tô đồ chơi bằng cách lái ô tô
đi quanh sàn. Ngoài ra còn có một vài trò chơi giả vờ với những với những đồ
chơi dạng bản sao hoặc mô hình. Dựa trên cách trẻ phát triển, trẻ có thể trưởng
thành thêm trong nhận thức về sự tồn tại của đồ vật. Trẻ CPTTT phụ thuộc nhiều
vào những người khác, không chỉ vấn đề về chăm sóc mà còn về các trải nghiệm.
Sự phát triển tối đa có thể diễn ra trong một môi trường có tổ chức cao với sự
giúp đỡ, giám sát liên tục và quan hệ đã được cá nhân hóa giữa trẻ với người

trông nom. Sự phát triển vận động, các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự lực có thể
được cải thiện nếu trẻ nhận được hướng dẫn và tập luyện hợp lý. Một vài trẻ có
thể thực hiện những nhiệm vụ đơn giản ở những môi trường được giám sát chặt
chẽ.

1.3. Nguyên nhân gây CPTTT
1.3.1. Nguyên nhân trước khi sinh
Những yếu tố nội sinh:


- Lỗi nhiễm sắc thể: gây hội chứng Down, Turmer, Cri - du - chat. Đây là nguyên
nhân phổ biến nhất gây CPTTT. Những trẻ mắc phải hội chứng này, chúng ta có
thể quan sát được những rối loạn bên ngoài bằng mắt thường.
- Lỗi gen: gây bệnh PKU, chứng u xơ dạng củ, Rett,…
- Rối loạn nhiều yếu tố: nứt đốt sống, thiếu một phần não, tràn dịch màng não,
tật đầu nhỏ, rối loạn chức năng tuyến giáp.
Các yếu tố ngoại sinh:
- Do lây nhiễm khi bà mẹ mang thai: Sởi Rubella – sởi Đức, vi-rút cự bào, giang
mai, HIV,…
- Do nhiễm độc: nhiễm độc từ mẹ dùng thuốc động kinh, rượu cồn, chụp tia X –
quang, chất độc màu da cam, đối kháng nhóm máu RH.
- Do suy dinh dưỡng ở người mẹ, thiếu I - ốt trong thức ăn hoặc nước uống.
1.3.2. Những nguyên nhân trong khi sinh
- Thiếu oxy ở trẻ: do sinh quá lâu, do nhau thai, trẻ không thở hoặc không khóc
ngay sau khi sinh.
- Tổn thương trong lúc sinh: tổn thương não do mẹ đẻ khó hoặc do dụng cụ y tế
hỗ trợ khi sinh (do dùng forceps để kéo đầu trẻ).
- Đẻ non hoặc nhẹ cân: thời gian mang thai của bà mẹ đủ nhưng trọng lượng của
đứa trẻ lại thiếu.


1.3.3. Những nguyên nhân sau khi sinh
- Viêm nhiễm: viêm màng não gây ra do bệnh sởi, ho gà, quai bị, thủy đậu, viêm
phổi.
14


- Tổn thương não: do chấn thương ở đầu, do ngạt hoặc tổn thương do các bệnh u
não hay do tác động của chỉnh trị: phẫu thuật, dùng tia phóng xạ,…
- Nguyên nhân môi trường sống
+ Không được chăm sóc đầy đủ về y tế và thể chất: thiếu dinh dưỡng, suy dinh
dưỡng dẫn đến suy giảm chức năng của não, không tiêm phòng đầy đủ.
+ Thiếu hụt về tâm lý xã hội: thiếu sự chăm sóc nhạy cảm, không được khuyến
khích hoặc bị khiếm khuyết về các giác quan, kích thích quá mạnh, bị bỏ rơi
hoặc bị lạm dụng.
+ Trong gia đình việc sử dụng ngôn ngữ bị hạn chế, sử dụng những câu ngắn
hoặc những câu có vốn từ vựng bị giới hạn.
+ Ít có cơ hội đến trường.
+ Cuộc sống của trẻ bị người khác áp đặt, định đoạt; trẻ không thể tự kiểm soát
được cuộc sống của mình, thiếu tự tin dẫn đến việc học kém ở trường.
1.4. Một số vấn đề thể chất và tâm thần liên quan đến CPTTT
1.4.1. Những dạng khuyết tật thường xảy ra đồng thời với CPTTT
1.4.1.1. Khiếm thính
Trẻ khiếm thính là trẻ khó nghe hoặc điếc. Khiếm thính có thể do nhiều
nguyên nhân: nguyên nhân trước sinh (các bệnh truyền nhiễm, Rubella, giang
mai; dùng thuốc có hại cho sự phát triển tai của bào thai,…); trong khi sinh
(thiếu oxy, dùng dụng cụ y tế forceps để kéo đầu trẻ ra,…) hoặc sau khi sinh
(bệnh tật, tai nạn,…).
1.4.1.2. Khiếm thị
Trẻ khiếm thị là những trẻ nhìn kém hoặc bị mù. Nói cách khác, khiếm thị
là mức độ sắc nét của thị lực ngay cả khi có kính là từ 5% - 30%. Thị lực thông

15


thường dao động trong khoảng 30% - 100%. Trong tình trạng mù thị lực dưới
5%.
Khiếm thị thường xảy ra do các vấn đề liên quan về mắt: bị khúc xạ (viễn
thị, cận thị); đục thủy tinh thể; bị lác; chứng giật cầu mắt; tổn thương võng mạc;
teo dây thần kinh thị giác; tổn thương não; mắt nhỏ hơn mức bình thường.
1.4.1.3. Khó khăn về vận động
Một trẻ bị khó khăn về vận động là trẻ bị yếu tay, chân, lưng, cổ hoặc do
đau làm trẻ không cử động được. Đối với trẻ lớn không thể cầm một vật, không
thể cúi xuống nhặt vật lên, không thể đi bộ 10 mét.
Các dạng tật vận động:
- Bại, liệt 1 tay
- Bại, liệt 2 tay
- Bại, liệt 1 chân
- Bại, liệt 2 chân
- Bại, liệt nửa người
- Bại, liệt tứ chi
- Thiếu, thừa ngón tay
- Ngắn chi, cụt chi
- Bệnh cơ, xương, khớp
- Bàn chân khoèo
Nguyên nhân:
- Do bệnh: bại liệt, bại não, viêm khớp, viêm cơ, bệnh xương.
16


- Do tai nạn: chấn thương, sang chấn sau sinh.
- Do bẩm sinh.

Cách phát hiện các dạng tật vận động ở trẻ:
- Trẻ nằm ngửa những không giơ được hai tay lên.
- Trẻ không thể giữ vật nhỏ trong tay, không thể đưa một vật vào miệng.
- Trẻ không thể dùng hai tay để nắm giữ đồ vật.
- Trẻ không thể lật từ ngửa sang sấp và ngược lại.
- Trẻ không tự ngồi một mình, ngồi hay bị ngã.
- Trẻ không thể tự uống được bằng cốc.
- Trẻ không nhặt được vật nhỏ.
- Trẻ không tự bò, không tự đứng.
- Trẻ không thể tự ăn.
- Trẻ không biết cởi quần áo.
- Trẻ không thể tự bỏ vật vào hộp và tự lấy ra.
- Trẻ không thể xếp đồ vật lại với nhau và tách ra.
- Trẻ không thể tự đi và chạy một mình.
- Trẻ không xuống cầu thang và không có khả năng leo trèo.
- Trẻ không có khả năng nhảy, không đá bóng được.

1.4.2. Những bệnh thường thấy ở trẻ CPTTT
1.4.2.1. Bại não
17


Bại não là một tình trạng gây tàn tật cho trẻ em có nguyên nhân từ não.
Chứng tật này do não bị tổn thương trước khi sinh, trong khi sinh hoặc sau khi
sinh cho đến 5 tuổi. Dạng tật này gây ảnh hưởng đến các tư thế tự nhiên và hoạt
động bình thường của trẻ. Trẻ có thể mềm nhũn, toàn thân co cứng hoặc vận
động không tự chủ.
Bại não không phải là bệnh tiếp diễn, tổn thương não chỉ xảy ra một lần và
không bị xấu đi. Bại não không nặng thêm nhưng cũng không phải là bệnh có thể
chữa khỏi. Những trẻ em bị bại não sẽ phải mang tật suốt đời. Bại não không lây

lan và người ta không phải vì già mà mắc chứng bại não.
1.4.2.2. Động kinh
Động kinh là cơn mất ý thức ngắn, định hình, đột ngột có khuynh hướng
tái phát theo chu kỳ, khi lên cơn có thể không kiểm soát được.
Các cơn động kinh: trẻ ngã xuống bất cứ lúc nào, bất kì nơi nào ngay cả
khi ngủ, co giật chân tay nhịp nhàng, mắt trợn ngược, sùi bọt mép, rối loạn đại
tiểu tiện, cơn nặng có thể hôn mê.
20% người bị động kinh là do tổn thương thùy não, trường hợp này gọi là
“động kinh có triệu chứng”. 80% còn lại không hề có tổn thương não và thông
thường có thể hoạt động một cách bình thường, trường hợp này gọi là “động
kinh nguyên phát”.
Nhiều nhà khoa học nghiên cứu các kích thích gây nên cơn động kinh, các
nhân tố thường được đề cập đến là thiếu ngủ, kiệt sức, stress, xúc động mạnh sau
khi tập thể dục, hiện tượng kinh nguyệt, hít thở mạnh, thay đổi nhiệt độ, tiếng ồn,
các luồng ánh sáng thay đổi,…

18


Trong dân cư cứ 150 người thì có 1 người bị mắc động kinh, khoảng 0.5 –
1%. Trong những người CPTTT, 30% bị động kinh và cứ 20 người bị động kinh
thì có một người bị CPTTT.
1.4.3. Các dạng rối loạn tâm thần thường xảy ra với CPTTT
1.4.3.1. Tự kỷ
Leo Kanner, một nhà tâm thần học người Mỹ thuộc bệnh viện John
Hopkins ở Baltimore, lần đầu tiên đã nhận dạng tự kỷ vào năm 1943. Ông đã mô
tả những điểm đặc biệt của một đứa trẻ 11 tuổi như: khó phát triển quan hệ với
mọi người, chậm nói và không có khả năng sử dụng ngôn ngữ khi đã nói được,
hành vi trùng lặp và rập khuôn, thiếu trí tưởng tượng giỏi học vẹt, bị ám ảnh đối
với sự trùng lặp, diện mạo bên ngoài vẫn bình thường. Kanner gọi tình trạng mới

phát hiện là sự tự kỷ thời kỳ ấu nhi (early infantile autism), nguồn gốc thuật ngữ
từ tiếng Hy Lạp “auto” – có nghĩa là tự mình (bởi vì những trẻ này dường như
tự kiềm hãm mình bên trong). Đến nay đã biết thêm nhiều điều về bệnh tự kỷ.
Rối loạn tự kỷ đôi khi được gọi là sự tự kỷ thời kỳ ấu nhi, sự tự kỷ thời kỳ trẻ thơ
hoặc sự tự kỷ Kanner.
*Tiêu chí chuẩn đoán rối loạn tự kỷ
Trong cuốn “Sổ tay chẩn đoán và thống kê những rối nhiễu tâm thần IV”
đã đưa ra những tiêu chí chẩn đoán rối loạn tự kỷ như sau:
A. Một tập hợp gồm sáu hoặc nhiều hơn các tiêu chí (1), (2), (3) và trong đó có ít
nhất hai tiêu chí từ nhóm (1) và một tiêu chí từ nhóm (2) và (3).
(1) Giảm khả năng định tính trong giao tiếp thể hiện ít nhất ở hai trong số các
biểu hiện sau:

19


a. Giảm khả năng rõ rệt trong việc sử dụng các hành vi phi ngôn ngữ đa dạng
như ánh mắt, nét mặt, các tư thế của cơ thể và các cử chỉ để tạo các liên hệ mang
tính xã hội.
b. Không có khả năng xây dựng mối quan hệ với các bạn đồng trang lứa phù hợp
với mức độ phát triển.
c. Thiếu đòi hỏi tự nhiên đối với việc chia sẻ niềm vui, sở thích/mối quan tâm
hay các thành tích đạt được với người khác (ví dụ như không biết cầm hay chỉ
cho người khác thứ mà mình thích).
d. Thiếu sự trao đổi qua lại về tình cảm xã hội.
(2) Giảm khả năng định tính trong giao tiếp thể hiện ở ít nhất một trong số các
biểu hiện sau:
a. Chậm hoặc hoàn toàn không phát triển kỹ năng nói (không có ham muốn bù
đắp lại hạn chế này bằng cách giao tiếp khác, ví dụ như những cử chỉ, điệu bộ
thuộc kịch câm).

b. Với những cá nhân nói được thì lại suy giảm khả năng thiết lập và duy trì đối
thoại.
c. Sử dụng ngôn ngữ trùng lặp/rập khuôn hoặc sử dụng ngôn ngữ khác thường.
d. Thiếu những hoạt động/cách chơi đa dạng và đóng vai có chủ ý; thiếu hoạt
động/cách chơi bắt chước mang tính xã hội phù hợp với mức độ phát triển.
(3) Những kiểu hành vi, những mối quan tâm và hoạt động lặp lại hoặc rập
khuôn thể hiện ở ít nhất một trong những biểu hiện sau:
a. Quá bận tâm tới một hoặc một số mối quan hệ có tính rập khuôn và bó hẹp với
một mức độ tập trung hoặc cường độ bất thường.

20


b. Gắn kết cứng nhắc với những thủ tục hoặc nghi thức riêng biệt và không mang
tính chức năng.
c. Có những vận động mang tính lặp lại, rập khuôn (ví dụ gõ tay hoặc vặn tay).
d. Bận tâm dai dẳng đối với những bộ phận của vật thể.
B. Chậm hoặc thực hiện không bình thường ít nhất ở một trong số các lĩnh vực
sau, với mốc khởi đầu trước tuổi lên ba:
(1) Tương tác xã hội
(2) Sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội
(3) Chơi/hoạt động mang tính biểu tượng hoặc tưởng tượng.
C. Hội chứng không phải do Rett hay bất hòa nhập thời kì thơ ấu.
Như vậy những đặc điểm để chẩn đoán rối loạn tự kỷ chính là sự xuất hiện
tình trạng phát triển đặc biệt bất thường hoặc khuyết tật trong phối hợp và giao
tiếp xã hội cũng như sự xuất hiện của tập hợp các hành động và sở thích đặc biệt
hạn hẹp. Dạng biểu hiện của tình trạng rối loạn này rất khác nhau, phụ thuộc vào
mức độ phát triển và tuổi của cá nhân.
*Phân loại và nguyên nhân
Thực tế không phải trẻ nào mắc bệnh tự kỷ cũng như nhau. Thông thường

người ta phân thành 3 nhón tự kỷ:
Nhóm không phản ứng: hoàn toàn từ chối giao tiếp.
Nhóm thụ động: chấp nhận giao tiếp nhưng không bao giờ chủ động.
Nhóm chủ động nhưng kì quặc: tạo ra sự giao tiếp một cách kì dị.
Đã có những thay đổi sâu sắc trong nhận thức về nguyên nhân gây ra tự
kỷ. Trong những nghiên cứu ban đầu, Kanner cho rằng cha mẹ trẻ tự kỷ quá bận
21


tâm công việc mà mất đi quan tâm đối với con mình. Các bậc cha mẹ này thường
là người thành đạt, có địa vị cao trong xã hội nhưng lại rất “lạnh lùng”. Lý luận
này đã tác động rất tiêu cực đến các bậc cha mẹ.
Ngày nay người ta đã thống nhất rằng nguyên nhân của tự kỷ là sự biến
đổi bất thường trong quá trình phát triển của não hoặc bởi tổn thương não. Vì
nguy cơ mắc rối loạn tự kỷ ở anh, chị, em của cá nhân có rối loạn này đang ngày
càng gia tăng nên người ta cho rằng có thể do yếu tố di truyền.
*Cách trẻ tự kỷ hiểu về thế giới và những vấn đề liên quan đến tự kỷ
Cách trẻ tự kỷ hiểu về thế giới: Một đứa trẻ tự kỷ sẽ có khả năng trong
việc hiểu những kích thích đến với nó (những gì nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy,
nếm thấy và cảm thấy). Chúng rất khó hiểu được ý nghĩa thông tin, khó loại bỏ
các kích thích không liên quan, khó liên kết các thông tin và khó khái quát thông
tin (ví dụ kinh nghiệm về cái ghế cho thấy không phải cái gì giống cái ghế đều là
cái ghế). Rất nhiều thứ mà một đứa trẻ tự kỷ trải nghiệm là mới mẻ với nó. Thế
giới đối với trẻ tự kỷ là hỗn loạn và rời rạc. Vì vậy rất nhiều trẻ tự kỷ tìm kiếm
sự an toàn cho mình bằng việc lặp lại những hành động tương tự nhau hoặc tìm
cách khác để trốn tránh thực tại (ví dụ như bịt tai lại).
Những vấn đề hành vi: khi trẻ bị tự kỷ, những vấn đề về hành vi có thể
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới rối loạn tự kỷ. Những vấn đề hành vi
thường gặp ở trẻ tự kỷ là: ăn không bình thường (chỉ ăn một số loại thức ăn, ví
dụ cơm với trứng), khó khăn về ngủ, tâm trạng bất thường (ví dụ khóc hoặc cười

mà không rõ lí do), thiếu cảm giác sự khi nguy hiểm thực sự, quá sợ hãi trước
những vật vô hại, có nhiều hành vi làm đau bản thân (tự cấu véo mình, tự đánh
mình).
Những vấn đề thể chất: có xuất hiện những tai biến động kinh (nhất là ở
thiếu niên), tỷ lệ trung bình khoảng 25%.
22


*Mức độ phổ biến và đánh giá trẻ tự kỷ
Cứ trong 10 000 trẻ thì có 2 – 5 trẻ tự kỷ (tỉ lệ 1 nữ/4 nam). Trong hầu hết
các trường hợp (khoảng 75%) bệnh tự kỷ đi kèm với những chẩn đoán về
CPTTT, thường ở mức độ trung bình (IQ từ 35 – 50). Những kỹ năng nhận thức
của trẻ cũng không cân bằng, ví dụ trẻ có thể có kỹ năng vận động tốt nhưng lại
không có kỹ năng ngôn ngữ.
1.4.3.2. Rối loạn quá hiếu động/giảm chú ý
Trong các lớp học có trẻ CPTTT, ta thường gặp các trẻ thường làm cho
giáo viên rất bực mình. Đó là những trẻ quá hiếu động, khó tập trung vào bất kì
thứ gì, luôn theo đuổi những cảm xúc bột phát, và chỉ muốn làm hết việc này đến
việc khác. Đó là những trẻ quá hiếu động/giảm tập trung (AD/HD).
AD/HD được chia thành các dạng:
- Dạng giảm tập trung là chủ yếu: Đứa trẻ có vấn đề tập trung ở lớp và thường
đãng trí, xao nhãng.
- Dạng hiếu động – hấp tấp: Bao gồm những trẻ không ngồi yên, nói quá nhiều
và khó có thể chơi đùa một cách yên lặng.
- Dạng liên kết: là những trẻ có cả những đặc điểm của tình trạng giảm tập trung
lẫn quá hiếu động – hấp tấp.
2. Đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ CPTTT
2.1. Đặc trưng của trẻ CPTTT trong những năm đầu tiên
Trong những năm đầu tiên ở trẻ CPTTT thường xuất hiện những dấu hiện
khác thường về mặt cảm xúc, trẻ dễ bị kích động hoặc ngược lại trẻ ù lì, trẻ khó

hình thành hứng thú và các động cơ hoạt động xã hội.

23


Ở nhiều trẻ CPTTT có sự rối loạn cả trong phát triển thể chất, biến dạng
của hình dáng hộp sọ và kích thước tay chân, sự rối loạn bộ máy cấu âm, sự khó
khăn trong việc hình thành khả năng vận động.
Khi mắc chứng thiểu năng trí tuệ thì sự suy yếu bên trong não bộ không
mang tính chất tiến triển. Tác động của các nhân tố có hại phần lớn đã dừng lại
và trẻ vẫn có thể có được sự phát triển tuân theo quy luật của sự hình thành tâm
lý. Tuy nhiên sự phát triển này có những đặc điểm riêng của mình. Những đặc
điểm đó bị gây ra bởi loại hình rối loạn này (thuật ngữ “thiểu năng trí tuệ” đã
được nhà tâm lý học người Đức E. Krepelin dẫn vào thế kỷ 19).
Cơ cấu tâm bệnh lý của rối loạn trong trường hợp thiểu năng trí tuệ được
đặc trưng bởi tính tổng hợp và tính cấp bậc của sự phát triển về tâm lý và trí tuệ.
Theo cấu trúc sơ đồ lâm sàng, thiểu năng trí tuệ được chia thành thiểu năng trí
tuệ dạng bị biến chứng và dạng không bị biến chứng. Dạng thiểu năng trí tuệ
biến chứng là dạng kết hợp của não bộ kém phát triển với sự tổn thương của não
bộ. Trong trường hợp này, thiếu sót về trí tuệ sẽ kèm theo hàng loạt rối loạn của
bệnh não và bệnh thần kinh. Có thể có chỗ mức độ kém phát triển hay sự tổn
thương những chức năng não bộ nhất định như lời nói, logic, hình dung không
gian, khả năng tính toán, đọc, viết sẽ thể hiện rõ ràng hơn.
Những dấu hiệu cơ bản của CPTTT (theo Vugotxky) hình thành do bị tổn
thương bên trong bộ não được gián tiếp thể hiện qua việc hình thành nhân cách
và nó quy định đặc điểm phát triển tâm lý của đứa trẻ. Những dấu hiệu cơ bản
hàng đầu của chậm khôn gồm tính ỳ bệnh lý của quá trình thần kinh, sự suy yếu
của chức năng khép kín của vỏ bán cầu đại não, sự tăng cường kích thích quá
mức.


24


Trong trường hợp rối loạn phát triển trí tuệ, những nhân tố tiêu cực chủ
yếu là sự không ham hiểu biết và sự học tập chậm chạp của đứa trẻ, có nghĩa là
khả năng tiếp thu cái mới của đứa trẻ kém.
Những rối loạn ban đầu này đã ảnh hưởng đến đứa trẻ ngay từ những ngày
đầu tiên trong trong đời. Ở những trẻ này thời hạn phát triển khả năng đứng và
khả năng vận động bị chậm, thêm vào đó sự trì hoãn này còn là yếu tố cơ bản
diễn ra không chỉ ở năm đầu mà còn ở năm tuổi thứ hai. Ở trẻ không có sự hứng
thú với xung quanh và phản ứng với các tác nhân kích thích bên ngoài, ở trẻ
không xuất hiện tình cảm với người lớn và trẻ với đồ vật, không hình thành loại
hình giao tiếp mới – giao tiếp cử chỉ. Trẻ năm đầu mà chưa phân biệt được người
quen, người lạ, không phát triển hoạt động với đồ vật, không biết cầm nắm, ảnh
hưởng đến tri giác đều gắn liền với giai đoạn này. Khi diễn ra hoạt động này, trẻ
nhận biết được hướng cơ thể mình đến đồ vật: kích thước, trọng lượng, hình
dáng. Việc không biết cầm nắm gắn liền với việc trẻ không hình thành sự phối
hợp mắt và chuyển động.
Như vậy sự phát triển tri giác của trẻ chậm khôn trong năm đầu vô cùng trì
trệ. Sự trì trệ này không phải là rối loạn ban đầu, nó hình thành như hậu quả của
rối loạn ban đầu. Tuy nhiên, điều chủ yếu là nó ảnh hưởng xấu đến sự phát triển
tiếp thao của toàn bộ quá trình tâm lý.
Ở thời kỳ đầu giai đoạn mẫu giáo diễn ra một vài bước tiến trong việc nắm
vững các thao tác không chuyên xuất hiện. Ví dụ như đứa trẻ kéo đồ chơi lại gần
miệng, nhưng đứa trẻ không cố gắng xem xét đồ chơi, không tiến hành một vài
hoạt động thực hành đối với đồ chơi đó (không gõ, không giơ lên xem xét,...).
Hoạt động với đồ vật tự phát trong thời gian dài không hình thành ở trẻ
CPTTT, hứng thú đối với đồ vật vẫn còn thấp và diễn ra trong thời gian ngắn.
Những câu hỏi như “Đây là cái gì?”, “ở đâu”, “như thế nào”,… mãi không
25



×