Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Chính sách cải cách và đổi mới trong hệ thống ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.54 KB, 13 trang )

Chủ đề: Chính sách cải cách và đổi mới trong hệ
thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam
Lời giới thiệu
Nền kinh tế Việt Nam từ giai đoạn khủng hoảng 2008 đến
nay là một bức tranh tổng hợp nhiều gam màu sáng tối. Giai
đoạn tồi tệ của nền kinh tế bắt đầu từ năm 2008, làm chao
đảo thế giới suốt nửa thập kỷ qua. Bối cảnh này, cộng với
những vấn đề nội tại khiến kinh tế Việt Nam giai đoạn này
càng khó khăn và như không thể thoát khỏi đáy suy thoái.
Giai đoạn 2002 - 2007, Việt Nam luôn được coi một trong
những điểm sáng trong bản đồ kinh tế toàn cầu với tốc độ
tăng trưởng bình quân đạt 7,8%. Với việc gia nhập tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, tốc độ tăng trưởng
GDP lên tới gần 8,5%.Từ khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ
ra năm 2008, Việt Nam chìm trong vòng xoáy tăng trưởng
chậm khi các thị trường xuất khẩu lớn bị ảnh hưởng, sức mua
trong nước giảm. Cả giai đoạn này, tăng GDP luôn thấp hơn
7% và ngày càng đi xuống, đến năm 2012 chỉ còn 5,03%,
chưa bằng hai phần ba so với mức trước khi khủng
hoảng.Chính phủ đã tung ra gói kích cầu một một tỷ USD vào
năm 2009 nhưng do những yếu kém nội tại, nền kinh tế chưa
thể bứt lên. "Việt Nam chưa thể thoát khỏi khủng hoảng với
mức tăng trưởng thấp như trên", chuyên gia kinh tế Phạm Chi
Lan nhận định.
Nền kinh tế chao đảo trước tâm bão khủng hoảng, đã làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống Ngân hàng tại Việt
Nam. Đứng trước nguy cơ này, chính phủ nhà nước đã đưa ra
những quyết định lựa chọn để làm thay đổi lại Hệ thống bộ
máy Ngân hàng Thương mại. Những quyết định này ít nhiều
đã góp phần vào sự vươn mình thay đổi của nền kinh tế. Cùng
với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các NHTM VN đã có


sự thay đổi rõ rệt, đã và đang từng bước chuyển dần hướng tới
một hệ thống tương thích của các nền kinh tế đang nổi và mới
phát triển. Các NHTM không chỉ tiếp tục khẳng định là một


kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần
ổn định sức mua đồng tiền.

~ Mục lục ~
Bài viết sau sẽ giới thiệu về Hệ thống Ngân hàng Thương
mại Việt Nam trước và sau khi cải cách.
I.

Tầm quan trọng - ảnh hưởng vĩ mô của Hệ
thống Ngân hàng Thương mại:

I.1. Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho
nền Kinh tế
I.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị
trường
I.3. NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô
nền kinh tế
I.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền
tài chính quốc tế
II.

Hoạt động tái cấu trúc Ngân hàng thương mại:

II.1. Tình hình Ngân hàng Thương mại Việt Nam giai
đoạn đầu:

II.2. Chính sách tái cấu trúc Ngân hàng Thương mại
qua các thời kì:
III.

Đánh giá hoạt động hiện nay của Hệ thống
Ngân hàng Thương mại:
III.1. Những thành tựu ngành Ngân hàng Thương
mại đạt được:
III.2. Mặt hạn chế của việc tái cơ cấu ngân hàng:


I.

Tầm quan trọng - ảnh hưởng vĩ mô của Hệ thống
Ngân hàng Thương mại:

Trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đã đạt đến trình
độ cao của kinh tế hàng hoá, ngân hàng đóng vai trò quan
trọng, nó là hệ thống thần kinh, hệ thống tuần hoàn của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể cất cánh, phát
triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng vững
mạnh. Ngân hàng và nền kinh tế có mối quan hệ hữu cơ lẫn
nhau. Do đó, vai trò của ngân hàng thương mại được thể hiện
ở một số mặt sau:
1.1. NHTM là một trong những nơi cung cấp vốn
cho nền kinh tế
Khi nhắc tới vai trò của ngân hàng thương mại thì không
thể không nhắc tới vai trò cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu sản
xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Để có thể
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh điều đầu tiên các

chủ doanh nghiệp phải quan tâm đó là vốn. Nếu không có vốn
thì doanh nghiệp sẽ bị mất cơ hội đầu tư, mất đi lợi nhuận mà
lẽ ra có thể thu được.Do nhược điểm của thị trường tài chính
dẫn đến ảnh hưởng tới tính liên tục của chu trình tài chính như
sự không khớp nhịp giữa cung vốn và cầu vốn qua vấn đề thời
gian và lượng vốn, rủi ro đạo đức, rủi ro mất khả năng thanh
toán, …NHTM với tư cách là một chủ thể kinh doanh trên lĩnh
vực tài chính tiền tệ có thể khắc phục được những nhược điểm
trên. NHTM chính là người đứng ra tiến hành khơi thông nguồn


vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế
… hình thành nên quỹ cho vay và sử dụng chúng để đáp ứng
nhu cầu vốn cho nền kinh tế
1.2. NHTM giúp bôi trơn hoạt động sản xuất kinh
doanh của Doanh nghiệp
Để có thể tiếp cận với thị trường đầu ra và tìm kiếm lợi
nhuận các doanh nghiệp cần phải quan tâm tới thị trường đầu
vào của mình mà yếu tố đầu vào quan trọng nhất chính là
vốn, đây luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh
doanh vì nó đặt nền tảng đầu tiên cho mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không thể chỉ trông chờ vào
vốn tự có mà phải biết khai thác các nguồn vốn khác tài trợ
cho hoạt động của mình. Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ
giúp doanh nghiệp giải quyết được khó khăn đó. Như vậy,
ngân hàng chính là cầu nối đưa doanh nghiệp đến với thị
trường giúp doanh nghiệp tìm kiếm được đầu vào, bôi trơn
hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho nó phát huy hiệu quả
một cách tốt nhất trên thị trường, giúp doanh nghiệp và thị
trường gần nhau hơn cả về không gian và thời gian.

1.3. NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô
nền kinh tế
Nếu NHTW có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính sách
tiền tệ thông qua các công cụ như: thị trường mở, dự trữ bắt
buộc, lãi suất,… thì các NHTM một mặt chịu sự tác động trực
tiếp của các cộng cụ này mặt khác nó còn tham gia điều tiết
gián tiếp vĩ mô nền kinh tế thông qua mối quan hệ với các tổ
chức kinh tế, cá nhân về các hoạt động tài chính tín dụng. Nói
cách khác, thông qua hoạt động của NHTM với các chủ thể
khác trong nền kinh tế, mọi thông tin có liên quan đến việc
hoạch định chính sách tiền tệ sẽ được phản hồi lại NHTW, giúp
NHTW có thể hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp
trong từng thời kỳ để đảm bảo thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển ổn định.
1.4. Hệ thống NHTM trong nước đã điều tiết tài
chính trong nước phù hợp với sự vận động của
nền tài chính quốc tế


Trên thế giới, trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia độc
lập thường xuyên tiến hành những mối quan hệ đa dạng và
phức tạp trên nhiều lĩnh vực : kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại
giao, văn hoá, khoa học- kỹ thuật, …trong đó quan hệ kinh tế
thường chiếm vị trí quan trọng. Áp lực cạnh tranh buộc nền
kinh tế của mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực
lớn mạnh và toàn diện về mọi mặt mà quan trọng nhất là tài
chính. Nhưng làm thế nào để có thể hoà nhập nền kinh tế của
một quốc gia với phần còn lại của thế giới ? Câu hỏi này sẽ
được giải đáp thông qua vai trò của hệ thống NHTM với hàng
loạt các nghiệp vụ không ngừng được hoàn thiện và phát

triển: thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, uỷ thác đầu
tư, … Hệ thống NHTM trong nước đã điều tiết tài chính trong
nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế, đưa
nền tài chính trong nước bắt kịp với nền tài chính quốc tế.
II.

Tái cấu trúc Ngân hàng thương mại Việt Nam:

Với bất kỳ một quốc gia nào, hoạt động của hệ thống
ngân hàng luôn là huyết mạch của nền kinh tế và sự ổn định,
lành mạnh của hệ thống ngân hàng giữ vai trò trọng yếu trong
việc ổn định và phát triển của nền kinh tế. Sự tăng trưởng
kinh tế nhanh, đặc biệt là ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại đã thúc đẩy hệ thống ngân hàng phát triển nhanh cả về
qui mô và chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển nhanh đó, hệ thống ngân hàng đang tiềm ẩn nhiều yếu
kém và rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản cao; tính ổn
định, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh chưa cao;
năng lực quản trị còn nhiều bất cập. Ngoài ra, nhóm lợi ích và
sở hữu chéo giữa các ngân hàng lớn làm cho tính lệ thuộc lẫn
nhau và rủi ro hệ thống cao. Do vậy, nếu những rủi ro và yếu
kém này không được xử lý kịp thời sẽ tác động xấu đến ổn
định kinh vĩ mô và hệ thống tài chính quốc gia. Vì vậy, việc tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính là cấp
thiết để tránh sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng và sự đổ vỡ
của nền kinh tế.
2.1. Tình hình chung của Hệ thống Ngân hàng trước
giai đoạn khủng hoảng:



Từ năm 2009, khó khăn bắt đầu nổ ra trên toàn thế giới
nhưng sự ảnh hưởng tại Việt Nam chưa nhiều và không trực
tiếp. Đến năm 2012, khi thế giới đi qua khủng hoảng được 5
năm thì hệ thống ngân hàng Việt Nam lại gặp rất nhiều khó
khăn và có thể nói là gần chạm đáy. Khó khăn thực ra đã bắt
đầu lộ dần từ năm 2010, 2011, ngân hàng vẫn tăng trưởng
"nóng" nhưng nhiều vấn đề khác đã xấu đi, nợ dưới chuẩn
cũng tăng lên. Được cái các ngân hàng khi đó vẫn gò được tỷ
lệ nợ xấu dưới 3%. Ở Việt Nam, một phần là do ảnh hưởng
nền kinh tế vĩ mô cộng với rủi ro về đạo đức không được kiểm
soát chặt chẽ. Các ngân hàng quản lý rủi ro rất kém và đến
gần đây, Ngân hàng Nhà nước mới chuẩn bị ra thông tư siết
chặt hơn. Thực ra không nhất thiết cứ phải để một ngân hàng
chết đi rồi lập một ngân hàng mới trong khi chi phí lại khá lớn.
Khả năng là vẫn nên khuyến khích các nguồn lực khác tham
gia. Đây có thể là một quan điểm mà tôi nghĩ Ngân hàng Nhà
nước cũng có lý của họ. Ví dụ như để các ngân hàng yếu kém
tự chủ, tự tìm một ông chủ mới nào đó để sáp nhập, tái cơ
cấu.Hơn nữa, nay Ngân hàng Nhà nước hạn chế mở phòng
giao dịch, ngừng cấp phép ngân hàng, rõ ràng việc bỏ tiền
mua một nhà băng yếu kém để làm nó tốt hơn sẽ kinh tế hơn
rất nhiều.
Thống kê tổng nợ xấu của tám ngân hàng (VietinBank,
Vietcombank, ACB, Sacombank, Eximbank, Ngân hàng Sài
Gòn - Hà Nội, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội,
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Việt) tại thời điểm 30-92011 đã lên tới gần 15.018 tỉ đồng. Tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ
thống các NHTM là 2,5% ( 2010), năm 2004 là 2,48% và năm
2003 là 4,74%. Tình trạng huy động ngắn hạn cho vay dài hạn
vẫn diễn ra sau nhiều năm gia nhập WTO. Đơn cử như ngân
hàng Nam Việt: 91,76% tiền gửi của khách hàng là các khoản

tiền gửi dưới một năm, trong đó 25,17% là tiền gửi dưới một
tháng, còn lại là tiền gửi từ một đến sáu tháng, không có
khoản tiền gửi nào trên năm năm.
Và từ đây, chính phủ nhà nước đã đưa ra những quyết
định và giải pháp để tái cơ cấu ngành ngân hàng, nhằm vực
dậy nền kinh tế đang rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Quá
trình tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới đã


được Chính phủ xác định là nhiệm vụ cấp thiết, với ba mục
tiêu trọng tâm bao gồm: cải cách đầu tư công; tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) – tập trung vào các tập đoàn
và tổng công ty và tái cơ cấu hệ thống tài chính (chủ yếu là
các ngân hàng thương mại). Nhìn chung trong ba mục tiêu
này dường như việc cải cách hệ thống ngân hàng là mục tiêu
khả thi, cấp bách nhất, ít ra là trong ngắn hạn. Nhận định này
được đưa ra trong bối cảnh hệ thống ngân hàng non trẻ của
Việt Nam bị ảnh hưởng liên tục bởi cuộc khủng hoảng kinh tế
kéo dài từ năm 2007 đến nay. Ngoài ra, nó còn phải đối mặt
với tình trạng nợ dưới chuẩn rất cao, hậu quả của cuộc đình
trệ về kinh tế cũng như cuộc khủng hoảng trên thị trường bất
động sản.
2.2. Tái cơ cấu Ngân hàng Thương mại qua các thời
kì:
Ngày 01/3/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 254/2012/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án cơ cấu lại các tổ
chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015. Bên cạnh việc đánh giá
thực trạng hoạt động các ngân hàng thương mại, bài viết chỉ
ra những thách thức, đề xuất các kiến nghị góp phần tránh rủi
ro, lãng phí trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng

thương mại Việt Nam.
Các chủ trương tái cấu trúc qua từng thời kì:
- Ở Việt Nam, trong giai đoạn 2001-2010, sự phát triển
của nền kinh tế có tác động sâu rộng đến sự phát triển của hệ
thống ngân hàng. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh, đặc biệt là
ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại đã thúc đẩy hệ thống
ngân hàng phát triển nhanh cả về qui mô và chất lượng dịch
vụ.
- Cuối năm 2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra
4 mục tiêu của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng bao gồm: (i)
lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng; (ii) nâng cao năng lực
cạnh tranh cho hệ thống ngân hàng; (iii) cấu trúc lại cơ cấu
hoạt động của hệ thống ngân hàng; (iv) hệ thống ngân hàng
phải hòa nhập và có sức cạnh tranh với quốc tế. Tiếp đó, ngày
01/03/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Ðề án cơ cấu
lại hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011-2015 kèm


theo Quyết định 254/QÐ-TTg. Ðây được xem là một nỗ lực về
mặt pháp lý quan trọng nhất cho tới nay trong việc tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng. Quyết định này tạo ra một hành
lang rộng để xử lý các ngân hàng yếu kém và đề ra một lộ
trình cho đến năm 2015.
- Theo lộ trình, năm 2012, NHNN đã đề ra những nội dung
của tái cấu trúc ngân hàng tập trung vào giải quyết tình trạng
nợ xấu, thiếu vốn, thanh khoản và quản trị ngân hàng.
Điển hình trong giai đoạn 2012-2013, toàn hệ thống ngân
hàng đã có những bước ngoặt lớn trong quá trình Tái cấu trúc
hệ thông, Vấn đề nợ xấu tuy tốc độ tăng có giảm nhưng quy
mô nợ xấu rất lớn và suốt cả năm 2012 chưa có biện pháp xử

lý cơ bản nợ xấu.

2010

2011

Tỷ lệ nợ Tỷ lệ nợ Tỷ lệ nợ
xấu/tổn
xấu/tổng quá hạn
g dư nợ
dư nợ
/tổng
dư nợ

30/6/2012

Tỷ lệ nợ
quá
hạn/tổng
dư nợ

Tỷ lệ nợ Tỷ lệ
xấu/tổng nợ quá
dư nợ
hạn/tổ
ng dư
nợ

Ngân hàng 2,16
thương

mại nhà
nước

10,43

2,95

13,36

-

-

Ngân hàng 1,66
thương
mại cổ
phần

3,53

2,30

6,43

-

-

Toàn
ngành


7,69

3,10

10,47

8,60

-

2,12

(4,47)
Bảng 1: Nợ quá hạn và nợ xấu toàn hệ thống (%)

(*) Số liệu về nợ xấu toàn hệ thống trong ngoặc là theo đánh
giá của NHNN đến 31/03/2012.
III. Đánh giá hoạt động hiện nay của Ngân hàng Thương
mại Việt Nam:


3.1. Những thành tựu ngành Ngân hàng Thương
mại đạt được:
Sau những chuyển biến tích cực về Tái cơ cấu hệ thống,
đã giúp cho Ngân hàng Thương mại đạt được những thành
quả nhất định:
- NHTM VN đã huy động nguồn vốn và ngoại tệ đáng kể,
làm tăng tiết kiệm của nền kinh tế: từ những năm 90, lượng
vốn huy động qua hệ thống NHTM tăng cường không ngừng

với tốc độ nhanh và vững chắc. do sự ổn định giá trị đồng tiền
việt nam cùng với việc giảm mức lạm phát từ phi mã xuống
còn một con số, các NHTM VN đã phát huy được hiệu quả
trong chiến lược huy động vốn từ dân chúng. Lượng vốn huy
động của toàn hệ thống qua các năm đề tăng với mức trung
bình từ 25-30%/năm. Từ năm 2008, tình hình huy động vốn
của các NHTM giảm sút rõ rệt; theo số liệu từ NHNN, tổng số
dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng tháng
4/2009 tăng khoảng 3,74% so với cuối tháng trước và tăng
9,88% so với cuối năm 2008; đến hết tháng 7 tăng 20,92% so
với đầu năm. nguyên nhân là do trong năm 2008, lạm phát
cao bùng phát và năm 2009, Việt Nam đã có những dấu hiệu
rõ rệt về suy giảm kinh tế do tác động của suy giảm kinh tế
toàn cầu. Tại Việt Nam, trong năm 2009, Chính phủ chủ
trương thực hiện kích cầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
bằng gói kích cầu hỗ trợ lãi suất 4%. Hơn nữa, một số kênh
đầu tư khác tỏ ra hấp dẫn hơn lãi suất ngân hàng như đầu tư
vàng và ngoại tệ khiến dòng tiền chảy vào những kênh đầu tư
này hơn là tiết kiệm trong ngân hàng.
- Các NHTM đã góp phần tăng trưởng đầu tư cho vay đáp
ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế giúp cho các doanh nghiệp
duy trì ổn định sản xuất, đầu tư công nghê, thay đổi máy móc,
nhờ đó nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế. Trong thời
gian qua, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được mở rộng
tới tất cae các thành phần kinh tế, dưới các hình thức cho vay
ngày một đa dạng: cho vay vốn lưu động, cho vay vốn cố
định, tín dụng thuê mua… Đặc biệt, việc chuyển hướng mở
rộng cho vay tiêu dung thực sự là một hướng kích cầu có hiệu
quả. Thông qua quan hệ tín dụng của các NHTM Nhà nước với
các tổ chức tín dụng trong nước thể hiện chủ yếu ở sự biến



động của khoản mục cho vay, có thể thấy số lượng giao dịch
giữa các tổ chức tín dụng tăng lên liên tục. Mặc dù duy trì
được mức tăng trưởng dư nợ trong năm cao song các ngân
hàng vẫn kiểm soát được rủi ro ở mức độ an toàn. Tỷ lệ quá
hạn luôn được kiềm chế ở mức thấp.
- Các NHTM đã đóng góp lớn đến tổng thu nhập kinh tế
quốc dân: Ngoài việc tăng trưởng mạnh các hoạt động huy
động và cho vay, các hoạt động có thu khác của NHTM cũng
ngày càng được quan tâm và phát triển. Đây là xu hướng của
các NHTM ở các nước phát triển. Đặc biệt khi các hoạt động
cho vay và huy động vốn rất nhạy cảm với tình hình kinh tế vĩ
mô trong nước và quốc tế, các hoạt động khác chính là “phao
cứu sinh” cho các NHTM, cụ thể là: trong năm 2008, trước tình
hình hạn chế tăng trưởng tín dụng từ chính sách thắt chặt tiền
tề của NHNN, các tổ chức tín dụng đã tính đến các biện pháp
khác để thu hút khách hàng, cải thiện cơ cấu thu nhập. Biện
pháp đầu tiên các NHTM đưa ra là nâng cấp, phát triển dịch
vụ, chính vì vậy, hoạt động dịch vụ trong năm 2008 tăng
trưởng cao, tăng 67% so với năm trước. Trong đó, tăng nhiều
nhất là thanh toán trong nước, tăng 72%. Qua đó, kéo theo
tổng thu tiền mặt qua quỹ NHNN trong năm 2008 tăng 76%.
- Với vai trò trung tâm thanh toán của nền kinh tế, NHTM
VN góp phần quan trọng đẩy nhanh tốc độ chu chuyển thanh
toán, chu chuyển vốn: Nền kinh tế càng phát triển, chu
chuyển thanh toán không dung tiền mặt ngày càng tăng, vai
trò của NHTM trong thanh toán ngày càng mạnh hơn. Với việc
áp dụng công nghệ kỹ thuật, tốc độ thanh toán qua ngân
hàng đã tăng nhanh. Hiện có 5 chi nhánh NHNN, trên 35

NHTM với 159 đơn vị tham gia hệ thống thanh toán điện tử
liên ngân hàng, bình quân mỗi ngày xử lí 7000 chứng từ với số
tiền 3000 tỷ đồng, ngày cao điểm 12000 chứng từ với 5500 tỷ
đồng. Mỗi thanh toán thực hiện chỉ dưới 10 giây (trước kia
chuyển tiền từ Hà Nội đi TP Hồ Chí Minh phải mất trung bình
từ 3 đến 5 ngày). Bên cạnh đó, các NHTM có xu hướng hoạt
động liên kết và thống nhất với nhau hơn, cụ thể như hợp tác
đồng tài trợ các dự án lớn, cùng nhau hỗ trợ khách hàng trong
hệ thống. Sự phát triển của các dịch vụ thanh toán không
dung tiền mặt đã góp phần giảm tỉ lệ thanh toán bằng tiền


mặt trong tổng phương tiện thanh toán. Theo thống kê của
NHNN, trong năm 2008, dịch vụ thẻ ngân hàng và mở tài
khoản cá nhân, trả lương qua dịch vụ ngân hàng tự động ATM
phát triển nhanh chóng. Đến nay, toàn hệ thống ngân hàng có
khoảng 15 triệu tài khoản cá nhân, tăng 36% so với cuối năm
2007; số lượng thẻ trong lưu thông đạt khoảng 13,4 triệu thẻ,
tăng 46% so với cuối năm 2007 với 142 thương hiệu thẻ thuộc
39 tổ chức phát hành thẻ. Hệ thống ATM có 7.051 máy, tăng
2.238 máy so với cuối năm 2007. Mạng lưới chấp nhận các
phương tiện thanh toán đạt 24.760 thiết bị POS. Các hệ thống
thanh toán của ngành ngân hàng tiếp tục được ứng dụng công
nghệ hiện đại hoá, tiên tiến theo hướng tự động hoá, mở rộng
dịch vụ, phạm vi áp dụng và tăng nhanh tốc độ xử lý.
- Các NHTM VN từng bước mở rộng nghiệp vụ ngân hàng
hiện đại phục vụ nhu cầu của nền kinh tế đời sống: Nếu như
những năm trước, NHTM VN hầu như chỉ thực hiện các nghiệp
vụ truyền thống thì từ mấy năm trở lại đây, đã mở rộng các
nghiệp vụ ngân hàng mới của NHTM hiện đại: dịch vụ ngân

hàng tại nhà, Internet Banking, hệ thống thanh toán thẻ,
ATM… Có thể nói rằng hệ thống NHTM đã có những thành
công nhất định trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng hiện
đại. Nếu so với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì mức
độ phát triển của sản phẩm ngân hàng hiện đại của hệ thống
NHTM VN chưa đạt được chuẩn quốc tế, nhưng đã có sự chú
trọng và đã xây dựng được hướng phát triển trong tương lai
cũng như bước đầu tạo được hình ảnh tốt trong thị trường nội
địa
- NHTM VN đã thiết lập được đội ngũ chi nhánh đông đảo
trong tất cả các tỉnh thành trong cả nước: đây là điều kiện
thuận lợi giúp các ngân hàng tăng cường khả năng huy động
vốn và tính dụng đến những vùng tiềm năng.
- Hệ thống NHTM đã nâng cao vai trò quan trọng trong
việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, từ đó tác động
đến nền kinh tế. Hệ thống NHTM góp phần tích cực trong việc
thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kì của NHNN, điển
hình như đầu năm 2008, bắt nguồn từ việc tăng trưởng tín
dụng mạnh mẽ từ cuối năm 2007 với mức tăng trưởng trung
bình lên đến 54% đã dẫn đến CPI tăng 22,47% và giá hàng


hoá đầu vào tăng cao, lạm phát trở thành mối lo ngại chung
của nền kinh tế.
III.3. Mặt hạn chế của việc tái cơ cấu ngân hàng:
Tăng trưởng tín dụng với tốc độ cao khiến tính thanh
khoản của hệ thống ngân hàng giảm sút trong những năm
gần đây. Việc tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh là điều
thiết yếu đối với mỗi ngân hàng. Tuy nhiên các NHTM thường
đẩy mạnh tăng cường tín dụng trong khi chưa đạt được các

yếu tố khác (như nguồn vốn đầu vào, trình độ công nghệ,
trình độ quản lí, khả năng kiểm soát rủi ro….) điều này có thể
dẫn đến sự tăng trưởng không bền vững và tiềm ẩn rủi ro đối
với hệ thống NHTM. Các ngân hàng tăng trưởng tín dụng quá
nóng trong năm 2007 đến đầu năm 2008 đều thiếu hụt vốn
dẫn đến phải huy động với lãi suất cao trên thị trường liên
ngân hàng (bình quân trên 20%/năm, cá biệt có một số thời
điểm lên tới 30%/năm thậm chí hơn 40%/năm) và huy động
khách hàng với lãi suất 18-20% để duy trì thanh khoản.
Trình độ quản lí còn hạn chế dẫn đến hiệu quả quản lí rủi
ro chưa cao. Trình độ quản lí, đặc biệt là quản lí cấp cao luôn
là bài toán khó đối với VN nói chung và ngành ngân hàng nói
riêng. Mặc dù trong những năm qua, các NHTM không ngừng
tuyển dụng đào tạo cán bộ quản lý các cấp. Song chất lượng
còn hạn chế. Đây là nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh
của hệ thống NHTM VN so với các NHTM nước ngoài.
Quy mô vốn hoạt động còn nhỏ nên chưa thực hiện được
mục tiêu kinh doanh một cách hoàn chỉnh. Quy mô vốn của
các NHTM VN: quy mô vốn của các ngân hàng VN chưa tương
xứng với tiềm năng phát triển và còn rẩ nhỏ so với tiêu chuẩn
của thế giới. Có một sự chênh lệch lớn giữa tỷ lệ CAR của các
NHTMCP và các NHTMNN từ 7% đến 14%, trong đó tỷ lệ của
NHTMNN thấp hơn. Trong bối cảnh khó khăn như hiện nay,
mặc dù tổng vốn huy động của các ngân hàng VN hiện nay
vẫn đáp ứng đủ, song khả năng phát triển và mở rộng thị
phần còn hạn chế. Nguy cơ khủng hoảng tín dụng do tập
trung cao vào 1 số lĩnh vực làm gia tăng nguy cơ của hệ thống


ngân hàng, khiến rủi ro thua lỗ và giảm vốn ngân hàng trở

nên khó dự báo.
Tái cơ cấu Hệ thống ngân hàng là vấn đề lâu dài cần thực
hiện, tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều bất cập mà chúng ta cần
lưu tâm và có biện pháp xử lý thích hợp. Để tái cơ cấu có hiệu
quả cao nhất, các ngân hàng phải xây dựng các lộ trình hoạt
động và chiến lược phát triển để khi tái cơ cấu xong, sức khỏe
các mặt hoạt động của các ngân hàng phải mạnh hơn trước
tái cơ cấu. Khi tiến hành tái cơ cấu thì vai trò dẫn dắt thị
trường của NHNN phải được duy trì và đảm bảo để góp phần
ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô (tăng trưởng, lạm phát).
NHNN phải chủ động trong việc hoạch định các chính sách,
tạo sân chơi chung và bình đẳng cho các ngân hàng.
----HẾT----



×