Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích đặc điểm và tính cách của các doanh nhân việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.83 KB, 18 trang )

Phân tích đặc điểm và tính cách của các Doanh Nhân Việt Nam

Bài làm:
Sau 22 năm đổi mới, đội ngũ doanh nhân nước ta đã vươn ra làm ăn với
hàng trăm nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã đưa hàng trăm thương hiệu
Việt đến khắp các châu lục. Đội ngũ doanh nhân đã trở thành “sứ giả” văn
hóa, làm cho thế giới hiểu hơn về con người và văn hóa Việt Nam. Thời kỳ
đổi mới, chúng ta đã có hàng trăm nhà buôn tầm cỡ quốc tế; việc bình chọn
hàng Việt Nam chất lượng cao, giải Sao Vàng đất Việt, Sao Đỏ... mấy năm
qua đã tôn vinh hàng ngàn doanh nghiệp mạnh. Từ khi Luật Doanh nghiệp ra
đời (năm 2000) đã có hàng trăm ngàn doanh nhân trẻ, nhạy bén, tài giỏi tham
gia thị trường quốc tế. Đó là đội ngũ doanh nhân Việt Nam mới, năng động
và bản lĩnh.
Việt Nam đã 8 lần kỷ niệm ngày Doanh nhân Việt Nam
(13/10/2003-13/10/2010); theo tài liệu của Phòng Thương mại và công
nghiệp Việt Nam (VCCI): Trong thập niên những năm 1990, khi Luật
công ty ra đời, Việt Nam có khoảng 40.000 doanh nghiệp, thì trong thập
kỷ đổi mới thứ hai, với Luật doanh nghiệp, nay chúng ta đã có gần
500.000 doanh nghiệp.

1


Số lượng doanh nghiệp ở VN - Nguồn: Phòng Thương mại và
công nghiệp VN, tính đến 31-12-2009.

Cứ tính mỗi doanh nghiệp có 2-3 doanh nhân thật sự sống chết với
nghề kinh doanh, bỏ tiền sở hữu, điều hành doanh nghiệp, chúng ta đang có
khoảng 1,5 triệu doanh nhân. Tuy nhiên so với các nước, đội ngũ doanh
nghiệp, doanh nhân của ta còn vô cùng nhỏ bé. Ở châu Âu cứ 1.000 dân có 52
doanh nghiệp, còn ở ta, 1.000 dân có chưa tới 0,7 doanh nghiệp.



Mật độ doanh nghiệp (trên 1.000 dân) ở các nước và Việt Nam Nguồn: CIEM.

Trong mấy năm qua đã có một số cuộc điều tra được tiến hành
trong từng nhóm doanh nghiệp như doanh nghiệp nữ (do Hội liên Hiệp
Phụ nữ Việt Nam tiến hành năm 1999 trong các doanh nghiệp do những
doanh nhân dưới 45 tuổi lãnh đạo), doanh nghiệp tư nhân (do Chương
trình phát triển dự án Mêkông MPDF thuộc nhóm IFC/WB tiến hành năm
2


1999 trên 127 doanh nghiệp tư nhân với hơn 400 đối tượng khác)…
Những kết quả đó cùng các bài viết về doanh nghiệp, doanh nhân được
đăng tải trên báo chí cho phép chúng ta hình dung được một số vấn đề về
doanh nhân Việt Nam; cụ thể như sau:
I. Đánh giá chung về doanh nhân Việt Nam
Theo kết quả các cuộc điều tra, doanh nhân Việt Nam hiện nay, có
khoảng 66% xuất thân từ các gia đình cán bộ nhà nước (kể cả gia đình cán
bộ Đảng và các đoàn thể, quân đội, doanh nghiệp quốc doanh, cấp Trung
ương và địa phương) và 16% xuất thân từ gia đình buôn bán, kinh doanh,
số còn lại từ các tầng lớp khác trong xã hội. Cũng theo các cuộc điều tra
đó, thì những lý do chính để những doanh nhân này lập nghiệp bằng con
đường kinh doanh là:
- Muốn phát huy tối đa năng lực cá nhân (76% theo điều tra của
MPDF, 13,2% theo điều tra doanh nghệp nữ);
- Có điều kiện thuận lợi để làm kinh doanh (61% theo điều tra
doanh nghiệp trẻ, 27% theo điều tra doanh nghiệp nữ);
- Để kiếm sống hoặc tăng thu nhập (50% theo MPDF, 14,3% theo
điều tra doanh nghiệp nữ);
- Thích thử thách, sáng tạo (41% theo MPDF);

- Theo truyền thống gia đình (16% theo điều tra doanh nghiệp nữ),
hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh (26% theo điều tra doanh
nghiệp nữ);
- Muốn theo đuổi giá trị đạo đức hoặc phong cách sống riêng (23%
theo MPDF).
Tuy có sự khác biệt về con số do cách điều tra khác nhau, nhưng
những con số trên cho thấy tương đối xác đáng những nguyên nhân của sự

3


xuất hiện đội ngũ doanh nhân của nước ta ngày nay, đồng thời cũng minh
hoạ cho một số đặc điểm của lớp doanh nhân này.
Lớp doanh nhân mới ở nước ta có một số đặc điểm riêng, khác với
doanh nhân ở các nước khác, đồng thời cũng có một số nét tương đồng
với các đồng nghiệp nước ngoài:
(1) Doanh nhân mới ở nước ta ra đời và phát triển gắn liền với
công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường của đất nước:
Trước đổi mới, nước ta không thực sự có doanh nghiệp và doanh nhân,
mặc dù có tồn tại các xí nghiệp quốc doanh và các cơ sở sản xuất, buôn
bán nhỏ của lớp người được gọi chung là tiểu thương, tiểu chủ. Công cuộc
đổi mới mở ra thời vận mới cho các doanh nghiệp quốc doanh và nhất là
dân doanh, cho sự ra đời của lớp doanh nhân mới Việt Nam.
(2) Doanh nhân mới ở nước ta đa số tuổi đời khá trẻ, được đào
tạo và rèn luyện trong quá trình đổi mới, có tinh thần yêu nước và tự
tôn dân tộc
Một điều tra mới đây của Tổng cục thống kê cho thấy, số người dưới
30 tuổi ở Việt Nam chọn con đường kinh doanh để khởi nghiệp và trở thành
chủ doanh nghiệp là rất thấp, chỉ chiếm 7,28% trong hơn 40.000 doanh
nghiệp được điều tra. Độ tuổi của chủ doanh nghiệp Việt Nam: Dưới 30 tuổi

chiếm 7,28%; từ 30 đến 40 tuổi chiếm 25,67%; từ 41 đến 50 tuổi chiếm
31,71%; trên 50 tuổi chiếm 19,29%... Khoảng 70% doanh nhân lãnh đạo các
doanh nghiệp dân doanh ở độ tuổi dưới 45 (đối với doanh nghiệp nữ, tỷ lệ đó
là 62%, với doanh nghiệp quốc doanh là 20 – 25%). Tuổi đời trẻ, ảnh hưởng
nhiều tới tính năng động, ý chí dám chấp nhận rủi ro, thách thức, khả năng
học hỏi và sức làm việc của doanh nhân.
Được đào tạo và rèn luyện trong quá trình đổi mới, lớp doanh nhân
Việt Nam ngày nay có lòng yêu nước, gắn bó cuộc sống với vận mệnh và
tương lai của đất nước, của dân tộc, của cộng đồng xã hội. Nhìn chung đa
4


số họ tôn trọng luật pháp, thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà
nước, sống có tránh nhiệm, có tinh thần tự tôn dân tộc, mong muốn phát
triển các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam, không thua kém các bạn
hàng và đối thủ nước ngoài.
(3) Doanh nhân mới ở nước ta đa số làm việc rất cần cù, năng
động chịu khó học và vươn tới cái mới
Các cuộc điều tra cho thấy doanh nhân là lớp người làm việc hết
sức cần cù, với cường độ cao, trung bình các doanh nhân làm việc từ 10 –
12 giờ một ngày và 25 – 27 ngày 1 tháng. Cách làm việc của họ rất năng
động, linh hoạt, họ có thể làm nhiều việc khác nhau ở nhiều nơi, trong
nhiều môi trường khác nhau, luôn cố gắng và có khả năng thích ứng với
mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh khó khăn. Họ cũng rất chịu khó học tập với
ý chí quyết tâm nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý, kinh doanh và có khả
năng tiếp thu tốt.
(4) Doanh nhân mới ở nước ta sống có nhân bản, có ý thức
trách nhiệm cao với cộng đồng, có mong muốn được gắn bó trong hội
đoàn
Đa số doanh nhân có ý thức trách nhiệm cao đối với doanh nghiệp,

với những người cùng làm việc với mình, họ nhận thức rõ là những quyết
định của họ không chỉ ảnh hưởng đến bản thân, mà còn ảnh hưởng lớn
đến cuộc sống của hàng ngàn người lao động làm việc trong doanh nghiệp
của gia đình họ. Do đó, phần lớn doanh nhân đối xử tốt, chia sẻ lợi ích với
người lao động, và trong phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam rất ít khi
xảy ra tranh chấp.
Đa số doanh nhân cũng ý thức tốt với cộng đồng xã hội, thường
xuyên đóng góp, tham gia các hoạt động nghĩa cử hoặc từ thiện. Doanh
nhân ngày nay cũng hiểu rõ yêu cầu phải đoàn kết, hợp tác giữa các doanh
nghiệp Việt Nam với nhau để bảo vệ lợi ích chung trong cuộc cạnh tranh
5


trên thương trường. Do vậy, phần lớn họ đều tham gia vào các hội của
doanh nghiệp, và mong muốn phát triển hơn nữa các hội doanh nghiệp,
hội nghề nghiệp.
(5) Doanh nhân mới ở nước ta đa số sống có văn hoá, giữ gìn
những truyền thống, giá trị tốt đẹp của gia đình, xã hội và dân tộc
Đa số doanh nhân là những người có giáo dục, có nếp sống lành
mạnh, trung thực. Họ gắn bó và có trách nhiệm cao với gia đình, cha mẹ,
coi trọng quan hệ bạn bè, họ hàng, chăm lo đóng góp xây dựng quê
hương. Họ có lòng tự trọng chú ý giữ gìn danh tiếng của gia đình, thanh
danh của doanh nhân. Trong quan hệ kinh doanh quốc tế, họ có ý thức tự
tôn dân tộc, cố gắng làm sao dể rạng danh non sông đất nước. Các doanh
nhân cũng rất trọng học vấn, quan tâm đầu tư cho giáo dục, đào tạo để
nâng cao trình độ, mở rộng kiến thức cho bản thân, con cái cũng như
những người cộng sự. Họ biết quý trọng hiền tài, đạo đức, và ghét những
thói hư tật xấu trong kinh doanh cũng như trong xã hội và cuộc sống đời
thường.


II. Phân tích một số đặc điểm của doanh nhân Việt Nam trên các
nội dung (1) Mức độ dám chấp nhận rủi ro, (2)Tính đổi mới, sáng tạo (đối
với sản phẩm, kênh phân phối, hoạt động khuyếch trương…), (3) Tính tiên
phong, đi trước đối thủ trong các hoạt động kinh doanh:
1. Mức độ dám chấp nhận rủi ro
Theo các kết quả điều tra, khoảng 70% doanh nhân lãnh đạo các
doanh nghiệp dân doanh ở độ tuổi dưới 45 (đối với doanh nghiệp nữ, tỷ lệ
đó là 62%, với doanh nghiệp Nhà nước là 20 – 25%). Tuổi đời trẻ, ảnh
hưởng nhiều tới tính năng động, ý chí dám chấp nhận rủi ro, thách thức,
khả năng học hỏi và sức làm việc của doanh nhân.

6


Tuy nhiên, bên cạnh những doanh nhân giám chấp nhận rủi ro, còn
một bộ phận không nhỏ doanh nhân Việt là không dám chấp nhận rủi ro.
Họ thiếu hẳn sự sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ dám làm và tính tiên phong.
Điều này thể hiện rõ nhất ở “tâm lý bầy đàn” trong hoạt động doanh
nghiệp thời gian qua. Những bài học đau lòng về “ bầy đàn trong chứng
khoán”, “bầy đàn trong bất động sản”, “bầy đàn trong mô hình tập đoàn
đa ngành, đa nghề”,… đã đẩy không biết bao doanh nhân, doanh nghiệp
đến bờ vực phá sản và đẩy kinh tế đất nước vào cơn khủng hoảng trầm
trọng.
Ở một khía cạnh khác, việc dám đối mặt với rủi ro trong quyết
định của một bộ phận doanh nghiệp Việt Nam vẫn mang nặng tính “liều”
và quyết định mang tính thiếu nhận thức và hiểu biết. Có thể nhận thức
những “rủi ro trong những quyết định dám chấp nhận rủi ro” của doanh
nghiệp Việt Nam như sau:
- Thiếu những qui tắc khôn ngoan trong việc chấp nhận rủi ro
- Thiếu kỷ luật trong việc tuân thủ nguyên tắc này

- Đơn giản hóa những qui trình kinh doanh
- Chưa đo lường và lượng hóa được những rủi ro
Nói cách khác, bí quyết đầu tư là phải mạo hiểm với những rủi ro
được tính toán trước. Mỗi một cơ hội đầu tư luôn mang theo những rủi ro
tiềm ẩn. Trong một số thương vụ đầu tư, một loại rủi ro nhất định có thể
chiếm ưu thế hơn, và những rủi ro khác chỉ là thứ yếu. Hiểu đầy đủ về
những loại rủi ro (Rủi ro vỡ nợ;Rủi ro kinh doanh; Rủi ro thanh khoản;
Rủi ro sức mua hay rủi ro lạm phát; Rủi ro lãi suất;Rủi ro công nghệ; Rủi
ro chính trị; Rủi ro thị trường) chính yếu là cần thiết để mạo hiểm có tính
toán và đưa ra những quyết định đầu tư nhanh nhạy.
2. Tính đổi mới sáng tạo

7


Chúng ta hay tự nhận xét rằng người Việt Nam thông minh, sáng
tạo, nhưng nhiều khi các sáng tạo đó mang nặng tính chất manh mún, đối
phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động. Có một thực tế cần phải nhìn
nhận thẳng thắn là tính đổi mới và sáng tạo trong một bộ phân không nhỏ
doanh nhân Việt còn ở mức rất thấp.
Thực tế về tính đổi mới sáng tạo chưa cao được lý giải như sau:
Trước hết, một số không ít doanh nhân có trình độ học vấn hạn chế, kỹ
năng kinh doanh thấp (Theo kết quả cuộc điều tra của MPDF và doanh
nhân nữ nói trên cho thấy chỉ có khoảng 25% nữ chủ doanh nhân có trình
độ đại học hoặc là trên đại học, trong khi có tới 32.5% chưa học tới phổ
thông trung học. Từ những thống kê về doanh nhân nữ ta có thể suy ra tỷ
lệ tương tự đối với nam doanh nhân). Đó là lỗ hổng rất lớn, hạn chế khả
năng và tầm nhìn của doanh nhân trong thế giới kinh doanh hiện đại ngày
nay và do đó giảm hiệu quả và tính sáng tạo của doanh nghiệp. Lý giải ở
góc độ khác, Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh bởi đạo Khổng và phần nào

nữa là đạo Phật. Khổng giáo vốn trọng lễ nghi, thứ bậc, hình thức. Phật
giáo khuyến khích an nhiên, tự tại, đơn giản. Nhiều người cho rằng cả hai
trào lưu tư tưởng này đều phản tự do. Quan niệm như vậy là cực đoan,
nhưng cũng phải thừa nhận rằng, hai luồng tư tưởng này đều không mấy
khuyến khích những con người năng động, sáng tạo, đổi mới, sẵn sàng
chiến đấu, vươn lên trong môi trường cạnh tranh tự do khốc liệt.
Cụ thể việc chưa thực sự sáng tạo ở những mảng sau:
- Sáng tạo đối với sản phẩm: Đây là một khâu then chốt trong việc
tạo ra một sản phẩm mới. Gần đây người ta nói nhiều tới chiến lược “ Tập
trung để khác biệt” và coi đó như là chìa khóa thành công của doanh
nghiệp. Rất tiếc rằng điều đó ở doanh nghiệp Việt Nam chưa được coi
trọng. Họ đa phần chỉ tập trung những sản phẩm mà thị trường đã làm và
chỉ lo để “copy”. Theo thống kê không chính thức, có tới xấp xỉ 90%
doanh nghiệp Việt không có Bộ phận Nghiên cứu và Phát triển.
8


Những chiến lược “hớt váng sữa” của Nokia trong việc tung sản
phẩm điện thoại di động hay Sony với sản phẩm thiết bị nghe nhìn,… cho
doanh nghiệp Việt những bài học quí báu khi tung ra thị trường sản phẩm
mới và để làm điều đó thì cần đầu tư tối đa cho Bộ phận Nghiên cứu và
Phát triển.
- Sáng tạo trong hệ thống phân phối: Thiết lập một hệ thống theo
chuẩn mực, quản lý kênh phân phối và quản lý lực lượng bán hàng hiệu
quả là mấu chốt để cạnh tranh và giành thị phần. Đây là mảnh đất mầu mỡ
cho những ý tưởng sáng tạo trong việc: thiết lập kênh phân phối theo dạng
trực tiếp hay gián tiếp, đơn kênh hay đa kênh, độ dài của kênh và các giải
pháp khuyên khích bán hàng cũng như giảm thiểu các xung đột lợi ích
trong kênh.
Tuy nhiên, như thực tế chúng ta đã thấy các doanh nghiệp Việt

Nam chưa thực hiện được điều này, chúng ta bị “thua” trên sân nhà khi
những Nhà phân phối, Nhà bán lẻ quốc tế chiếm lĩnh thị phần ngay tại
Việt Nam (Big C, Lotte, Metro…)
- Sáng tạo trong định vị thương hiệu: Định vị được thương hiệu và
xây dựng một thương hiệu mang tính nhất quán và chuyên nghiệp là vấn
đề không phải doanh nghiệp Việt nào cũng đã làm được. Nhiều doanh
nghiệp trong quá trình phát triển đã xa rời những giá trị cốt lõi mà mình
định ra rồi phát triển dần theo hướng “đa ngành, đa nghề” để rồi đánh mất
chính bản sắc của mình.
Kết quả thống kê cho thấy, mặc dù số lượng doanh nghiệp tăng nhanh
qua từng năm và có những bước phát triển tích cực, có doanh nghiệp đạt
doanh thu hàng tỷ USD/năm, nhưng thực tế phần lớn doanh nghiệp Việt Nam
có quy mô nhỏ bé, sức cạnh tranh yếu. Tại sao chúng ta có rất nhiều điều kiện
sản xuất thuận lợi như giá nhân công rẻ, nguồn nguyên liệu dồi dào nhưng thị
trường hàng hóa xuất khẩu của ta sang Mỹ và nhiều quốc gia khác không thể
cạnh tranh nổi với hàng Trung Quốc? Nguyên nhân không gì khác ngoài vấn
9


đề các chủ doanh nghiệp Việt Nam thiếu tính đột phá, tư duy sáng tạo trong
sản xuất, thiết kế sản phẩm và triển khai các kế hoạch kinh doanh.
Về khả năng sáng tạo, doanh nhân Việt cần học hỏi nhiều ở doanh nhân
Trung Quốc và Nhật Bản. Đây là hai quốc gia châu Á với những doanh nhân
được đánh giá rất cao về năng lực tư duy sáng tạo và khả năng quản lý doanh
nghiệp. Năng lực sáng tạo là yêu cầu thiết yếu của một nhà lãnh đạo doanh
nghiệp. Năng lực này không nhất thiết phải là “thiên bẩm”; bất cứ ai cũng có
khả năng sáng tạo dù ít hay nhiều. Chính năng lực tư duy sáng tạo của nhà
lãnh đạo quyết định thành công của doanh nghiệp.
Theo ông Nguyễn Liên Phương - Giám đốc Học viện Doanh Nhân Việt
Nam, một trong nhiều nguyên nhân khiến khả năng tư duy sáng tạo của các

nhà lãnh đạo doanh nghiệp Việt yếu hơn doanh nhân thế giới là bởi họ quá ôm
đồm công việc. Trên thực tế, hiện nay phần đông lãnh đạo doanh nghiệp đang
làm công việc của các cán bộ quản lý doanh nghiệp. Các lãnh đạo DN thường
than bận “trăm công ngàn việc”, không có thời gian cho các hoạt động khác,
nhưng thực chất đó là do họ đã ôm cả công việc của các cán bộ quản lý. Đó
cũng là đặc trưng của các chủ doanh nghiệp cổ điển, không phải hình ảnh các
nhà lãnh đạo doanh nghiệp hiện đại. Mặt khác, các nhà lãnh đạo cũng cần biết
rắng, những ý tưởng kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận xuất phát từ những
khoảnh khắc “eureka” tự phát, tuy nhiên đó không phải cách tư duy sáng tạo
bền vững phát huy giá trị. Những doanh nghiệp chỉ chờ đợi sự sáng tạo xuất
hiện ngẫu nhiên thường không thể phát triển hưng thịnh.
3. Tính tiên phong
Khi nói về sứ mệnh doanh nghiệp, chúng ta thường nhấn mạnh đến
vai trò đầu tàu trong tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, đáp ứng nhu
cầu xã hội… Về mặt bề nổi thì đúng là như vậy nhưng nhìn nhận ở góc độ
sâu hơn, tính tiên phong, mở đường cho những ý tưởng mới, nhận thức
mới và ở mức độ nào đó, tác động tích cực đến tầm nhìn trong tổ chức đời
10


sống xã hội. Dưới đây là một số tính tiên phong trong hoạt động doanh
nghiệp Việt Nam:
- Tiên phong về sản phẩm mới, dịch vụ mới
- Tiên phong về công nghệ
- Tiên phong trong phương pháp quản trị doanh nghiệp
- Tiên phong về văn hóa và tri thức
Khi Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, chúng ta có
cái nhìn logic hơn về mối quan hệ cung – cầu, giá – cầu; nhưng chỉ khi
các siêu thị Metro, Vincom, BigC, Nguyễn Kim, Parkson,… tung những
“đòn” siêu khuyến mãi, chúng ta mới nhận thức một cách trực quan, đầy

đủ sự vận động của giá lên cầu, cũng như quyền năng, giới hạn của người
tiêu dùng trong 3 trụ cột quyết định đến nhịp độ phát triển đất nước, bao
gồm: xuất khẩu – tiêu dùng trong nước – đầu tư toàn xã hội.
Cùng với động lực mở rộng thị trường, doanh nhân có nhu cầu sử
dụng những biểu tượng văn hóa dân tộc. Họ là sứ giả đưa những tinh hoa
Việt Nam ra thế giới như: Café Trung Nguyên, dép Bitis, bánh kẹo Kinh
Đô… xuất hiện ở nhiều châu lục, khiến Việt Nam gần gũi hơn trong con
mắt bạn bè thế giới.
Hoạt động của doanh nhân còn mở rộng ra thị trường nhân lực,
buộc các trường đại học, viện nghiên cứu phải đổi mới phương pháp giáo
dục, nghiên cứu khoa học theo hướng coi trọng thực hành hơn. Sỡ dĩ
doanh nhân giữ vai trò tiên phong trong sáng tạo, đổi mới nhận thức, cách
nhìn như vậy là do họ là đối tượng sử dụng tài nguyên (đất, mặt nước,
rừng, dải tần số, nhân lực, thông tin,…) nhiều nhất; họ cũng là đối tượng
sử dụng công nghệ nhiều nhất. Tính tiên phong cũng là nhân tố quan trọng
bậc nhất trong chiến lược cạnh tranh vượt lên đối thủ.

11


III. Đánh giá thực trạng
Qua tìm hiểu thông tin trên Internet, qua bài báo (báo hình, báo nói, báo
viết…) về doanh nhân, thực tế tiếp xúc với một số doanh nhân, Tôi đánh giá
như sau:
Stt

Nội dung

Thang điểm
Rất


Thấp

thấp

I

Mức độ dám chấp nhận rủi ro

1

Theo độ tuổi

1.1

Dưới 30 tuổi

1.2

Từ 30 đến 45 tuổi

1.3

Trên 45 tuổi

2

Theo giới tính

2.1


Nam

2.2

Nữ

3

Theo khu vực kinh tế

3.1

Tư nhân

3.2

Nhà nước

3.3

Liên doanh

3.4

Nước ngoài

4

Theo lĩnh vực, ngành nghề


Trung

Sản xuất

4.2

Dịch vụ

Rất cao





bình




x
x
x

x
x

x
x
x

x

hoạt động
4.1

Cao

x
x
12


II

Tính đổi mới, sáng tạo

1

Theo độ tuổi

1.1

Dưới 30 tuổi

x

1.2

Từ 30 đến 45 tuổi


x

1.3

Trên 45 tuổi

2

Theo giới tính

2.1

Nam

x

2.2

Nữ

x

3

Theo khu vực kinh tế

3.1

Tư nhân


3.2

Nhà nước

3.3

Liên doanh

3.4

Nước ngoài

4

Theo lĩnh vực, ngành nghề

x

x
x
x
x

hoạt động
4.1

Sản xuất

x


4.2

Dịch vụ

x

III

Tính tiên phong, đi trước đối
thủ trong các hoạt động kinh
doanh

1

Theo độ tuổi

1.1

Dưới 30 tuổi

x

1.2

Từ 30 đến 45 tuổi

x
13



1.3

Trên 45 tuổi

x

2

Theo giới tính

2.1

Nam

2.2

Nữ

3

Theo khu vực kinh tế

3.1

Tư nhân

3.2

Nhà nước


3.3

Liên doanh

3.4

Nước ngoài

4

Theo lĩnh vực, ngành nghề

x
x

x
x
x
x

hoạt động
4.1

Sản xuất

4.2

Dịch vụ

x

x

Qua bảng đánh giá nêu trên, chúng ta có thể thấy:
(1) Đối với tính dám chấp nhận rủi ro:
- Ở độ tuổi dưới 30 tuổi đang trong quá trình học tập, tích luỹ kinh
nghiệm nên ở độ tuổi này mức độ dám chấp nhận rủi ro thấp hơn lứa tuổi từ
30-45 do lứa tuổi này đã trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm và tích lũy được
nguồn lực (tài chính, nhân lực, quan hệ…). Trong khi đó ở độ tuổi trên 45 khi
đó thường tính toán mức độ an toàn bảo toàn nguồn lực nên mức độ chấp
nhận rủi ro kém đi nhiều.
- Phân tích theo giới tính thì: Doanh nhân nam thường chịu chấp nhận
rủi ro cao hơn doanh nhân nữ, đây cũng là đặc tính về tâm lý của nam và nữ:
nữ giới thường hướng tới sự an toàn, tuy nhiên trong thực tế có những nữ
doanh nhân dám chấp nhận rủi ro cao khi đầu tư vào lĩnh vực mới (Bà
14


Nguyễn Lê Phương Thảo, Giám đốc đối ngoại Sacombank; Bà Đào Mỹ Ngọc
giám đốc Công ty TNHH bảo vệ – vệ sĩ Vương Gia …).
- Theo khu vực kinh tế thì: Doanh nghiệp Nhà nước mức chấp nhận rủi
ro là thấp, đây cũng là đặc điểm của khu vực này khi sử dụng nguồn vốn
NSNN, qua nhiều khâu, cấp trình duyệt của cơ quan hành chính Nhà nước,
chịu sự kiểm tra, kiểm soát của người, cơ quan có thẩm quyền.
Trong khi đó, ở khu vực tư nhân và liên doanh ở mức cao vì việc sử
dụng nguồn vốn được cởi trói, tư duy của doanh nhân dám chấp nhận rủi ro
cao hơn. Đặc biệt đối với doanh nghiệp nước ngoài có bề dày kinh nghiệm
nên mức độ chấp nhận rủi ro cao hơn.
- Theo lĩnh vực, ngành nghề hoạt động: Đối với doanh nhân thực hiện
lĩnh vực dịch vụ thường chấp nhận rủi ro cao do lĩnh vực này cần sự sáng tạo,
tính đột biến, khác biệt. Trong khi đó doanh nhân trong lĩnh vực sản xuất cần

cân nhắc kỹ khi đầu tư vào công việc mới do cần đầu tư vốn nhiều vào nghiên
cứu, ứng dụng công nghệ sản xuất ra sản phẩm.
(2) Tính đổi mới, sáng tạo:
- Ở độ tuổi dưới 30 tuổi và từ 30-45 có tính đổi mới sáng tạo nhanh
nhậy với thị trường, tiếp thu, học hỏi công nghệ mới nhanh, chịu khó tìm hiểu
cái mới. Trong khi đó ở độ tuổi trên 45, độ ì của tuổi tác cũng ảnh hưởng tới
tính đổi mới, sáng tạo.
- Phân tích theo giới tính thì cả nam và nữ ở mức trung bình trong đổi
mới sáng tạo.
- Phân tích theo khu vực kinh tế thì: Doanh nghiệp Nhà nước tính sáng
tạo thấp do các Nhà lãnh đạo ở các Doanh nghiệp này thường ở độ tuổi cao
trên 45 tuổi, nhiều khi chuyển từ các cơ quan hành chính nhà nước sang kinh
doanh.
Trong khi đó, ở khu vực tư nhân, liên doanh ở mức cao bắt buộc các
doanh nhân phải đổi mới, sáng tạo thì mới đảm bảo cạnh tranh trên thị trường,
15


nếu không muốn bị phá sản. Đặc biệt đối với doanh nhân ở doanh nghiệp
nước ngoài tính đổi mới sáng tạo rất cao, đây là đòi hỏi nếu không đáp ứng sẽ
bị loại bỏ.
- Phân tích theo lĩnh vực, ngành nghề hoạt động: thì cả lĩnh vực sản
xuất và dịch vụ tính đổi mới sáng tạo chỉ ở mức trung bình.
(3) Tính tiên phong, đi trước đối thủ trong các hoạt động kinh
doanh:
- Ở độ tuổi dưới 30 tuổi và từ 30-45 do có tính đổi mới sáng tạo cao,
đồng thời chịu chấp nhận rủi ro do đó doanh nhân tính tiên phong tiên phong,
đi trước đối thủ trong các hoạt động kinh doanh ở mức cao. Trong khi đó ở độ
tuổi trên 45 tính đổi mới, sáng tạo, cũng như chấp nhận rủi ro thấp nên thường
không đi trước đối thủ trong kinh doanh.

- Phân tích theo giới tính: thì doanh nhân nam do cá tính mạnh mẽ, chụi
chấp nhận rủi ro nên thường tiên phong, đi trước đối thủ cạnh tranh. Trong khi
đó ở doanh nhân nữ chỉ ở mức trung bình.
- Phân tích theo khu vực kinh tế thì: Doanh nghiệp Nhà nước tính tiên
phong, đi trước đối thủ trong các hoạt động kinh doanh thấp, do thường ở
doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực độc quyền hoặc có Nhà
nước bao tiêu sản phẩm, ưu đãi về thu phí, lệ phí.
Trong khi đó, ở khu vực tư nhân, liên doanh ở mức cao do bắt buộc các
doanh nhân phải đi trước thì mới chiếm lĩnh thị trường. Nhất là với doanh
nhân ở doanh nghiệp nước ngoài tính tiên phong rất cao, thường các doanh
nghiệp Việt Nam học tập và đi theo các doanh nghiệp này.
- Phân tích theo lĩnh vực, ngành nghề hoạt động: thì lĩnh vực dịch vụ ở
mức cao do đặc thù của lĩnh vực dịch vụ cần luôn luôn đổi mới, đi trước.
Trong khi đó, lĩnh vực sản xuất cần thận trọng hơn khi đầu tư trong các công
việc mới.

16


* Tôi đã phỏng vấn một số doanh nhân trẻ có độ tuổi từ 30-45 tuổi thì
cũng nhận được sự đồng cảm với đánh giá nêu trên, cụ thể các doanh nhân
sau: Ông Bùi Quý Thoan Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Vĩnh
Hưng; Ông Bùi Quang Hoà Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn Thẩm định và
Đầu tư công nghệ Gia Lộc; ông Vũ Văn Doanh Giám đốc Công ty cổ phần
máy và công nghệ thông tin; bà Hà thị Thu Thanh Tổng giám đốc Công ty
Deloitte Việt Nam và một số doanh nhân khác đang là học viên của lớp
X0810, X0410.

17



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình môn học Quản trị Maketing – Chương trình đào tạo
Thạc sỹ quản trị kinh doanh quốc tế của Đại học Grigg.
2. Bài giảng của giảng viên trên lớp
3. Tài liệu trên Internet: Website của VCCI, Bộ KH&ĐT, Tổng cục
Thống kê…
4. Báo diễn đàn doanh nghiệp, Thời báo kinh tế,…
5. Phỏng vấn trực tiếp một số doanh nhân.

18



×