Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.71 KB, 12 trang )

\
LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá,khu vực hoá nền kinh tế.Tiến trình
toàn cầu hoá mở ra cho các quốc gia cả những quốc gia phát triển và đang phát triển
những cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.,Hội nhập quốc tế
vừa là cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam
trong công cuộc tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường quốc tế.Trình độ phát
triển kinh tế của nước ta còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và
thế giới.Một trong những yếu kém hiện nay của toàn nền kinh tế nói chung và của
các doanh nghiệp nói riêng đó là sức cạnh tranh trên thị trường cả trong nước lẫn
nước ngoài.Việc nhìn nhận được những thuận lợi và khó khăn của mình sẽ giúp cho
các doanh nghiệp Việt Nam rút ra những bài học bổ ích và tìm được lời giải đúng
nhất trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên em đã quyết định chọn đề tài
tiểu luận “Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay”.Bài viết của em sẽ đề cập về cơ hội và thách
thức của các doanh nghiệp Việt Nam trước hiệp định thương mại song phương
(HĐTM) Việt-Mỹ,việc gia nhập AFTA.Để hoàn thành đề tài này em nhận được sự
giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Quản Lý Doanh Nghiệp đặc biệt là thầy Phạm
Văn Minh em xin chân thành cám ơn các thầy cô đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn
thành đề tài. Tuy nhiên đề tài còn nhiều bất cập, không tránh khỏi những thiếu sót
em rất mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô để đề tài được đi vào thực
tiễn .
PHẦN I
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRƯỚC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT-MỸ.
I/Sự ra đời của hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ.
Trang 1
\
Chúng ta biết rằng đối với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ thì một sự hợp tác bình
đẳng cùng có lợi trong lĩnh vực kinh tế thương mại sẽ giúp hai nước mau chóng


khép lại quá khứ ,nhìn về tương lai vì lợi ích chung của hai dân tộc.Tuy nhiên, nếu
trong quan hệ ngoại giao đã đạt được những thành tích nhất định như bãi bỏ lệnh
cấm vận vào năm 1994, bình thường hoá quan hệ hai nước vào năm 1995,thành lập
đại sứ quán hai nước vào năm 1997, thì trong quan hệ kinh tế bao gồm thương mại
và đầu tư lại phát triển khá chậm chạp, chưa tương xứng với tiềm năng của hai
nước.Chính vì thế HĐTM song phương Việt-Mỹ được ký kết ngày 14/7/2000 đánh
dâú một bước tiến mới trong quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa Kỳ.
Hai bên đã cam kết thực hiện các nguyên tắc mậu dịch phù hợp với các thông lệ
của WTO, bao gồm thực hiện quy chế tối hậu quốc và không phân biệt đối
xử,những nỗ lực chung về thương mại, mở rộng và thúc đẩy thương mại,bằng việc
cắt giảm thuế quan và xoá bỏ các biện pháp ngăn chặn phi thuế quan như quota(hạn
nghạch),đảm bảo quyền buôn bán cho các doanh nghiệp nước ngoài và trong
nước .Ngoài ra còn có những can kết về quyền sở hữu trí tuệ phát triển quan hệ đầu
tư.
II/Cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam trước HĐTM Việt-Mỹ
1/ HĐTM Việt-Mỹ mở cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu
hàng hoá sang Mỹ một thị trường mạnh nhất thế giới với hơn 245 triệu người.Hàng
hoá của Việt Nam sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn do mức thuế suất chỉ còn trên
3%,trong khi trước kia phải từ 40% đến 80%.Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ xuất
khẩu sang Mỹ những mặt hàng mà chúng ta có lợi thế như dầu thô, dệt may, giày
dép, mặt hàng nông hải sản.
Cơ hội xuất khẩu sang thị trường Mỹ là rất lớn.Năm 1999 giá trị xuất khẩu của
Việt Nam sang thị trường Mỹ chỉ đạt 601 triệu USD/năm,thấp hơn nhiều so với các
nước trong khu vực mà Mỹ đã áp đặt quy chế quan hệ bình thườngvà là thành viên
của WTO.Kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ bằng 1/35 của Malaixia
và bằng 1/23 của Thái Lan (do một lượng hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
phải qua nước thứ ba, chủ yếu là Singapore nên số liệu của Việt Nam và Mỹ về xuất
khẩu của Việt Nam và Mỹ về xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ là khá
Trang 2
\

lớn.Khi hiệp định thương mại được thực hiện, do giảm hàng hoá qua trung gian nên
xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ có cơ hội tăng mạnh hơn.Có ý kiến cho rằng
năm 1999 ”Giá trị kim nghạch nhập khẩu của Mỹ là 1227 tỷ USD, do đó dù Việt
Nam có sang Mỹ tới 1 tỷ USD thì cũng như muối bỏ bể ”). Còn nếu xét về cơ cấu
xuấ nhập khẩu sang thị trường Mỹ trong tổng xuất nhập khẩu cũng rất nhỏ bé.Trong
suốt giai đoạn 1994-1999, xuất khẩu sang thị trường chỉ đạt 2,4% tổng giá trị kim
nghạch nhập khẩu của Việt Nam. Trong khi đó tỉ lệ này của Thái Lan là 17,4% và
10,3% và Malaixia là 19,4% và 11,9% (So với các thị trường có mức thu nhập và
tiêu dùnh bình quân đầu người tương đương, hiện nay thị trường Mỹ chỉ chiếm
4,8% giá trị kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam so với các nước Châu Âu là 24%
và Nhật Bản là 28,7%).
2/HĐTM Việt-Mỹ sẽ tạo cơ hội làm ăn mới cho các nhà đầu tư Mỹ tại Việt
Nam dưới hình thức đầu tư trực tiếp hoặc liên doanh với các doanh nghiệp Việt
Nam qua đó sẽ tăng khả năng thành công cũng như học hỏi được cách quản lý của
các nhà kinh doanh hàng đầu thế giới cho các doanh nghiệp Việt Nam.Đồng thời nó
cũng mở ra cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam phải nổ lực không ngừng nâng
cao năng lực sản xuất kinh doanh, học tập một cách làm ăn bài bản, phù hợp với luật
lệ kinh doanh quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể tiếp thu công nghệ
tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, góp phần thúc đẩy nhanh hơn tiến trinh công nghiệp hoá-
hiện đại hoá đất nước.
3/HĐTM Việt-Mỹ giúp các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu một lượng
hàng lớn vào Mỹ do đó các doanh nghiệp sẽ giải quyết được vấn đề việc làm cho
công nhân của mình đồng thời cũng tạo nhiều công ăn việc làm mới góp phần giải
quyết vấn đề dân số và việc làm ở Việt Nam.
III/Những thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam
1/Trình độ phát triển kinh tế giữa hai nước rất chênh lệch, lại có những
điểm rất khác nhau về thể chế chính trị xã hội, về quan niệm ,về tập quán ,sở thích,
thị hiếu người tiêu dùng.Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không tính đến các nhân
tố này thì có thể dẫn đến tư tưởng nôn nóng ,sốt ruột hoặc chủ quan hay bi quan
Trang 3

\
trong khi giải quyết các mối quan hệ phát sinh trong quá trình làm ăn với Mỹ do đó
rất dẫn đến thất bại.
2/Hệ thống pháp luật Việt Nam còn nhiều thiếu sót lại chưa đồng bộ và có
nhiều điểm không phù hợp với thông lệ quốc tế.Mỹ là một nước có hệ thống pháp
luật hết sức chặt chẽ với tư cách là một siêu cường về kinh tế và chính trị Mỹ đã tự
đặt ra những điều luật của riêng mình do đó việc mới tiếp xúc với một thị trường
mới mẻ sẽ khiến các doanh nghiệp Việt Nam không khỏi bỡ ngỡ rất khó tránh khỏi
những sai lầm bởi ở Mỹ “kiện tụng cũng được coi như một nghề” mà bằng chứng
chính là việc xuất khẩu cá Tra cá Basa của các doanh nghiệp Việt Nam sang Mỹ.
3/Sau một thời gian ngắn(3-7 năm), khi HĐTM có hiệu lực nhiều hàng hoá
của Mỹ sẽ được nhập khẩu vào Việt Nam với việc bãi bỏ hạn ngạch và giảm thuế sẽ
đặt các doanh nghiệp Việt Nam ở trong một điều kiện cạnh tranh gay gắt hơn trước
đây.Đồng thời các lĩnh vực hoạt động tài chính ,ngân hàng bảo hiểm ,viễn thông,
pháp lý, giáo dục,y tế sẽ chiếm lĩnh thị trường Việt Nam làm cho các doanh nghiệp
kinh doanh trong những ngành này của Việt Nam sẽ gặp phải những đối thủ cạnh
tranh hết sức gay gắt vì những lợi thế hơn hẳn của họ .Nếu chúng ta không có những
chuẩn bị ngay từ bây giờ thì người tiêu dùng Việt Nam chỉ hướng tới những dịch vụ
tiện lợi hơn của các nhà đầu tư Mỹ.
4/ Các doanh nghiệp Việt Nam, những người trực tiếp làm ăn với Mỹ lại
chưa thông hiểu luật lệ cung cách kinh doanh của người Mỹ.Chính điều này chẳng
những có thể dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh mà đôi khi còn bị thiệt thòi
vì những lý do không đáng có. Bên cạnh đó ,với trình độ quản lý còn yếu kém, lại
chưa có kinh nghiệm làm ăn theo cơ chế thị trường cùng với trình độ công nghệ còn
lạc hậu, trình độ chuyên môn của người lao động còn chưa cao.Tất cả những điều
đó làm cho sản phẩm của chúng ta còn kém về chất lượng, xấu về hình thức khó
lòng cạnh tranh với biết bao bạn hàng mậu dịch của Mỹ từ các nước Nam Mỹ, từ
Trung Quốc, từ các nước Nics, các nước ASEAN. Đây chính là thách thức lớn cho
các doanh nghiệp Việt Nam khi HĐTM có hiệu lực.


Trang 4
\
PHẦN HAI
I. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
AFTA.
ASEAN (Asscociation of Southeast Asian Nation), hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á được thành lập từ năm 1976 với mục đích hợp tác toàn diện trên mọi
lĩnh vực kinh tế - chính trị, khoa học, xã hội. Đến nay, ASEAN đã phát triển lớn
mạnh với 10 thành: Brunei, Indonesia, Malaysia, Phillipin, Singapore, Thái lan, Việt
Nam, Campuchia, Lào và Mianmar. Tuy vậy là một khu vực kinh tế phát triển vào
loại năng động nhất thế giới, vấn đề hợp tác kinh tế trong khu vực lại được ra đời
khá muộn, năm 1992, 25 năm sau khi thành lập ASEAN.
Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng với kế
hoạch hợp tác kinh tế mà lĩnh vực ưu tiên là cung ứng và sản xuất các hàng hoá cơ
bản, các xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả thuận thương mại ưu đãi và các quan
hệ kinh tế đối ngoại. Tuy đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong
ASEAN nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt được các mục tiêu mong đợi.
Chỉ đến năm 1992, khi các nước thành viên ASEAN ký kết một hiệp định về khu
vực mậu dich tự do AFTA hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN mới thực sự được
đưa lên một tầm mức mới.Mục tiêu của AFTA là :
Tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan
trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan.
Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối
thị trường thống nhất.
Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay
đổi, đặc biệt là việc phát triển của các thoả thuận thương mại khu vực (Regional
trade arrangement - RTA) trên thế giới.
II. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi gia nhập
AFTA.
Trang 5

×