Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Nghiên cứu khảo sát đánh giá sự tác động của sản xuất đến môi trường tại công ty cổ phần dệt kim Hà Nội năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.77 KB, 65 trang )

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của kinh tế và sự gia tăng dân số trên toàn thế
giới vấn đề ô nhiễm môi sinh, mất cân bằng sinh thái đã tới mức nghiêm
trọng. Nếu con người cứ tiếp tục hoạt động của mình mà không chú ý đến
việc bảo vệ thiên nhiên, giữ gìn môi sinh thì họ tự huỷ diệt điều kiện sống của
mình và ngay chính bản thân mình [2].
Bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo sự
phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững, hiện nay trở thành nhiệm vụ
cấp bách, mang tính toàn cầu.
Như ta đã biết môi trường được cấu tạo bởi 3 thành phần: môi trường
khí quyển, môi trường thuỷ quyển và môi trường thạch quyển; chúng có mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Do đặc điểm, thành phần và cấu trúc từng
môi truờng mà mức độ lan truyền các chất khác nhau, mức độ lan truyền các
chất trong môi trường thuỷ quyển và môi trường khí quyển là lớn nhất. Vì vậy
ô nhiễm môi trường không khí và môi trường nước gây mối lo ngại cho con
người do tác dụng độc hại của nó. Các chất gây ô nhiễm môi trường rất đa
dạng về loại chất cũng như về dạng tồn tại, do đó nó gây ảnh hưởng rộng và
nhanh chóng đến con người, động thực vật trên trái đất [3].
Có rất nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, trong đó sự ảnh
hưởng của môi trường công nghiệp là rất lớn. Bởi lẽ nói tới ô nhiễm công
nghiệp, trước hết nên lưu ý rằng ở trong mọi trường hợp, tất cả các nguồn tài
nguyên khai thác từ môi trường tự nhiên một phần được chuyển đổi thành sản
phẩm có ích còn một phần sẽ quay lại môi trường tự nhiên dưới dạng chất thải
công nghiệp. Bản thân sản phẩm là có ích tại giai đoạn này nhưng tới một lúc
nào đó cũng bị biến đổi, mất dần giá trị sử dụng và cũng quay về môi trường
dưới dạng chất thải. Như vậy xét cho cùng trong mối quan hệ sản xuất công
Đàm Thị Lê


Hoá

1

K31
D


nghiệp – môi trường mọi yếu tố đầu vào đều là tài nguyên và các yếu tố đầu
ra đều là chất thải.
Từ thực trạng trên, ta thấy rằng việc bảo vệ môi trường phải đi đôi với
việc xử lí chất thải của các nhà máy khi xả vào môi trường. Hàng chục năm
qua cùng với thế giới, vấn đề bảo vệ môi trường đã và đang được Đảng và
Nhà Nước ta quan tâm triển khai từ Trung ương đến địa phương. Luật bảo vệ
môi trường đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá IX kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 27/12/1993 và có hiệu lực kể từ ngày
8/1/1994 [1].
Nhận thức được vấn đề nêu trên, để thực hiện nghiêm chỉnh luật bảo vệ
môi trường của Nhà nước, việc khảo sát đánh giá môi trường tại các xí
nghiệp, các nhà máy là rất cần thiết. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên
cứu khảo sát đánh giá sự tác động của sản xuất đến môi trường tại Công ty
cổ phần Dệt Kim Hà Nội năm 2008” để thực hiện khoá luận tốt nghiệp.
Công ty Dệt Kim Hà Nội là một đơn vị quốc doanh mới được thành lập
từ tháng 10/1996, là doanh nghiệp chuyên sản xuất bít tất các loại phục vụ
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trong quá trình sản xuất tại công ty có thể
thải ra môi trường các chất gây ô nhiễm, các chất này có khả năng ảnh hưởng
trực tiếp hay gián tiếp đến đời sống cán bộ và công nhân trong xí nghiệp,
cũng như đời sống của nhân dân xung quanh khu vực Công ty. Vì vậy, việc
xác định và định lượng các yếu tố gây độc là hết sức cần thiết.



CHƢƠNG 1

MÔI TRƢỜNG, VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG VÀ
NHỮNG GIẢI PHÁP CHO VIỆC PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG
1.1 MÔI TRƢỜNG VÀ VẤN ĐỀ GÂY Ô NHIỄM, HỦY HOẠI MÔI
TRƢỜNG

“Môi trường” của một vật thể hoặc một một sự kiện là tổng hợp các điều
kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới vật thể và sự kiện đó. Bất cứ một vật thể,
một sự kiện nào cũng diễn biến trong một môi trường nhất định [1].
Môi trường, sức khoẻ và sự phát triển của con người phụ thuộc rất nhiều
vào những gì mà chúng ta làm hôm nay. Nếu con người không thay đổi
phương thức khai thác, sản xuất và thậm chí cả những nền nếp sinh hoạt thì
trái đất vẫn tiếp tục bị tổn thương và môi trường mà sự sống của chúng ta
đang lệ thuộc vào sẽ tiếp tục bị huỷ hoại.
Các vấn đề trên đang ngày càng trầm trọng hơn và nó đang ảnh hưởng
tới mọi quốc gia cho dù đó là quốc gia có nền kinh tế đã hay đang phát triển.
Chúng ta thấy rằng vấn đề môi trường tự nó đã gây nên mối quan hệ phụ
thuộc rất lớn giữa các quốc gia trên thế giới, nó không thể được giải quyết
một cách tách biệt với các tình trạng kinh tế, xã hội và những hoàn cảnh cụ
thể của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức.
Những vấn đề chung nhất về tình trạng môi trường liên quan đến mọi
quốc gia được thể hiện qua các hiện tượng sau:
1.1.1 Tình trạng tầng ôzôn bị phá huỷ
Với ý nghĩa như lưới lọc, tầng ôzôn có tác dụng ngăn các luồng bức xạ
có hại của mặt trời để bảo vệ trái đất.



Theo một vòng tuần hoàn động của sự cân bằng sinh thái, tầng ôzôn
này thường xuyên bị phá huỷ và lại kiến tạo một cách bền vững và ổn định để
duy trì chức năng của nó [7].
Cơ chế của quá trình phân huỷ ôzôn chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng,
có nhiều tài liệu đưa ra những ý kiến khác nhau. Nhiều tác giả cho rằng
tầng ôzôn bị phá huỷ do 4 nguyên nhân cơ bản: Do các nguyên tử oxi (O),
các gốc hiđrôxyl hoạt động (HO), các oxit nitơ (NOx) và quan trọng là các
hợp chất của clo.
Tầng ôzôn bị phá huỷ nhiều sẽ làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của con
người gây huỷ hoại thuỷ tinh thể. Nó cũng gây tác động đến đời sống cây
trồng, tới quá trình quang hợp và gây ảnh hưởng lâu dài cho các sản phẩm
công nghiệp.
1.1.2 Tình trạng nóng dần lên của trái đất
Sự nóng dần lên của trái đất hay “hiệu ứng nhà kính” là hiện tượng
nóng dần lên của khí quyển do sự gia tăng của một số loại khí, trong đó chủ
yếu là khí cacbonic (CO2), mêtan (CH4) và một số loại khí phá huỷ tầng ôzôn.
Như chúng ta đã biết, nhiệt độ bề mặt trái đất được tạo thành bởi sự cân
bằng giữa năng lượng mặt trời chiếu xuống trái đất và năng lượng bức xạ
nhiệt của mặt đất phát vào không gian vũ trụ. Bức xạ mặt trời là bức xạ sóng
ngắn nó dễ dàng xuyên qua các lớp khí CO2, CH4, hơi nước và tầng ôzôn
chiếu xuống trái đất, ngược lại bức xạ nhiệt từ mặt đất phản xạ vào khí quyển
là bức xạ sóng dài, nó không có khả năng xuyên qua các lớp khí CO2 và lại bị
khí CO2 và hơi nước hấp thụ, do đó nhiệt độ của khí quyển bao quanh trái đất
tăng lên. Hiện tượng này được gọi là “hiệu ứng nhà kính” vì lớp khí CO2,
CH4, hơi nước bao quanh trái đất có tác dụng tương tự như lớp kính giữ nhiệt
của nhà kính trồng rau xanh mùa đông, chỉ khác là nó quy mô toàn cầu.


Nhiệt độ trái đất tăng lên sẽ là nguyên nhân làm tan lớp băng ở Bắc Cực
và Nam Cực, làm cho mực nước biển dâng cao và dẫn đến làng mạc, thành

phố và các vùng đồng bằng thấp ở ven biển bị chìm dưới nước biển.
Có thể còn nhiều nguyên nhân khác ảnh hưởng đến sự nóng dần lên cuả
bầu khí quyển. Sự nóng dần lên của trái đất là một nguy cơ môi trường rất
khó kiểm soát vì nó liên quan đến việc sử dụng các nguồn năng lượng, các
quá trình sản xuất công nghiệp, canh tác nông nghiệp và bảo vệ rừng [7].
1.1.3 Sự mất cân bằng sinh thái
Sự đa dạng của quần thể là một trong những yếu tố cơ bản nhất để hệ
sinh thái dễ thích nghi với những thay đổi môi trường. Một hệ sinh thái được
coi là cân bằng khi tất cả các hoạt động của hệ đó đều ở trạng thái cân bằng.
Các hệ sinh thái có khả năng thực hiện một sự tự điều chỉnh nhất định trong
giới hạn xác định, nhưng nếu vượt quá giới hạn này thì chúng không còn khả
năng hoạt động bình thường nữa, lúc đó có thể sẽ phải chịu sự thay đổi nào
đó, hoặc bị tổn thương hay bị phá hoại. Do vậy, việc quản lí sinh thái nhằm
mục đích duy trì một trạng thái cân bằng tự nhiên hay nhân tạo, trong đó sản
phẩm cuối cùng là có lợi cho con người và những sự mất cân bằng có thể
kiểm soát được [7].
1.1.4 Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm môi trường khí quyển là hiện tượng làm cho không khí sạch
thay đổi thành phần và tính chất do bất cứ một nguyên nhân nào, có nguy cơ
gây tác hại đến thực vật và động vật, đến môi trường xung quanh, đến sức
khoẻ con người.
Ước tính khoảng 1/5 dân số thế giới đang phải hít thở bầu không khí ô
nhiễm do các khí thải độc hại vượt quá mức giới hạn cho phép mà tổ chức y
tế thế giới (WHO) đã quy định [7].
Quá trình gây ô nhiễm không khí xảy ra qua các bước sau:


- Nguồn phát sinh chất gây ô nhiễm (tác nhân ô nhiễm)
- Quá trình phát tán, lan truyền trong khí quyển được xem như môi
trường trung gian.

- Bộ phận tiếp nhận là thực vật, động vật, con người, các công trình xây
dựng, đồ vật chịu sự tác động có hại của tác nhân gây ô nhiễm.
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh ô nhiễm, người ta chia tác nhân ô
nhiễm làm 2 loại: nguồn thiên nhiên và nguồn nhân tạo.
- Nguồn thiên nhiên: Núi lửa phun (Sunfua, mêtan …), cháy rừng, bão
bụi, các quá trình thối rữa các xác động thực vật (NH3, H2S, CH4 …).
- Nguồn nhân tạo: Nguồn ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng nhưng chủ yếu
do hoạt động công nghiệp, giao thông vận tải, đốt nhiên liệu hoá thạch, hoạt
động nông nghiệp và các hoạt động khác.
Tác nhân ô nhiễm phát thải ra bao gồm bụi và các khí như CO, CO2,
SOx, hyđrocacbon, NOx, bụi kim loại nặng [1].
1.1.5 Ô nhiễm nƣớc
Nước là cội nguồn chính yếu trong mọi sự sống và bản thân nó cũng là
môi trường sống cho mọi động thực vật sinh tồn. Các nguồn nước và đại
dương đã từ lâu cũng được sử dụng như một nơi để thải bỏ các chất thải [6].
Ô nhiễm nước là sự làm thay đổi bất lợi cho môi trường nước, hoàn
toàn hay tại bộ phận do các hoạt động khác nhau của con người tạo nên.
Những hoạt động gây tác động trực tiếp hay gián tiếp đến những thay đổi về
các mặt năng lượng, mức độ bức xạ mặt trời, thành phần vật lí hoá học của
nước, và sự phong phú của các loài sinh vật sống trong nước.
Về nguồn nước gây ô nhiễm nước có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo. Sự
ô nhiễm có nguồn gốc tự nhiên là do mưa, tuyết tan. Nước mưa rơi xuống mặt
đất, mái nhà, đường phố, khu công nghiệp,… kéo theo các chất bẩn xuống
sông, hồ hoặc các sản phẩm của các hoạt động phát triển sinh vật, vi sinh vật


và xác chết của chúng. Còn sự ô nhiễm nhân tạo chủ yếu là do xả nước sinh
hoạt, công nghiệp, giao thông vận tải, thuốc bảo vệ thực vật và phân bón
trong nông nghiệp.
Nước là môi trường có mức độ lan truyền các chất nhanh và ảnh hưởng

ở một vùng rộng lớn do đó nếu môi trường nước bị ô nhiễm thì con người và
sinh vật phải chịu những hậu quả của nó một cách nặng nề và nhanh chóng.
Hiện nay mọi nguồn nước đều có sự báo động về sự ô nhiễm, ô nhiễm về
nước ngầm cũng là vấn đề nan giải và việc giải quyết rất tốn kém, ô nhiễm
duyên hải biển và đại dương cũng là vấn đề đáng quan tâm, đặc biệt là nạn
chảy dầu và sự cố các giàn khoan đã gây hậu quả lớn về môi sinh.
1.1.6 Ô nhiễm môi truờng đất
Ô nhiễm môi trường đất là tất cả các hiện tượng, các quá trình làm ô
nhiễm bẩn đất, thay đổi các tính chất vật lí hóa học tự nhiên của đất do các tác
nhân gây ô nhiễm dẫn đến làm giảm độ phì nhiêu của đất. Đất là một môi
trường sinh thái rất đa dạng, trong đó luôn luôn xảy ra mối quan hệ lẫn nhau
giữa các thành phần cấu tạo đất rất phức tạp.
Trong thực tế, nhiều tác nhân gây ô nhiễm có nguồn gốc khác nhau
nhưng lại gây tác hại như nhau. Để thuận lợi cho việc giám sát môi trường
người ta thường phân loại theo tác nhân: ô nhiễm do tác nhân hoá học, lí học
và sinh học. Ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật thì môi
trường đất cũng trở nên bị ô nhiễm bởi con người đã đưa vào sản xuất những
ứng dụng khoa học nhằm mục đích nâng cao đời sống phát triển kinh tế đất
nước như việc con người sử dụng phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ,
chất kích thích sinh trưởng…, sử dụng các hoá chất trong công nghiệp, giao
thông vận tải, nghiên cứu khoa học,…


Môi trường đất bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến đời
sống con người như bệnh tật, các công trình xây dựng, quá trình sản xuất
nông nghiệp,… [1].

1.1.7 Sự phá huỷ nguồn tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên được hiểu như là một dạng vật chất hữu ích có sẵn trong
thiên nhiên để cung cấp cho nhu cầu kinh tế xã hội loài người và sinh vật. Tài

nguyên thiên nhiên như là một thành phần của môi trường và bao gồm: rừng,
đất, nguồn nước, các loài động thực vật, các chất khoáng, các nhiên liệu hoá
thạch, nhân lực và thông tin,… [1].
Sự gia tăng dân số, tình trạng di dân đang dẫn đến nhu cầu khai thác sử
dụng tài nguyên ngày càng cao. Tài nguyên bị cạn kiệt làm cho các chu trình
vật chất trong tự nhiên bị phá huỷ, cấu trúc sinh quyển bị thay đổi. Việc khai
thác gỗ và các loại sinh vật của rừng dẫn đến sự tàn phá rừng, thay đổi cấu
trúc thảm thực vật trên hành tinh.
Các ngành công nghiệp khai khoáng, khai thác dầu mỏ,… đã đưa một
lượng phế thải lớn các chất độc hại từ lòng đất vào sinh quyển. Ví như: Hàng
năm có trên 10 triệu tấn dầu mỏ đổ vào đại dương, các loại nước chứa axit
phenol của quá trình khai thác dầu mỏ vào nguồn nước mặt, gây ô nhiễm phá
huỷ cân bằng sinh thái.
1.2 TÁC ĐỘNG CỦA SẢN XUẤT ĐẾN MÔI TRƢỜNG VÀ CÁC
PHƢƠNG PHÁP XỬ LÍ

1.2.1 động của sản xuất công nghiệp đến môi trƣờng
Dân số tăng và sự tiến bộ của khoa học là nguyên nhân cơ bản của quá
trình công nghiệp hoá và đô thị hoá ở tất cả các nước tiên tiến trên thế giới
dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường đến mức báo động. Thật vậy, công


nghiệp hoá đã tiêu thụ một lượng phóng xạ, nhiên liệu và nguyên liệu một
cách vượt bậc làm cạn kiệt nguồn trữ cho tương lai.
Mặt khác, quá trình sản xuất công nghiệp đã làm suy thoái môi trường
qua các sự kiện ô nhiễm nước, không khí và đất do các nhà máy thải ra, vượt
khả năng tự thanh lọc của môi trường.
Ví dụ: Hàng năm, các nước công nghiệp lớn trên thế giới thải ra 115
triệu tấn SO2 và 30 triệu tấn NO2 gây nên hiện tượng mưa axit huỷ diệt ao hồ
và rừng cây [4].

Ở nước ta riêng thành phố Hồ Chí Minh, nhiều khu công nghiệp như
vùng kênh Tham Lương, kênh Lò Gốm, khu Tăng Nhơn Phú - Thủ Đức, nước
và không khí chứa nhiều chất độc như Hg, chất hữu cơ, hàm lượng khí CO2,
NO2,… đã vượt xa tiêu chuẩn vệ sinh cho phép.
Một lượng đáng kể khí CO, CO2 được thải ra từ quá trình sản xuất gang
thép đã gây ra ô nhiễm không khí rất nghiêm trọng, trong đó còn có khí cũng
được thải ra như SO2, H2S,…
Trong công nghiệp sản xuất axit sunfuric khí SO2, SO3, bụi, các oxit
asen, selen và các hợp chất flo cũng tương đối nhiều.
Khi tổng hợp amôniac và axit nitric thì chủ yếu là thải ra các hợp chất
của nitơ như NO, NO2,… ngoài ra còn có khí CO, CO2.
Như vậy tác nhân gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là các hợp chất
cacbon, hợp chất nitơ, hợp chất lưu huỳnh.
1.2.1.1 Các hợp chất có chứa lưu huỳnh
Các hợp chất có chứa lưu huỳnh chủ yếu có trong khí quyển là SO2,
SO3, H2S, H2SO4 và các muối sunfat. Trong đó tác nhân gây ô nhiễm môi
trường quan trọng nhất là H2S, SO2, SO3.
● Hyđrôsunfua (H2S)


Khí H2S là một loại khí rất độc, nó là chất khí không màu có mùi trứng
thối rất khó chịu.
Khí H2S làm rụng lá cây, làm giảm sự sinh trưởng của cây trồng, H2S
gây nhức đầu, mệt mỏi, làm giảm trí nhớ, ở nồng độ cao gây hôn mê, có thể
làm chết người (ở nồng độ 700 – 900 ppm).
Trong khí quyển H2S được hình thành do quá trình phân huỷ các chất
hữu cơ, thực vật, cỏ cây bị thối rữa nhất là ở những hồ đầm cạn nước. Nó còn
sinh ra ở những vùng núi lửa, ở nơi khai thác các mỏ than [1].
● Lưu huỳnh (IV) ôxit (SO2) và lưu huỳnh (VI) ôxit (SO3).
Trong khí quyển, khí sunfua điôxit (SO2) là một chất độc hại, gây ô

nhiễm đứng thứ 2 sau khí cacbon ôxit (CO). Nó chiếm 20% khối lượng của
tất cả các tác nhân gây ô nhiễm không khí.
Khí SO2 là khí không màu, có vị cay và mùi khó chịu. Nó gây đau đầu
nhức mắt và cảm giác nóng trong cổ họng. Khi nồng độ của khí SO2 trong khí
quyển không quá 1 ppm thì gây cay mắt, nhưng khi nồng độ của nó khoảng 3
ppm thì có mùi vị gây kích thích phát cáu.
Khí SO2 được sinh ra từ các hợp chất có chứa lưu huỳnh, hoạt động của
núi lửa, quá trình lưu hoá cao su, các phương tiện giao thông vận tải.
Trong khí quyển khí SO2 bị ôxi hoá thành SO3 theo quá trình ôxi hoá
xúc tác hay ôxi hoá quang hoá. Trong điều kiện độ ẩm cao, SO2 dễ bị các giọt
2+

2+

nước xúc tác (muối của Fe , Mn ,…), NH3 có trong không khí cũng làm cho
phản ứng tăng nhanh và làm tăng độ tan SO2 trong các hạt nước [1].
Hơi SO3 phản ứng rất mạnh với nước tạo thành các hạt sa mù axit
sunfuric rất nhỏ bé, gặp mưa nó rơi xuống mặt đất. Khi nồng độ axit sunfuric
cao vào khoảng pH từ 5,4 – 2,5 được gọi là mưa axit.


SO2 và axit H2SO4 gây tác hại đến sức khoẻ và con người, động vật. Nó
gây tổn hại đến cây trồng các hệ sinh thái nước, ăn mòn các công trình xây
dựng,…


1.2.1.2 Các hợp chất của cacbon
Trong sản xuất công nghiệp việc dùng cacbon làm nhiên liệu và nguyên
liệu với một lượng lớn đã làm sinh ra một lượng đáng kể các khí CO,CO2 thải
ra môi trường, chúng là các tác nhân gây ra ô nhiễm môi trường lớn.

● Cacbon ôxit (CO)
Khí CO là chất gây ô nhiễm phổ biến trong phần dưới của tầng khí
quyển. Nguồn CO nhân tạo chủ yếu được phát từ quá trình cháy không hoàn
toàn các nhiên liệu hoá thạch [1].
CO là một chất khí không màu, không mùi, không vị. Nó hoá lỏng ở
0

nhiệt độ - 192 C và không tan trong nước.
Nhiễm độc bởi CO cơ thể thường bị đau đầu, ù tai, chóng mặt, buồn
nôn, mệt mỏi, co giật rồi bị hôn mê. Chính khí CO tác động với hemoglobin
trong máu. Nó tác động với hemoglobin 250 lần so với ôxi. Khí CO chiếm ôxi
của hemoglobin tạo thành cacboxy hemoglobin (HbCO) làm mất khả năng
vận chuyển ôxi của máu và gây ra ngạt [6].
Hb.O2 + CO ↔ Hb. CO + O2
● Cacbon điôxit (CO2)
Khí CO2 là sản phẩm của quá trình đốt các nhiên liệu rắn như than, củi
và do quá trình hô hấp của động vật.
CO2 là một khí không màu có mùi và vị hơi chua, ở áp suất 60 atm và
ngay ở nhiệt độ thường nó biến thành chất lỏng không màu và linh động. Khi
được làm lạnh đột ngột chất lỏng đó biến thành khối rắn màu trắng giống như
tuyết gọi là tuyết cacbonic [6].
Tuy không có tác dụng độc nhưng với nồng độ CO2 trên 3% ở trong
không khí, trung ương thần kinh của người đã bị rối loạn và đến 10% người
có thể bị mất trí và đi đến chết vì sự hô hấp dừng lại.


Nồng độ khí CO2 trong khí quyển nhanh chóng tăng lên do hoạt động
công việc, gia tăng khối lượng vận tải, đốt các loại nhiên liệu đang tạo nên
hiệu ứng nhà kính. Từ năm 1870 đến năm 1980 nồng độ CO2 trên trái đất tăng
lên 11% từ 290 – 335 ppm, do đó nhiệt độ trung bình trên toàn trái đất sẽ tăng

0

lên 0,5 C.
Nhiệt độ trái đất tăng lên thì khả năng hoà tan CO2 sẽ bị giảm xuống,
một số lượng lớn CO2 sẽ thoát vào khí quyển, làm cho hiệu ứng nhà kính tăng
lên gấp bội. Nếu toàn bộ các khối băng bị tan nước biển sẽ dâng lên từ 75 –
79 m, 1/5 đất đai phần lớn là vùng đông dân, phì nhiêu, kinh tế phát triển sẽ bị
vùi ngập dưới nước đại dương [4].
1.2.1.3 Các hợp chất của nitơ
Các hợp chất chứa nitơ quan trọng trong khí quyển là N2O, NO, NO2,
NH3 và các muối nitrat, nitrit và amoni.
● Nitơ ôxit (NO)
Nitơ ôxit là khí được tạo ra cả từ nguồn tự nhiên và nhân tạo qua quá
trình đốt cháy nhiên liệu hoá thạch ở nhiệt độ cao và sấm sét trong không khí.
NO là chất gây ô nhiễm không khí.
Nitơ ôxit là một khí không màu rất độc, khó hoá rắn và khó hoá lỏng, ít
tan trong nước.
Khí NO kết hợp với oxi và nước trong không khí góp phần vào hiện
tượng mưa axit. Mặt khác, khí NO cùng với những hyđrocacbon chưa cháy
của nhiên liệu, dưới tác dụng của tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời, gây nên
khói mù quang hoá, có hại đối với sức khoẻ con người. Nitơ ôxit cũng như
CO tác dụng mạnh với hemoglobin, nhưng NO tác dụng với hemoglobin
mạnh gấp 1500 lần so với khí CO làm ảnh hưởng đến khí hô hấp, viêm phổi
cấp, phù,… [1].
● Nitơ điôxit (NO2)


Nitơ điôxit được tạo ra với lượng nhỏ cùng với NO và cũng được tạo ra
trong khí quyển bởi sự ôxi hoá NO bằng ôxi không khí.
2NO + O2 → 2NO2

Khí NO2 có màu nâu đỏ, nặng hơn không khí, có mùi khó chịu và
độc. Khí NO2 với nồng độ 100 ppm có thể làm chết người và động vật sau
vài phút, với nồng độ 5 ppm có thể gây tác hại bộ máy hô hấp sau vài phút
tiếp xúc, với nồng độ 15 – 50 ppm gây nguy hiểm cho tim, phổi, gan sau
vài giờ tiếp xúc, với nồng độ 0,06 ppm có thể gây bệnh phổi cho người tiếp
xúc lâu dài [1].
● Amoniac (NH3)
Amoniac chủ yếu tạo ra từ nguồn tự nhiên, là một khí không màu, mùi
khai xốc, nhẹ hơn không khí và tan tốt trong nước. Amoniac được coi là một
chất gây ô nhiễm sinh ra với những lượng lớn đủ để tạo ra những nồng độ cục
bộ lớn hơn nồng độ khác xung quanh [4].
1.2.1.4 Các loại bụi
Bụi là tập hợp nhiều hạt vật chất vô cơ hoặc hữu cơ có kích thước nhỏ
bé, tồn tại trong không khí dưới dạng bụi bay, bụi lắng và các thể khí dung
gồm hơi, khói mù.
Căn cứ vào tác hại của bụi, người ta chia làm 5 loại bụi:
● Bụi gây nhiễm độc chung: Pb, Hg, C6H6,...
● Bụi gây dị ứng, viêm mũi, hen, nổi ban: bụi bông gai, phấn hoa,
phân hoá học,…
● Bụi gây ung thư: bụi quặng, bụi phóng xạ, hợp chất crôm,…
● Bụi gây nhiễm trùng: lông, tóc,…
● Bụi gây xơ phổi: bụi amiăng, bụi thạch anh.
1.2.2 Các phƣơng pháp xử lí
1.2.2.1 Xử lí khí thải


Căn cứ vào tình hình thực tế khu vực, chúng ta phải chịu phương pháp
xử lí ô nhiễm khả thi cho từng nhà máy xí nghiệp.
● Xử lí bụi
Có nhiều phương pháp xử lí bụi:

- Với phương pháp trọng lực, các hạt bụi lơ lửng được tách ra bởi trọng
trường bằng thiết bị là phòng tắm bụi. Khi hạt bụi bị rơi xuống nó chịu sự tác
dụng của 2 lực: trọng lực và trở lực của môi trường.
- Lắng bụi li tâm là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong công
nghiệp vì hiệu suất của nó lớn. Hạt bụi chịu 3 lực tác dụng: lực li tâm, lực cản
môi trường và trọng lực của hạt.
- Phương pháp lọc điện khí thải cho qua hệ thống tạo điện trường mạnh.
Các hạt bụi được tích điện và giữ lại trên các điện cực có điện tích trái dấu.
Phương pháp này cho phép lọc được các loại bụi có kích thước khác nhau
có hiệu suất 85 – 99 %, ngoài ra còn cho phép hấp thụ một phần khí thải [5].
● Xử lí các chất ô nhiễm dạng khí
Phương pháp hấp thụ
Nguyên tắc cơ bản của phương pháp này là hấp thụ khí thải bằng
nước, dung dịch xút, hoặc axit trong tháp hấp thụ, sau đó tái sinh hoặc không
tái sinh dung dịch đã hấp thụ.
* Với khí SO2:
Nếu nồng độ khí SO2 từ 4 – 8% thể tích thường dùng dung dịch
hấp thụ SO2 sau đó tái sinh để sản xuất axit H2SO4.
Các chất có thể dùng để hấp thụ SO2 là: sôđa, muối amoni, MgO
huyền phù trong dung dịch nước.
- Dùng dung dịch có gốc sôđa với nồng độ 25%.
Na2CO3 + 2SO2 + H2O

→ 2NaHSO3 + CO2

- Dùng các dung dịch muối amoni


(NH4)2SO3 + SO2 + H2O → 2NH4HSO3
- Dùng MgO huyền phù trong dung dịch nước

MgO + SO2 + 6H2O → MgSO3. 6H2O [1]


* Khí ôxit của nitơ (NOx)
Có 2 phương pháp xử lí khô và xử lí ướt
-

Phương pháp khô là phân huỷ các NOx thành O2 và N2 trên xúc tác

-

Phương pháp ướt được sử dụng rộng rãi, có hiệu quả cao. Người ta

Pt.
dùng nước hoặc các dung dịch muối để chuyển tất cả NOx thành dạng muối
thương phẩm.
2NO2 + M2CO3

→ MNO3 + MNO2 + CO2

N2O3 + M2CO3 → 2MNO2+ CO2
Các muối gốc nitrit thường độc nên phải chuyển chúng thành muối
nitrat. Có thể thay thế các muối bằng dung dịch NaOH 20%. Ngoài ra có thể
dùng dung dịch axit H2SO4 hoặc axit HNO3 để hấp thụ khí NOx. [1]
* Với khí CO2
Có thể dùng nước, etanolamin để hấp thụ, hoặc hấp thụ bằng zeolit
-

Dùng etanolamin để hấp thụ: kí hiệu chung của etanolamin là
RNH2 2RNH2


+ CO2 + H2O



(RNH3)2CO3
- Dùng zeolit:
Zeolit là một chất hấp phụ hiệu quả nhất để hấp phụ chọn lọc khí
CO2 ra khỏi hỗn hợp khí thải công nghiệp.
* Với khí H2S:
-

Dùng dung dịch Na2CO3
H2S + Na2CO3 ↔ NaHCO3 + NaHS
NaHS + 1/2 O2

-

→ NaOH + S↓

Dùng hợp chất của Asen hoá trị V
NaAsS5O2 + H2S

→ NaAs2S6O + H2O

NaAs2S6O + 1/2O2 → Na4AsS5O2

+ S↓



-

Dùng phương pháp hiđroquinon - kiềm


O=
= O + H2S HO 
+
S

OH

- Dùng ADA (anthraquinon đisunfonic axit) kèm theo Na2CO3:
H2S + Na2CO3 + ADA S + Na2CO3 + muối natri của
axit 9,10 –
anthraquinon – 2,6 – đisunfonic
-



Dùng than hợp tính để hấp thụ
Phương pháp ôxi hoá khử:
Theo phương án xử lí chất ô nhiễm không khí, đặc biệt chất có

mùi hôi của Công ty công nghệ và hoá chất Châu Á (ACE). Trước hết người
ta cho luồng khí thải qua dung dịch axit sunfuric để hấp thụ amin và amoniac,
rồi cho luống khí tiếp tục đi qua dung dịch kiềm để hấp thụ axit cacboxylic
mercaptan, axit béo, phenol. Sau mỗi giai đoạn đều cho luồng khí qua dung
dịch natri hipoclorit để ôxi hoá anđêhit, H2S, xeton,…
0


Theo phương pháp này thì cần phải làm lạnh khí thải đến 40 – 50 C để
tăng cường khả năng hấp thụ các chất khí trong dung dịch nước.
● Xử lí một số kim loại nặng:
- Xử lí thuỷ ngân:
Dùng MnO2 ở trong quặng thiên nhiên.
2Hg

+

MnO2

→ Hg2MnO2

Xử lí tiếp bằng hoá chất:

xt,t

SO2 + H2O + 1/2O2
Hg2MnO2 + 2H2SO4

0

→ H2SO4
→ Hg2SO4 + MnSO4 + 2H2O

DùngCl2
Hg

+ Cl2 → HgCl2


2Hg

+ Cl2 → Hg2Cl2


Nếu dư Cl2: HgCl2 + Cl2 →

2HgCl2


Dùng lưu huỳnh

§k
th•êng

Hg (độc)+ S



HgS (không độc)

- Xử lí
chì:
Phương pháp xử lí đơn giản nhất là ngưng tụ trực tiếp dòng khí thải
bằng mút hoặc kết tủa các hợp chất của chì: cho dòng khí thải có chứa tạp
chất của chì ở dạng hợp chất qua dung dịch Na2S (K2S, (NH4)2S)
Pb

2+


+

S

2-



PbS↓

Phương pháp tạo phức với 2,3 – đimercapto propanol
H2C CH
– CH2OH HS S
2HSCH2CHCH2

OH + Pb

2+



SH



Pb

+


S

SH

2H

+

HO CH2 CH
1.2.2.2 2.2 Xử lí nước CH2
thải
● Phương pháp cơ học:
Dùng bể lắng để tách các hợp chất ở dạng huyền phù ra khỏi nước.
Cuối cùng nước được lọc qua vách ngăn hay các vật liệu xốp.


Cần lọc qua lớp vật liệu xốp ở dạng hạt quá trình lọc được tiến hành
như sau: lọc qua, lắng trọng lực, quán tính, hấp thụ hoá học, hấp phụ vật lí, sự
bám dính, sự lắng tụ, nuôi dưỡng sinh học,…


● Phương pháp hoá lí:
Những phương pháp hoá lí để xử lí nước thải gồm có đông tụ, keo tụ,
tuyển nổi, hấp phụ, trao đổi ion và phương pháp điện hoá.
● Phương pháp hoá học:
Có 2 phương pháp chính là trung hoà và oxi hoá khử để xử lí nước thải
- Phương pháp trung hoà dựa trên nguyên tắc:
Trộn lẫn nước thải có môi trường axit với nước thải có môi trường
kiềm. Lọc nước thải axit qua lớp vật liệu có tác dụng trung hoà. Hấp thụ
khí axit bằng nước thải kiềm hoặc hấp thụ NH3 bằng nước thải axit.

- Phương pháp ôxi hoá khử:
Sử dụng các chất ôxi hoá mạnh để xử lí nước thải như Cl2, clorua
vôi, thuốc tím, kali bicromat, oxi già, ôzôn,…
- Phương pháp sinh học:
Dựa vào khả năng hoạt động của các vi sinh học để phân huỷ, bẻ gãy
các phân tử hợp chất hữu cơ gây ô nhiễm nước thải thành các hợp chất đơn
giản [5].
1.2.2.3 2.3 Xử lí phế thải rắn
Tất cả các sinh vật trong quá trình phát sinh phát triển và tồn tại đề đưa
vào môi trường các chất phế thải. Nó gây ô nhiễm cho môi trường, vì vậy cần
được xử lí.
● Xử lí các phế thải rắn sinh hoạt:
Quá trình xử lí bao gồm thu gom, vận chuyển, tập trung, xử lí.
Hiện nay việc xử lí các chất thải rắn theo phương pháp công nghệ
được chia ra làm các phương pháp sau:
- Xử lí sơ bộ (tách, phân loại)
- Phương pháp sinh học (ủ hiếu khí)


- Phương pháp nhiệt (đốt)
- Phương pháp hoá học (thủy phân, chưng)
- Phương pháp cơ học (ép, nén)
● Xử lí các phế thải rắn công nghiệp
Phế thải rắn công nghiệp rất đa dạng do đó phương pháp xử lí cũng
không đơn nhất. Hiện nay người ta sử dụng các phương pháp như phân
hủy, hiếu khí, yếm khí, khử độc, đốt các phế thải dễ cháy trong lò đốt và
chôn cất các phế thải công nghiệp độc hại trong các thiết bị chuyên dụng.
Ngoài ra một phần không nhỏ người ta tái sử dụng làm nguyên liệu trong
công nghiệp [5].
1.3 GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG


1.3.1 Mục đích, ý nghĩa
Môi trường đã trở thành vấn đề chung của nhân loại, được toàn thế giới
quan tâm. Nằm trong khung cảnh chung của thế giới, đặc biệt là khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương, môi trường Việt Nam đang bị hủy hoại nghiêm trọng
gây nên sự mất cân bằng sinh thái, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, các mối
quan hệ xã hội mang tính người, tính văn hoá ở nhiều nơi, nhiều lúc bị phá vỡ
hoặc xuống cấp làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và phát triển bền
vững của đất nước. Một trong những nguyên nhân chính là do sự nhận thức và
thái độ của con người đối với môi trường còn hạn chế. Từ đó một vấn đề đặt ra
là: cần thiết phải tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường [8].
Khi con người có nhận thức đúng, đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng,
nội dung bảo vệ môi trường thì tạo ra cho con người có những ứng xử, những
hành động đúng đắn phù hợp với thực tế khách quan. Bảo vệ môi trường là
nhiệm vụ chung của toàn nhân loại, không riêng ai. Bởi vậy giáo dục môi
trường là cả một quá trình lâu dài, kể từ khi con người biết nhận thức được
thế giới vật chất khách quan cho tới lúc từ bỏ thế giới này. Giáo dục môi


trường về nội dung bao hàm những quy luật, những hiện tượng có bản chất
khoa học tự nhiên, nhưng nó lại khác ở chỗ chứa đựng đặc tính xã hội, nhân
văn rất cao.
Do đó việc đưa giáo dục môi trường vào nội dung của quá trình giáo
dục là tất yếu khách quan.
1.3.2 Nội dung kiến thức về giáo dục bảo vệ môi trƣờng đƣa vào hệ thống
giáo dục quốc dân
1.3.2.1 Trang bị cho người học những hiểu biết về môi trường
● Các kiến thức về hệ sinh thái, cấu trúc và chức năng, các hệ sinh
thái chính, cân bằng sinh thái.
● Các kiến thức về môi trường và các thành phần cấu tạo môi trường

như: địa chất, địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, sinh vật và tính đa dạng sinh
học, các cảnh quan thiên nhiên và các nguồn tài nguyên, các kiến thức về dân
số, mối quan hệ giữa dân số và môi trường và hoạt động kinh tế - xã hội của
con người.
● Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển, phát triển bền vững, kế
hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam.
● Các kiến thức về những biến đổi tiêu cực của môi trường do hoạt
động của con người gây ra và hậu quả của chúng như sự suy giảm, cạn kiệt
các nguồn tài nguyên, sự ô nhiễm, suy thoái, huỷ diệt môi trường, sự suy
giảm năng suất, sự thiếu lương thực thực phẩm, nạn nghèo đói, bệnh tật và
suy giảm chất lượng cuộc sống, các vấn đề môi trường toàn cầu [8].
1.3.2.2 Trang bị cho người học những nội dung về sử dụng hợp lí tài
nguyên và biện pháp bảo vệ môi trường
● Sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên và duy trì cân bằng sinh thái.
● Việc cải tạo, hồi phục các tài nguyên đã bị cạn kiệt.


×