Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

quan điểm quá trình phát triển nhân cách theo phân tâm học (của Sigmund Freud) và ý nghĩa thực tiễn của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.1 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Tâm lí học là một môn khoa học nghiên cứu về bản chất, quy luật sự hình
thành, vận hành và phát triển của các hiện tượng tâm lí, lấy con người làm trung
tâm của sự nghiên cứu thông qua các diễn biến tâm lí, tình cảm, dưới sự tác
động của các yếu tố bên trong và bên ngoài. Nhân cách là đỉnh cao nhất của
sự phát triển tâm lí của con người, của tự ý thức và tự điều chỉnh bản thân con
người, là một vấn đề trung tâm của tâm lý học, là vấn đề cơ bản nhất song cũng
là vấn đề phức tạp nhất.
Trong đó vấn đề sự hình thành nhân cách một trong những vấn đề đầu tiên
và cũng là then chốt, đang trở thành trung tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu
với nhiều quan điểm như Freud (thuyết phâm tâm học), Jung (học thuyết nhân
cách biểu tượng), Albert (thuyết nhân cách tư duy, thuyết nhân cách học tập xã
hội), Roger (thuyết nhân cách nhân văn), Frankl, Bandura, Eysenck,… Bài tiểu
luận sau đây nhóm em đi sâu vào nghiên cứu quan điểm quá trình phát triển
nhân cách theo phân tâm học (của Sigmund Freud) và ý nghĩa thực tiễn của nó.
NỘI DUNG
I.Khái niệm nhân cách
1. Định nghĩa
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở
bản sắc và giá trị xã hội của người ấy.
Thuộc tính tâm lý là nói hiện tượng tâm lý tương đối ổn định – kể cả phần
sống động và phần tiềm tang có tính quy luật.
“Tổ hợp” là những thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan hệ chặt
chẽ với nhau, tác động lẫn nhau làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định
“Bản sắc” là muốn nói trong số những thuộc tính đó, trong hệ thống đó có
cái chung từ xã hội, từ giai cấp, tập thể gia đình vào con người những cái chung
này đã trở thành cái riêng, cái khác biệt của từng người có đặc điểm về nội dung
1


và cả về hình thức, không giống với các tổ hợp khác của bất cứ một người nào


khác.
“Giá trị xã hội” là muốn nói những thuộc tính đó thể hiện ra ở những việc
làm, những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động phổ biến của người ấy
và được xã hội đánh giá.
2. Đặc điểm của nhân cách
Một là, tính ổn định của nhân cách: Nhân cách được hình thành và phát triển
trong suốt cuộc đời mỗi con người thông qua hoạt động và giao lưu, nó tương
đối khó hình thành và khó mất đi. Trong thực tế, để hình thành một thuộc tính
không phải là hình thành được ngay mà phải cần có một khoảng thời gian nhất
định và ngược lại muốn loại bỏ thuộc tính đã xác lập cũng phải thế. Vì thế, nhân
cách mang tính ổn định.
Hai là,tính thống nhất của nhân cách: Nhân cách là một thể thống nhất giữa
phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài của con người. Trong nhân cách có sự
hài hòa giữa các cấp độ: cáp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ
siêu cá nhân. Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm sinh lý, các thuộc tính này
được sắp xếp có hệ thống, có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau khi
thể hiện qua hành vi.
Ba là, tính tích cực của nhân cách: Nhân cách là chủ thể của hoạt động và
giao tiếp là sản phẩm của xã hội. Nhân cách không chỉ là khách thể mà còn là
chủ thể của các mối quan hệ xã hội, nghĩa là nó có tính tích cực của mình. Giá
trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân
thể hiện rõ nét ở tính tích cực của nhân cách.
Bốn là, tính giao tiếp của nhân cách: Nhân cách chỉ có thể hình thành phát
triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối quan hệ giao tiếp với
những nhân cách khác. Thông qua giao tiếp con người gia nhập vào hệ thống
quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội. Qua
giao tiếp mà con người tự giáo dục và giáo dục lẫn nhau.
2



II. Quá trình phát triển nhân cách theo phân tâm học
1.Cấu trúc nhân cách theo phân tâm học
Điểm đặc biệt cơ bản nhất của phân tâm học khi nó đưa ra những giả thiết về
nhân cách so với các trường phái tâm lý và ngoại tâm lý khác chính là việc xem
nhân cách không chỉ là một thể loại tính cách con người trong đó cộng gộp lại
một số những đặc điểm riêng biệt, mà còn là việc đưa khái niệm nhân cách vào
trong khía cạnh cấu trúc. Câu hỏi được đặt ra ngay lúc này khó có thể khác hơn :
thế nào là cấu trúc? Nhân cách và cấu trúc liên hệ với nhau như thế nào ? …
Theo S.Freud tâm lý con người được cấu tạo bởi ba khối : vô thức, tiền ý
thức và ý thức; tương ứng với ba khối đó là ba thành tố cấu trúc nhân cách : cái
nó hay chính là cái bản năng(Id), cái tôi hay là cái bản ngã(Ego), cái siêu tôi hay
siêu bản ngã(Superego) gọi là bộ máy tâm lý.
Thứ nhất, vô thức là khối bản năng mà bản năng tình dục giữ vị trí trung
tâm, cung cấp nguồn năng lượng libido chi phối toàn bộ hoạt động đời sống tâm
thần.Khối này có các tính chất : có ngay lúc mới sinh ra, chỉ những lực lượng
nguyên thủy của sự sống giống nhau cho tất cả các sinh vật, nó là nguồn động
lực, sức mạnh cho hoạt động. Id là cái thùng chứa năng lượng tâm thần, là cái
chảo sục sôi những khát vọng, bản năng, hoạt động theo nguyên tắc khoái cảm,
nghĩa là yêu cầu được thỏa mãn ngay tức khắc những khát vọng, bản năng.
Thứ hai, tiền ý thức tương ứng với cái tôi(Ego) , nó bao gồm những suy
nghĩ,ý thức của con người về các quy định, các quy luật của cuộc sống và các
mối quan hệ thường ngày, các cách ứng xử đã được tập luyện trong cuộc sống
hàng ngày.Nó luôn kìm hãm các động cơ của nguyên ngã hoặc hướng dẫn các
động cơ đó biểu hiện ở những hình thức được xã hooij chấp nhận, giúp con
người thích nghi với hoàn cảnh thực tế của đời sống xung quanh. Nó được hình
thành do áp lực của thực tại bên ngoài tới toàn bộ khối bản năng và ham mê.
Ego hoạt động theo nguyên tác của nhu cầu thực tại, con người phải dung một
lượng năng lượng đáng kể để kiềm chế và kiểm soát thực những phi lí của Id.
3



Thứ ba, ý thức là nhân tố lương tâm, đạo đức trong nhân cách, bao gồm mọi
khả năng xuất hiện về cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu.Nó là hiên thân của
những lí tưởng và sự cố gắng để đat tới sự hoàn thiện thay vì sự thỏa mãn hay
thực tại tức là sự học hỏi của cá nhân về các giá trị và quy tắc xã hội. Nó là các
chuẩn mực bên ngoài được phóng chiếu vào bên trong do kết quả nhập tâm của
những lời dạy từ gia đình, nền văn hóa, giáo dục. Nó hoạt động theo nguyên tắc
kiểm duyệt và phê phán. Nó kiểm duyệt để ngăn cái tôi không làm điều sai trái
để thỏa mãn động cơ bản năng, hơn nữa nó còn thuc đẩy cá nhân tiến tới lí
tưởng.
Cả ba khối cấu trúc Id, Ego, Superego, đều được chuẩn mực phải ở trạng
thái thăng bằng tương đối. Lúc ấy nhân cách phát triển bình thường nhưng cả ba
khối này luôn luôn xung đột và mâu thuẫn với nhau, đó chính là cơ chế hoạt
động tinh thần con người.
2. Nội dung nhân cách theo phân tâm học
Theo phân tâm học của, kinh nghiệm sống khi chúng ta lớn lên đã góp phần
tạo nên nhân cách để trở thành một người lớn có những nét đặc trưng rất riêng.
Theo Freud thì những ký ức khó chịu chính là những vết thương lòng, vốn có
những tác hại tâm lý rất lớn. Tất nhiên mỗi kinh nghiệm đau thương sẽ có những
mức độ ảnh hưởng tác động khác nhau và chỉ có cá nhân đó mới có thể khám
phá, thẩm định được mức độ ảnh hưởng của kinh nghiệm đó. Như thế những
kinh nghiệm ký ức khó chịu xảy ra trong những giai đoạn phát triển tâm tính dục
sẽ có những ảnh hưởng đến nhân cách con người. Và ông khẳng định một nhân
cách phát triển đúng đắn phải có sự hoạt động cân bằng của 3 hệ thống: bản
năng, bản ngã và siêu ngã. Bản năng là phần ban sơ của nhân cách, là phần
chúng ta có chung với loài vật. Đó là nơi của những bản năng và hoạt động trên
nguyên tắc khoái lạc (hay nguyên tắc thoả mãn). Bản ngã duy trì sự cân bằng
giữa bản năng và siêu ngã. Khi 1 người đói, người ấy sẽ thoả mãn bằng cách
thức xã hội chấp nhận, bằng cách mà xã hội không chấp nhận như là ăn cắp thực
phẩm của người khác. Nếu không có siêu ngã kiểm tra hành vi của con người thì

4


thực phẩm kia sẽ đánh cắp ngay. Siêu ngã hình thành giá trị cá nhân, những quy
tắc đạo đức và những điều được xem là đúng và sai. Bản ngã và siêu ngã hình
thành theo suốt tiến trình phát triển con người. Bản ngã có những chức năng
khác nhau: chế ngự ham muốn bât hợp lý, chấp nhận sự thất vọng, trì hoãn sự
hài lòng, xử lý sự căng thẳng thần kinh, kiểm tra thực tế. Một nhân cách thực
hiện chức năng đầy đủ có nghĩa là đáp ứng đầy đủ các nhu cầu, thích nghi với
hoàn cảnh.
3. Quá trình phát triển nhân cách theo phân tâm học
Theo Freud, dục năng là một nguồn năng lượng lớn nhất chi phối mọi
nguồn năng lượng khác có ảnh hưởng lên con người. Theo Freud thì dục năng
không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến người lớn mà còn có tác động rất rõ rệt lên
trẻ em và trẻ sơ sinh. Khi Freud trình bày quan điểm của mình về tính dục nơi
trẻ em, ông đã bị giới học giả lúc bấy giờ ởVienna phản đối cực lực. Đơn giản là
lúc đó dục tính với người lớn đã là một phạm trù tế nhị. Tính dục nơi trẻ em lúc
bấy giờ càng là một vấn đề khó chấp nhận hơn.
Một thực tế được quan sát kỹ là ngay từ khi còn rất nhỏ (từ lúc mới sinh ra)
khả năng đạt được cảm giác khoái cảm tính dục nơi trẻ sơ sinh đã xuất hiện.
Nhưng mọi người đã hiểu sai quan điểm của Freud và nghĩ ràng ông nhắm đến
dục tính trong giới hạn của giao hợp và phóng tinh. Tất nhiên Freud cho rằng
tính dục cần được định nghĩa là những cảm xúc khoái lạc đem đến từ hệ thống
da người. Và bằng chứng là từ trẻ em sơ sinh cho đến người lớn, chúng ta luôn
tỏ ra thích thú với những va chạm như vuốt ve, xoa bóp, sờ nắn, nụ hôn…
Freud cho rằng ở mỗi giai đoạn phát triển của con người, một vùng da nên
cơ thể sẽ có những phản ứng hứng thú khoái cảm cao nhất khi được kích thích.
Nhiều học giả sau này đã gọi những vùng da ấy là khu vực nhạy cảm. Theo
Freud thì con người trải qua những bước phát triển tâm tính dục sau:
Giai đoạn miệng: là giai đoạn trẻ em sơ sinh có khoái cảm lớn nhất qua thao

tác bú và đưa lên miệng cắn những vật thể gần bé. (Từ lúc mới sinh đến 1 tuổi
hay chừng 18 tháng). Khi mọc răng các em bé sẽ bị ngứa lợi, nếu nhu cầu được
5


cắn một vật gì đó cho bớt ngứa không được đáp ứng, cộng với việc em có thể bị
cai sữa quá sớm, một cá nhân có thể phát triển thành cá tính thích gây gỗ qua
đường miệng. Ví dụ thường là người thích cắn móng tay, cắn bút chì, cắn hạt
dưa, và thích cắn người khác và là người có khuynh hướng ăn nói thiếu trách
nhiệm, cố ý gây thương tổn đến người khác.
Giai đoạn hậu môn: là giai đoạn bé tập trung vào khu vực hậu môn trong
thao tác đại tiện mỗi khi bé đi vệ sinh. Khoái cảm xảy ra mỗi khi bé nín và thả
cơ vòng hậu môn trong thao tác đại tiện (Khoảng từ 2–3 tuổi).
Giai đoạn bộ phận sinh dục nam: là giai đoạn bé có thích thú khám phá bộ
phận sinh dục của mình, và chuyện bé thích nghịch bộ phận sinh dục của mình
tương đối phổ biến. (Khoảng từ 3, 4 đến 5, 6 có khi đến 7 tuổi).
Giai đoạn tĩnh lặng: là giai đoạn xung lực tính dục tạm thời bị nén lại để các
em có thời gian tiếp thu những kỹ năng mới nơi trường học. Vào thời điểm này
các em thường không tập trung quá nhiều vào mảng dục tính, tuy nhiên theo
George Boeree (2006) có khoảng 25% các em có những hành vi thủ dâm, cao
hơn nhiều so với thời gian nghiên cứu của Freud. (Giai đoạn này bắt dầu từ 5,6,7
tuổi trở đi cho đến năm 12 tuổi).
Giai đoạn tập trung vào bộ phận sinh dục: là giai đoạn bắt đầu từ tuổi dậy thì
khi cảm xúc tính dục tập trung vào khoái cảm giao hợp. Theo Freud, bất cứ
những hành vi tính dục nào khác với giao hợp tự nhiên, chẳng hạn như thủ dâm,
làm tình qua đường miệng, tính dục đồng phái và những hành vi tính dục khác
(vốn được thực hiện rộng rãi trong xã hội hôm nay) đều được coi là những hành
vi thiếu trưởng thành.
Tuy nhiên Freud cũng đưa ra các giả định về nhân cách: nhân cách chịu ảnh
hưởng bởi các kinh nghiệm tuổi thơ, những thất đoạt và xung khắc trong các nhu

cầu căn bản cũng ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách. Từ các tiền giả định
đó, Freud cho rằng nhân cách con người chịu ảnh hưởng rất nhiều từ quá khứ,
bản năng và những thất bại trong việc thoả mãn những nhu cầu. Và nếu một
trong các nhu cầu không được thoả mãn thoả đáng, có thể để lại những ham
6


muốn hay xung lực, tồn tại ở bản năng hay vô thức, gây ảnh hưởng khi con
người tiến sang giai đoạn khác.
Như thế, đối với Freud, nhân cách, tuy không hoàn toàn được xây dựng trên
nền tảng bản năng và dục tính, chịu ảnh hưởng rất nhiều từ khía cạnh tự nhiên
của con người và dường như đã được xác định sẵn bởi bản năng và những ảnh
hưởng đầu đời. Môi trường và những tác động sau này không thể hay ít làm suy
chuyển tính cách đã định hình. Nói cách khác, nhân cách như là kết quả của một
chuỗi những giằng co của nhu cầu và thoả mãn nhu cầu nơi con người. Chính
việc con người thành công hay thất bại trong việc xử lý những giằng có đó để lại
những nét tính cách đặc trưng cho mỗi người.
Một khi có sự mất cân bằng trong việc giải toả các nhu cầu, con người hứng
chịu những xáo trộn về tâm trí và những xung đột nơi nhân cách. Mức độ xáo
trộn nặng hay nhẹ tuỳ thuộc sự bức bách và sức ép của việc thoả mãn nhu cầu
đó. Nói cách khác, tuỳ thuộc năng lực dành cho nhu cầu đó. Nếu năng lực mạnh
mẽ (đòi thoả mãn một nhu cầu nào đó) không được điều hợp đúng cách sẽ gây ra
tác động lớn hơn một nhu cầu có nguồn năng lực kém hơn.
Trong lý thuyết của Freud, có thể phác họa một vòng tuần hoàn các nhu cầu
đối với việc ảnh hưởng đến nhân cách. Một nhu cầu phát sinh từ bản năng đòi
được thoả mãn, đặt trường hợp nhu cầu đó không phù hợp với hoàn cảnh sống
và vì thế không được thoả mãn đúng mức. Từ đó xảy ra sự đụng độ giữa bản
năng và siêu ngã nên bản ngã tìm trốn vào những cơ chế tự vệ. Kết quả là vô
thức lại chịu những dấu vết mới của các xung đột và lại là nguồn chi phối nhân
cách bởi những thúc đẩy của những nhu cầu chưa hoàn toàn được thoả mãn

Đây là một học thuyết được các nhà tâm lý thuộc trường phái Freudian cổ vũ
vì họ tin rằng tất cả mọi người đều trải qua những bước phát triển này.
III. Ý nghĩa và liên hệ thực tiễn
Phân tâm học có ảnh hưởng rất lớn đối với một số ngành khoa học khác. Tất
cả mọi lĩnh vực tri thức của con người như văn chương, nghệ thuật, tôn giáo,
7


nhân chủng học, giáo dục, luật pháp, xã hội học, luật học, sử học và những môn
học về xã hội hay cá nhân khác đều chịu ảnh hưởng của Phân tâm học.
Thuyết Phân tâm học ra đời đã cung cấp một ý tưởng khoa học đúng đắn cho
sự phát triển của nhân loại nói chung, ngành khoa học, đặc biệt là khoa học
nghiên cứu về tâm lý con người nói riêng, để từ đó hiểu rõ hơn về những suy
nghĩ của cá nhân tức là sự tri giác của cá nhân đó đối với các giá trị đạo đức và
xã hội nói chung, từ sự hiểu rõ bản chất của suy nghĩ của cá nhân đó, chúng ta
có thể tìm ra những giải pháp để kiềm chế những xung đột của cá nhân đó do có
sự nhận thức không đúng đắn về các giá trị đạo đức và xã hội mà xâm hại đến
những giá trị đó, đưa cá nhân đó trở lại trạng thái bình thường, phát triển bình
thường.
Bên cạnh đó, với thuyết Phân tâm học, S.Freud đã đề xuất được một
phương pháp “liên tưởng tự do” nhằm giải tỏa tâm lý, chữa trị cho những người
bị bệnh tâm thần. Nói chung, với việc xuất hiện một học thuyết mới trong lĩnh
vực nghiên cứu về con người bởi tâm lý của họ, nó đã đóng góp một phần quan
trọng vào kho tàng khoa học, làm phong phú hơn cho lĩnh vực khoa học, hơn
nữa, cũng giúp cho xã hội có thể giải quyết được những trường hợp thuộc lĩnh
vực nghiên cứu của Phân tâm học mà trước đó, các ngành khoa học khác vẫn
chưa thể giải quyết được.
Phân tâm học đã được vận dụng trong đời sống tâm lý của con người:
- Giúp y khoa khám phá và chữa trị những trường hợp tâm bệnh mà trước
nay với phương pháp của khoa học thực nghiệm nó chưa đủ khả năng điều trị.

- Giúp ta khám phá chiều sâu vô tận của tiềm thức mà có thể nói được là
chiều sâu đời sống, thế giới của tất cả các căn nguyên, động cơ bí ẩn của ý thức
và nhân cách của chúng ta.
Phân tâm học cũng được vận dụng trong công tác giảng dạy:
- Giúp Giảng Viên giảng dạy tốt, đồng thời chia sẻ những kinh nghiệm,
những hiểu biết cho sinh viên, giúp sinh viên sống lành mạnh…
8


- Giúp sinh viên tiếp thu bài tốt, đồng thời ứng dụng ngay trong cuộc sống,
học hỏi kinh nghiệm ở các Giảng Viên.
Phân tâm học còn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách
của trẻ nhỏ. Những kinh nghiệm, ký ức khó chịu xảy ra trong những giai đoạn
phát triển tâm tính dục sẽ có những ảnh hưởng đến cá tính con người của trẻ. Trẻ
em sẽ thường xuất hiện mặc cảm Oedipus từ khoảng ba đến năm tuổi, chúng sẽ
thể hiện sự quý mến người sinh thành ra mình thuộc giới tính khác mình nhưng
lại đố kỵ và căm ghét bậc phụ huynh cùng giới tính với mình. Nếu trẻ vượt qua
được sẽ thúc đẩy sự phát triển đến giai đoạn tiếp theo và từng bước hoàn thiện
nhân cách. Nhưng nếu vấn đề này không được giải quyết trọng vẹn thì nó sẽ trở
thành nguyên nhân của những vấn đề về nhân cách sau này. Do vậy nên những
bậc cha mẹ và thầy cô trong nhà trường sẽ trang bị cho mình cách giáo dục tốt
nhất dành cho con trẻ cũng như tạo một môi trường thuận lợi để trẻ có thể phát
triển một cách tốt nhất cũng như hoàn thiện nhân cách của mình.
IV. Đánh giá quá trình hình thành nhân cách theo phân tâm học
Đối với nhân cách, phương pháp phân âm học của Sigmund Freud có ảnh
hưởng mạnh mẽ và rộng khắp trên toàn bộ sự phát triển về bề mặt xã hội, văn
hóa, nghệ thuật và trí tuệ trong thế kỷ XX. Freund đã gây dựng nên quan điểm
được hệ thống đầu tiên về bản chất tâm lý của loài người, tạo thành những công
cụ và phương tiện cho việc khám phá nhân cách và hành vi, phát triển một
phương pháp cho việc mang đến sự thay đổi trong cấu trúc và hành vi của nhân

cách.
Tuy nhiên, quan niêm về con người và nhân cách con người trong phân tâm
học Freud cũng bộc lộ những khía cạnh không đúng đắn. Con người trong
thuyết phân tâm là con người cơ thể, con người sinh vật bị phân ly ra nhiều
mảng, con người với những mong muốn chủ yếu là thỏa mãn các đam mê tính
dục, con người đối lập với xã hội. Bởi vậy, một số các học giả kế tục Freud đã cố
gắng tìm cách khắc phục các hạn chế và tiếp tục kế thừa thành công của thuyết
phân tâm học.
9


KẾT LUẬN
Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay, nhân tố con
người trở lên cấp bách thì sự hiểu biết về vấn đề nhân cách là tiền đề của việc
đầu tư có hiệu quả vào sự phát triển con người - yếu tố quyết định mọi sự phát
triển trong xã hội. Giải quyết đúng vấn đề nhân cách sẽ cho phép giải quyết
được những vấn đề khác của tâm lí học và của nhiều lĩnh vực đời sống đặc biệt
là trong lĩnh vực giáo dục….

Phụ lục

Sigmund Freud, tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud (1856 -1939) nguyên
là một bác sĩ về thần kinh và tâm lý người Áo. Ông được công nhận là người đặt
nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu về phân tâm học
10


Mô hình cấu trúc nhân cách

11




×