Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận môn triết học nâng cao quan điểm toàn diện và vận dụng vào quản trị rủi ro tại ngân hàng BIDV chi nhánh bắc hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.32 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

----------------

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC NÂNG CAO
Đề tài:

QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀ VẬN DỤNG VÀO QUẢN TRỊ
RỦI RO TẠI NGÂN HÀNG BIDV CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI

Học viên

: NGUYỄN THỊ HOÀNG BẢO ANH

MHV

: CH260343

Lớp

: CH26P Cuối tuần

Giảng viên

: TS. LÊ NGỌC THÔNG

HÀ NỘI, 2017



MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NHỮNG LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN..........................2
1. Lịch sử của quan điểm toàn diện...................................................................2
2. Cơ sở lý luận....................................................................................................4
3. Yêu cầu của quan điểm toàn diện:.................................................................4
4. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện:.................................5
PHẦN III: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VÀO VIỆC QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI
BIDV BẮC HÀ NỘI................................................................................................6
1. Khái niệm rủi ro và rủi ro tín dụng................................................................6
2. Thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV Bắc Hà Nội............6
2.1. Chính sách quản trị rủi ro tín dụng (RRTD) và công tác tổ chức quản trị rủi
ro tín dụng tại BIDV Bắc Hà Nội........................................................................6
2.2. Tình hình thực hiện các nội dung quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV Bắc
Hà Nội................................................................................................................7
3. Đánh giá chung công tác quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV Bắc Hà Nội.....9
4. Vận dụng quan điểm toàn diện vào quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV
Bắc Hà Nội..........................................................................................................10
5. Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV Bắc Hà Nội........15


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Sự đổ vỡ hàng loạt Quĩ tín dụng tại Việt Nam trong những năm 1989-1990
do chất lượng các khoản cho vay yếu kém, không thu hồi được. Những năm 1999 –
2000, cũng từ nguyên nhân này NHNN đã đặt một số ngân hàng vào tình trạng giám
sát đặc biệt, những vụ án lớn và việc xử lý một khối lượng hàng ngàn tỷ đồng nợ
tồn đọng của các ngân hàng từ năm 2000 về trước đều bắt nguồn từ những khoản
cho vay khó đòi. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 bắt nguồn từ Đông Nam Á
đã làm cho nhiều Ngân hàng ở Châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản, hoặc
buộc phải sáp nhập, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là tỷ lệ nợ quá hạn của

các Ngân hàng tăng cao. Thời điểm trước cuộc khủng hoảng, tỷ lệ nợ quá hạn của
các Ngân hàng Thái Lan là 13%, Indonesia 13%, Phillippines 14%, Malaysia 10%.
Gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế Mỹ bắt nguồn từ làn sóng cho
vay thế chấp nhà đất rủi ro cao đã minh chứng rất rõ căn nguyên cơ bản tạo ra ở vấn
đề của Ngân hàng là RRTD. Vì vậy, vấn đề quản lý rủi ro tín dụng luôn luôn là vấn
đề sống còn của NHTM.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh
Bắc Hà Nội ( BIDV Bắc Hà Nội) là một chi nhánh lớn với những thành tích hoạt
động nổi bật. Tuy nhiên thời gian qua, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế
giới có nhiều biến động tiêu cực do cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ nước Mỹ
đã gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và BIDV
Bắc Hà Nội nói riêng. Đặt ra yêu cầu cấp bách là rủi ro tín dụng phải được quản lý,
kiểm soát một cách bài bản và có hiệu quả, đảm bảo tín dụng hoạt động trong phạm
vi rủi ro chấp nhận được, giảm thiểu các thiệt hại phát sinh từ rủi ro tín dụng. Đây là
điều vô cùng quan trọng giúp BIDV Bắc Hà Nội đạt được mục tiêu tăng trưởng và
phát triển bền vững cũng như thực hiện thành công các hoạt động hợp tác, liên
doanh liên kết trong xu thế hội nhập nên em đã chọn đề tài “Quan điểm toàn diện
và vận dụng vào quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV Chi nhánh Bắc Hà Nội ".

PHẦN II: NHỮNG LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
1


1. Lịch sử của quan điểm toàn diện
Trong quá trình nhận thức, yêu cầu tính khách quan trong xem xét đòi hỏi
phải nắm sự vật như một hiện thực tồn tại độc lập ở bên ngoài và không phụ thuộc
vào ý thức của chủ thể, như một sự vật tự nó, trong những điều kiện tồn tại tất yếu
của nó. Nhưng những điều kiện tất yếu để sự vật tồn tại hiện thực là những mối liên
hệ đa dạng của nó với các sự vật khác, là một hệ thống nhất định các mối quan hệ
của nó với các sự vật khác. Qua đó, rõ ràng, sự vật ở dạng tự nó cần được xem xét

không phải tách rời các điều kiện tồn tại tất yếu của nó, mà trong những mối liên hệ
và quan hệ của nó.
Liên hệ trước đó là quan hệ giữa các sự vật và các hiện tượng của hiện thực.
Nhưng không phải quan hệ nào cũng là liên hệ. Liên hệ là quan hệ giữa hai hiện
tượng khi sự thay đổi hiện tượng này tất yếu phải có sự thay đổi nhất định của hiện
tượng kia. Ngược lại, sự tách biệt (riêng rẽ) là mối quan hệ giữa các hiện tượng của
hiện thực khi sự thay đổi của một hiện tượng không động chạm gì đến các hiện
tượng khác, không kèm theo những thay đổi nhất định của các hiện tượng kia.
Nhưng cũng có nhiều trường hợp có mối quan hệ qua lại có cả quan hệ tách biệt,
cũng như trong trường hợp tách biệt có cả mối quan hệ qua lại. Như vậy, liên hệ và
tách biệt (riêng rẽ) bao giờ cũng tồn tại cùng nhau, là những mặt tất yếu của bất kỳ
quan hệ cụ thể nào giữa các hiện tượng của hiện thực.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng các hiện tượng được quan sát trong
thế giới, với toàn bộ tính biệt lập về chất, tính riêng rẽ, tách biệt của chúng, chúng
vẫn nằm trong mối liên hệ hữu cơ với nhau, bởi lẽ tất cả các hiện tượng đó đều xuất
phát từ cùng một nguồn gốc, cơ sở ban đầu như nhau.
A-ri-xtốt xem mối liên hệ và riêng rẽ (tách biệt) là thuộc tính của tồn tại, mối
liên hệ giữa các vật thể khác nhau không chỉ như sự thống nhất được quy định bởi
nguồn gốc chung từ một cơ sở thống nhất, cơ sở đầu tiên (vật chất đầu tiên) mà còn
như sự phụ thuộc, quy định qua lại của các vật thể.
Theo Căn-tơ quan hệ tất yếu bao gồm cả liên hệ, cả riêng rẽ (tách biệt), các
khái niệm cũng đồng thời vừa liên hệ với nhau, vừa riêng rẽ, chúng ghi nhận cả sự
hiện diện, cả sự vắng mặt của liên hệ. Nhưng ông lại phủ nhận sự có mặt của mối
liên hệ qua lại mang tính quy luật phổ biến trong thực tại khách quan, mối liên hệ
qua lại đó được đưa vào thế giới hiện thực nhờ ý thức.

2


Còn Hê-ghen cho rằng sự liên hệ qua lại, sự thống nhất về bản chất về cơ bản

là đặc trưng cho thế giới hiện tượng, rằng chúng tồn tại một cách khách quan, bên
ngoài nhận thức con người, và là những hình thái tồn tại phổ biến của sự vật.
Ph.Bê-cơn cho rằng một khi đã phân chia sự vật thành những yếu tố riêng
biệt hình thành nên nó thì chúng ta không tránh khỏi sẽ thủ tiêu nó với tư cách là
một tạo thể xác định vật chất, và như vậy thì chỉ có thể nhận thức được các yếu tố
đó tạo nên khi nghiên cứu một cách toàn diện mối liên hệ và phụ thuộc qua lại giữa
các yếu tố đó.
Khác với các nhà siêu hình phủ nhận mối liên hệ qua lại giữa các hiện tượng
trong hiện thực, khác với những người theo chủ nghĩa duy tâm quy kết hoặc rút ra
mối liên hệ đó từ ý thức, từ tinh thần, chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận sự
tồn tại của mối liên hệ toàn diện giữa các hiện tượng và sự vật trong thế giới vật
chất, xuất phát từ chỗ cho rằng tất cả những gì tồn tại trong thế giới đều là những
khâu của một thực thể vật chất thống nhất, đều là những trạng thái và hình thức tồn
tại khác nhau của thực thể đó. V.I.Lê-nin nhấn mạnh “…Những quan hệ của mỗi sự
vật, hiện tượng không những là muôn vẻ, mà còn là phổ biến, toàn diện. Mỗi sự vật,
hiện tượng, quá trình đều liên hệ với mỗi sự vật khác”.
Ngày nay, cách hiểu như vậy về tính phổ biến của liên hệ không những được
các nhà triết học tán thành và tuân thủ như một nguyên tắc xuất phát trong việc vạch
ra lý luận của phép biện chứng dựa vào sự khái quát các thành tựu của khoa học tự
nhiên hiện đại mà cả những đại biểu của các khoa học cụ thể cũng tính đến quan
điểm này khi xây dựng các lý luận của mình.
Nhưng nếu một sự vật nằm trong mối liên hệ qua lại hữu cơ với các sự vật
khác và mối liên hệ qua lại đó là điều kiện tất yếu và là hình thái tồn tại của nó, nếu
sự vật quy định sự bộc lộ các thuộc tính tương ứng của nó thì để nhận thức được sự
vật, để phát hiện được những thuộc tính đặc trưng, để xem xét nó một cách tất thì
phải xem xét trong mối liên hệ hữu cơ với các vật đó, tính đến toàn bộ tổng hòa
những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những vật khác. V.I.Lê-nin đã nhận xét:
“Muốn thực hiện sự hiểu biết sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả
các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”.
2. Cơ sở lý luận


3


Quan điểm toàn diện được xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
của phép biện chứng đó là:
- Các sự vật, hiện tượng không tồn tại cô lập mà thống nhất với nhau trong
đó các sự vật hiện tượng tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau,
quy định và chuyển hoá lẫn nhau.
- Không chỉ trong tự nhiên mà cả trong lĩnh vực đời sống xã hội và tinh thần,
mọi sự vật - hiện tượng tồn tại bằng cách tác động qua lại lẫn nhau.
- Sự liên hệ đó chỉ là tính khách quan và là tính phổ biến của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan.
Trong thế giới khách quan có vô vàn mối liên hệ, chúng rất đa dạng và giữ
vai trò vị trí khác nhau trong sự tồn tại, vận động và phát triển sự vật hiện tượng:
- Có mối liên hệ bên trong (sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa các mặt các yếu
tố, các bộ phận ở bên trong sự vật hiện tượng), lại có mối liên hệ bên ngoài; nói
chung mối liên hệ này không có ý nghĩa quyết định, hơn nữa nó thường thông qua
mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với các sự vận động và phát triển
của sự vật.
- Có mối liên hệ chung trong toàn bộ thế giới, cũng có mối liên hệ riêng
trong từng lĩnh vực cụ thể.
- Có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hay nhiều sự vật hiện tượng, lại có những
mối liên hệ gián tiếp (sự vật, hiện tượng liên hệ tác động qua lại lẫn nhau thông qua
một hay nhiều khâu trung gian).
3. Yêu cầu của quan điểm toàn diện:
Quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng về sự vật chúng ta
phải xem xét nó trên hai khía cạnh: thứ nhất là trong mối quan hệ giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, các thuộc tính khác của chính sự vật đó; thứ hai là trong mối quan
hệ giữa các sự vật đó với sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp).

V.I Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật
đó ” (V.I Lênin toàn tập Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, 1979, t.42, tr364).
Quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cần xem xét
nó trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. ứng với mỗi con người,
mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản
ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự
vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn.

4


Như vậy, quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức
về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi
phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Quan điểm toàn diện
không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau
của sự vật hiện tượng; nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản nhất, chủ yếu nhất và
quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.
4. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện:
Để cải tạo một sự vật, hiện tượng, để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong hoạt động
thực tiễn, đòi hỏi một hệ thống các biện pháp nhất định. Nếu thiếu tính toàn diện trong
các chủ trương biện pháp thì sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Song toàn
diện đồng bộ, không phải cái gì cũng đặt ra một cách đều tràn lan, mà đòi hỏi trong mỗi
một thời kỳ, mỗi một giai đoạn phải có những chủ trương, những biện pháp mang tính
trọng tâm, trọng điểm, phải xác định được những khâu then chốt tập trung giải quyết để
làm cơ sở cho những chủ trương biện pháp khác một cách đồng bộ.
Góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn, một chiều, phiến diện. Trong thế
giới khách quan mọi sự vật mọi hiện tượng đều có rất nhiều mối liên hệ. Vì vậy cần
phải xem xét một mặt hoặc một vài mặt mà đã vội kết luận ngay vấn đề, như vậy sẽ
không chính xác. Các quan hệ lợi ích thường thấy lợi ích trước mắt mà không thấy

được cái lợi ích lâu dài.
Chống lại chủ nghĩa triết chung và thuật nguỵ biện (Chủ nghĩa triết chung
nhân danh toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác
nhau thành một hình ảnh không đúng về sự vật; Thuật nguỵ biện thì lại lập luận chủ
quan, lấy thứ yếu thay cho chủ yếu, lấy cái không cơ bản thay cho cái cơ bản...
nhằm xuyên tạc biện chứng của sự vật).

PHẦN III: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VÀO VIỆC QUẢN TRỊ
RỦI RO TẠI BIDV BẮC HÀ NỘI
1. Khái niệm rủi ro và rủi ro tín dụng
Rủi ro có hai điểm chủ yếu : thứ nhất đó là các sự kiện bất ngờ, không mong
đợi; thứ hai là khi xảy ra, rủi ro gây tổn thất.
Phân loại rủi ro tín dụng: Bao gồm rủi ro hoạt động, rủi ro tín dụng và rủi ro
thị trường.

5


Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng
xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng
không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
2. Thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV Bắc Hà
Nội
2.1. Chính sách quản trị rủi ro tín dụng (RRTD) và công tác tổ chức quản
trị rủi ro tín dụng tại BIDV Bắc Hà Nội
* Chính sách quản trị rủi ro của BIDV
Theo quan điểm của BIDV về rủi ro tín dụng, rủi ro tín dụng của khách hàng
phải được quản lý theo nguyên tắc toàn diện, liên tục ở tất cả các giai đoạn có khả
năng phát sinh rủi ro tín dụng, thông qua các quy định cụ thể của từng loại nghiệp
vụ tín dụng.

* Tổ chức quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV
Tổ chức vận hành công tác quản trị RRTD tại BIDV Bắc Hà Nội tập trung đầu
mối tại phòng quản lý rủi ro. Phòng quản lý rủi ro chịu sự giám sát chỉ đạo trực tiếp từ
Ban giám đốc, đồng thời có liên hệ trực tuyến với Ban quản lý RRTD và Ban quản lý
rủi ro thị trường và tác nghiệp tại Hội sở chính. Bên cạnh đó, mối quan hệ tương hỗ với
các phòng ban khác, đặc biệt Phòng quan hệ khách hàng và phòng quản trị tín dụng
tăng cường hơn nữa công tác quản trị RRTD tại BIDV Bắc Hà Nội.
Nhìn chung, mô hình được xây dựng và vận hành theo dự án hiện đại hóa
ngân hàng, phù hợp chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Bộ phận quản lý rủi ro được
hình thành độc lập tại Hội sở và từng Chi nhánh, có mối quan hệ trực tuyến với
nhau, thuận lợi cho công tác theo dõi giám sát RRTD cũng như đề xuất ban hành
các chính sách, chiến lược quản trị RRTD.
2.2. Tình hình thực hiện các nội dung quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV
Bắc Hà Nội
Quá trình quản trị RRTD tại BIDV Bắc Hà Nội theo 4 nội dung cơ bản :
Nhận diện RRTD; Đo lường RRTD; Kiểm soát RRTD; Tài trợ RRTD.
a. Công tác nhận diện rủi ro tín dụng
Quá trình nhận diện RRTD tại BIDV Bắc Hà Nội được thực hiện theo trình tự:
- Nhận diện dấu hiệu rủi ro : Dấu hiệu rủi ro được cập nhật hàng quý theo
trình tự :

6


(1) Từng cán bộ liên quan (gồm cán bộ quan hệ khách hàng, cán bộ quản lý
rủi ro, cán bộ quản trị tín dụng) thực hiện thống kê các dấu hiệu rủi ro trong quá
trình tác nghiệp;
(2) Trưởng phòng thực hiện tổng hợp đánh giá kết quả thống kê cán bộ
phòng gửi về Phòng quản lý rủi ro;
(3) Phòng quản lý rủi ro tập hợp đánh giá cho toàn Chi nhánh và trình ban

giám đốc phê duyệt;
(4) Sau khi được phê duyệt báo cáo dấu hiệu rủi ro sẽ được gửi về Ban quản lý rủi
ro hoạt động và thị trường để tổng hợp cho toàn hệ thống. Dấu hiệu rủi ro được thống kê
theo số lượng phát sinh và có đưa ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
- Đánh giá xếp loại rủi ro : Sau khi tổng hợp được các dấu hiệu RRTD,
Phòng quản lý rủi ro tiến hành đánh giá xếp loại rủi ro, qua đó có chính sách điều
hành phù hợp để hạn chế rủi ro tín dụng phát sinh.
Tuy nhiên có thể nhận thấy công tác nhận diện rủi ro tín dụng tại BIDV chưa
đi vào các dấu hiệu trực tiếp phản ánh rủi ro của khách hàng thông qua tình hình
thực tế kinh doanh của khách hàng.
b. Công tác đo lường rủi ro tín dụng BIDV Bắc Hà Nội thực hiện chọn lọc
khách hàng vay vốn thông qua hệ thống xếp hạng khách hàng nhằm định lượng
mức độ rủi ro cho từng khách hàng từ đó có chính sách cho vay phù hợp với mức
độ rủi ro của từng khách hàng.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ được sử dụng trong các quy trình quản lý
rủi ro tín dụng sau: ban hành chính sách tín dụng, quy trình tín dụng, giám sát rủi ro
danh mục tín dụng, lập báo cáo quản trị rủi ro, chính sách dự phòng rủi ro tín dụng,
xác định khung lãi suất chuẩn ...
Hệ thống chấm điểm xếp hạng khách hàng là tổ chức kinh tế được thực hiện
qua 06 bước:
Bước 1 - Xác định ngành kinh tế
Bước 2 - Xác định Quy mô
Bước 3- Xác định loại hình sở hữu khách hàng
Bước 4 - Chấm điểm các chỉ tiêu tài chính
Bước 5 - Chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính.
Bước 6 -Tổng hợp điểm và xếp hạng.
Tuy nhiên kết cấu của hệ thống này vẫn còn nhiều bất cập, kết quả chấm điểm
phân loại nợ từ hệ thống so với cách phân loại nhóm nợ theo qui định của Ngân hàng
Nhà nước vẫn còn có nhiều khác biệt, cần hoàn thiện chỉnh sửa để phù hợp hơn.
c. Công tác kiểm soát rủi ro tín dụng.


7


Các kỹ thuật kiểm soát RRTD được thể hiện khá rõ nét trong hệ thống các
văn bản thực thi chính sách tín dụng của BIDV như: Chính sách khách hàng; Quy
trình cấp tín dụng; Chính sách định giá tài sản đảm bảo; Quy chế phân cấp ủy quyền
trong phán quyết tín dụng; Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro; Công tác kiểm tra
kiểm soát nội bộ.
- Né tránh rủi ro : Kỹ thuật này được thể hiện khá rõ nét thông qua chính
sách khách hàng của BIDV Bắc Hà Nội. Mục tiêu chính sách nhằm chọn lọc khách
hàng vay vốn, chủ động né tránh rủi ro tín dụng bằng chính sách cấp tín dụng riêng
cho từng nhóm khách hàng.
- Kỹ thuật ngăn ngừa rủi ro: Kỹ thuật này được BIDV Bắc Hà Nội triển khai
áp dụng thông qua quy trình cấp tín dụng chặt chẽ qua nhiều công đoạn xử lý đảm
bảo sự tách bạch giữa các chức năng và quy chế phân cấp ủy quyền trong phán
quyết tín dụng nhằm phát huy nguyên tắc bỏ phiếu trong quyết định cho vay.
- Kỹ thuật giảm thiểu tổn thất: BIDV Bắc Hà Nội sử dụng kỹ thuật này cơ bản
dựa vào tài sản đảm bảo với cơ chế linh hoạt trong việc cho phép mở rộng đối tượng tài
sản đảm bảo và phương pháp định giá khoa học nhằm hạn chế thấp nhất sự trượt giá tài
sản đảm bảo khả năng giảm thiểu tổn thất khi xảy ra RRTD, điều này cho thấy quan
điểm rất tiến bộ của BIDV Bắc Hà Nội, có thể nhận thấy sự linh hoạt trong quá trình
điều chỉnh chính sách này là một kênh giám sát RRTD rất hữu hiệu.
- Đa dạng hoá rủi ro : Kỹ thuật này được BIDV triển khai thông qua định
hướng công tác tín dụng trong từng thời kỳ nhằm xác định danh mục lĩnh vực,
ngành nghề và sản phẩm tín dụng phù hợp với sự thay đổi môi trường kinh doanh.
- Một số biện pháp kiểm soát rủi ro khác :
+ Xây dựng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro
+ Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế thị trường tài chính trong nước còn ở giai

đoạn sơ khai, việc nghiên cứu áp dụng các công cụ tiên tiến khác còn chưa phổ biến
thì đặc thù trên vẫn là tình hình chung của các NHTM hiện nay.
3. Đánh giá chung công tác quản trị rủi ro tín dụng tại
BIDV Bắc Hà Nội
a. Những kết quả đạt được trong công tác quản trị rủi ro tín dụng của BIDV
Bắc Hà Nội
- Công tác định hướng tốt góp phần phòng ngừa RRTD;
- Xây dựng được mô hình quản trị RRTD tương đối chặt chẽ;
- Công tác nhận diện RRTD mang đến hiệu quả tích cực;
8


- Vận hành tốt hệ thống xếp hạng nội bộ;
- Thực hiện tốt công tác kiểm soát rủi ro tín dụng.
b. Những hạn chế trong công tác quản trị rủi ro tín dụng của BIDV Bắc Hà Nội
* Mô hình và hoạt động của bộ máy quản trị rủi ro chưa thực sự hiệu quả:
Mặc dù phòng quản lý rủi ro tín dụng có ý kiến thẩm định độc lập. Tuy nhiên vì vẫn
thuộc sự quản lý của Ban Giám đốc, vẫn chịu sự điều hành và hưởng các lợi ích từ
hoạt động của Chi nhánh, do đó không thể đảm bảo thẩm quyền và sự khách quan
về các phân tích, nhận định đối với các khoản vay của khách hàng.
* Công tác nhận diện rủi ro tín dụng chưa chú trọng nhận dạng đối tượng
chính gây ra rủi ro là khách hàng.
* Về quy trình chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng có một số mặt
hạn chế sau:
- Nguồn nhập liệu chưa đáng tin cậy do báo cáo tài chính của doanh nghiệp
chưa bắt buộc phải kiểm toán.
- Các chỉ tiêu để đánh giá xếp hạng : các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính có
tỷ trọng điểm chưa phù hợp, cách cho điểm phụ thuộc rất lớn vào ý chí chủ quan
của cán bộ thực hiện chấm điểm
- Ngoài ra vì áp lực phải hoàn thành kế hoạch, các Chi nhánh có thể sẽ can thiệp

có chủ đích nhằm thay đổi thứ hạng doanh nghiệp theo hướng có lợi cho Chi nhánh.
* Về công tác kiểm soát rủi ro
- Chính sách khách hàng : Mục tiêu chính sách khách hàng chưa bao hàm đầy
đủ ý nghĩa : chưa xác định được thị trường mục tiêu, xác định được các ngành nghề
trọng yếu phát triển tín dụng; chưa định hướng được danh mục cho vay hạn chế RRTD.
- Quy trình tín dụng : Việc áp dụng quy trình 3999 chung cho nhóm đối
tượng khách hàng là doanh nghiệp vẫn còn một số hạn chế.
- Hệ thống công nghệ thông tin còn bất cập
+ Hệ thống thông tin nội bộ khách hàng hiện nay chưa được cập nhật đầy đủ,
đáp ứng kịp thời.
+ Các thông tin lấy từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN cũng
thường xuyên không được cập nhật đầy đủ.
- Công tác kiểm tra giám sát nội bộ: Bộ phận kiểm soát nội bộ ở Chi nhánh
chịu sự chỉ đạo điều hành của Giám đốc Chi nhánh nên việc kiểm tra nội bộ trong
thời gian qua chưa thực sự phát huy hiệu quả. Trong trường hợp rủi ro phát sinh, bộ
phận kiểm tra nội bộ chưa mạnh dạn để báo cáo trực tiếp lên Hội sở chính. Báo cáo
kiểm tra nội bộ chỉ mang tính hình thức, rủi ro tín dụng chưa được phản ảnh một
cách trung thực.

9


4. Vận dụng quan điểm toàn diện vào quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV
Bắc Hà Nội
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và
người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian cụ
thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường
kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng
xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro
xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan.

a. Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân từ môi trường kinh tế bên ngoài được xem là nhóm rủi ro
khách quan, gây rủi ro cho hoạt động tín dụng của BIDV Bắc Hà Nội, bao gồm các
nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân bất khả kháng: các thiệt hại từ nguyên nhân thiên tai, bão lụt,
hạn hán, động đất gây nên những tổn thất nặng nề mà phải mất thời gian dài doanh
nghiệp mới khôi phục được. Trong tình hình đó, hoạt động kinh doanh bị gián đoạn,
doanh nghiệp không có nguồn thu để trả nợ.
- Nguyên nhân từ môi trường kinh tế: các yếu tố như vấn đề chu kỳ kinh tế,
lạm phát, thất nghiệp, tỷ giá. Môi trường kinh tế có ảnh hưởng lớn đến môi trường
kinh doanh của khách hàng, vì vậy ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Thực tế chứng minh trong thời kỳ suy thoái toàn cầu, ảnh hưởng đến nền kinh tế
trong nước, tỷ lệ nợ xấu của BIDV Bắc Hà Nội tăng.
- Nguyên nhân do chính sách của Nhà nước: như chính sách đầu tư, chính
sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, tỷ giá…. Do các chính sách điều hành kinh tế
vĩ mô thay đổi đột ngột, cả ngân hàng và khách hàng không thể chủ động thay đổi
kịp thời để thích ứng.
- Môi trường pháp lý, chính trị: cùng với môi trường kinh tế, môi trường
pháp lý - chính trị tạo nên môi trường cho vay của các NHTM. Môi trường cho vay
có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực, có thể làm hạn chế hay tăng thêm rủi ro đối
với hoạt động kinh doanh tín dụng của BIDV Bắc Hà Nội.
b. Nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân từ phía khách hàng
+ Do năng lực tài chính của khách hàng yếu kém
Quy mô tài sản và nguồn vốn nhỏ, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm
chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Với năng lực tài chính như vậy nên

10



để hoạt động được thì họ phải dựa vào số vốn vay ngân hàng, tỷ trọng vốn tự có
tham gia vào dự án kinh doanh không đáng kể. Cho nên mọi thua lỗ, rủi ro trong
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tác động ngay tới ngân hàng, ngân hàng có nguy cơ
mất vốn.
Ngoài ra, các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ
nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp
cho BIDV Bắc Hà Nội khi đề nghị vay vốn nhiều khi mang tính chất hình thức
hơn thực chất. Đây cũng là nguyên nhân vì sao BIDV Bắc Hà Nội vẫn luôn xem
nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để hạn chế rủi ro tín dụng.
+ Do năng lực quản trị điều hành kinh doanh yếu kém
Đa phần các khách hàng hoạt động khá hiệu quả khi còn ở quy mô vừa và
nhỏ, nhưng sau khi đầu tư phát triển lớn mạnh thì khả năng quản lý không theo kịp
với tốc độ tăng trưởng, thiếu một chiến lược hoạt động lâu dài đã làm cho hoạt động
sản xuất kinh doanh bị đình trệ, ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả nợ vay cho ngân
hàng. Và cũng có một số doanh nghiệp đã xảy ra tình trạng thường xuyên thay đổi
người điều hành đơn vị dẫn đến không theo dõi kịp quá trình kinh doanh, phát triển
của doanh nghiệp nên đã làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, thậm chí thua lỗ, dẫn
đến không trả được gốc lãi đúng hạn cho ngân hàng.
+ Do sử dụng vốn sai mục đích
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Để đảm bảo khả năng trả nợ theo như kế hoạch kinh doanh đã
thẩm định thì đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn đã giải ngân vào đúng
mục đích kinh doanh đã giải trình thì mới đảm bảo vòng quay vốn và dòng tiền về đúng
hạn trả nợ. Tuy nhiên nhiều trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích: dùng
vốn vay ngắn hạn để đầu tư trung dài hạn; đầu tư dự án dài hạn khi chưa thu xếp đầy đủ
nguồn vốn dẫn đến đầu tư dở dang, thiệt hại xảy ra, làm phát sinh nợ quá hạn.
+ Do khách hàng gian lận
Tính không minh bạch của thông tin còn xuất hiện trong quá trình cho vay
với hình thức gian lận. Cho dù không phải món cho vay nào cũng hàm chứa khả
năng gian lận, song thực tế đáng tiếc là chính hành vi gian lận đã gây nên những tổn

thất lớn cho ngân hàng. Tổng hợp các thông tin nội bộ của BIDV Bắc Hà Nội về các
vụ gian lận của khách hàng trong thời gian qua, có thể đúc kết như sau:

11


 Gian lận liên quan đến báo cáo tài chính hoặc gian lận kế toán: hình thức gian
lận này xảy ra khi một công ty cố tình làm sai lệch các số liệu trên báo cáo tài chính.
 Gian lận liên quan đến tài sản đảm bảo: hình thức gian lận này xảy ra khi
bên đi vay cố tình gian lận về sự tồn tại của tài sản đảm bảo cho khoản vay.
 Gian lận liên quan đến việc ngụy tạo uy tín để lợi dụng vay tiền.
- Nguyên nhân từ phía ngân hàng
+ Cán bộ tín dụng sai sót khi thực hiện qui trình cấp tín dụng, công tác thu
thập thông tin tín dụng không đầy đủ và chính xác.
Thông tin tín dụng đầy đủ và chính xác là yếu tố quyết định để đánh giá khả
năng trả nợ và thiện chí trả nợ của người vay, đồng thời là cơ sở để mở rộng tín
dụng. Trong quá trình cấp tín dụng, rủi ro phát sinh phần lớn là do thiếu thông tin
khi thẩm định và khi ra quyết định cho vay; từ đó dẫn đến những quyết định cho
vay sai lầm. Cụ thể như là:
+ Cán bộ tín dụng thiếu năng lực thẩm định, không thu thập đầy đủ thông tin
về khách hàng và đôi khi hoàn toàn dựa trên tài liệu do khách hàng cung cấp, thiếu
sự xác minh lại thông tin và thiếu sự phân tích tính hợp lý của thông tin nên báo cáo
thẩm định khách hàng được trình bày rất suôn sẻ theo các khuôn mẫu có sẵn và
chứa đựng các thông tin có lợi cho khách hàng.
+ Về phía người xét duyệt cho vay, do khối lượng hồ sơ vay cần được xét
duyệt quá nhiều nên không có nhiều thời gian đọc kỹ báo cáo thẩm định. Đồng thời,
trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, do hoạt động kiểm toán chưa phát triển và
tính minh bạch về tài chính còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó, do công tác kế toán và
báo cáo tài chính chưa thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật nên các tổ chức
tín dụng nói chung và BIDV Bắc Hà Nội thường gặp nhiều khó khăn về tính

chính xác của thông tin do khách hàng cung cấp.
- Lạm dụng tài sản thế chấp
Do thiếu thông tin hoặc thông tin chưa chính xác về khách hàng nên ngân
hàng luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để hạn chế rủi
ro tín dụng. Nhiều cán bộ tín dụng, ngay cả những người xét duyệt cho vay quan
niệm rằng có tài sản đảm bảo là an toàn cho khoản vay. Điều này rất nguy hiểm vì
khoản vay cần được trả nợ bằng dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh
chứ không phải bằng tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp chỉ là sự đảm bảo
cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Hơn
12


nữa, nếu rủi ro xảy ra thì ngân hàng cũng sẽ gặp những khó khăn trong quá trình xử
lý tài sản thế chấp để thu nợ, giá trị tài sản thanh lý sau cùng thu về có thể thấp hơn
giá trị nợ phải thu hồi.
- Thiếu kiểm tra giám sát vốn vay
Thực hiện đầy đủ việc kiểm tra giám sát khoản vay để có thể nắm được
những thay đổi trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, việc sử dụng vốn vay
của khách hàng có đúng mục đích hay không? tài sản đảm bảo có được quản lý tốt
hay không? Để bảo đảm được khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Vì vậy,
đây là trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng
nói chung.
- Công tác kiểm tra nội bộ tại chi nhánh chưa hiệu quả
Kiểm tra nội bộ ngân hàng là tổng thể hệ thống các văn bản và các quy định
về ngân hàng, các cơ chế kiểm soát được cài đặt trong tất cả các nghiệp vụ thuộc hệ
điều hành của ngân hàng, hệ thống thông tin báo cáo để kiểm soát hoạt động quản
lý, điều hành, tác nghiệp và đảm bảo tính tuân thủ nhằm hạn chế và kiểm soát rủi ro
có thể phát sinh trong quy trình nghiệp vụ và hoạt động của ngân hàng. Nếu làm tốt,
công tác này sẽ trở thành lá chắn thứ nhất đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
- Rủi ro do cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tín dụng, tập trung quá cao

cho một mục tiêu tăng trưởng tín dụng, tất yếu dẫn đến việc giảm thấp điều kiện
cung cấp tín dụng, nới lỏng kiểm soát cho vay
Một trong số các vấn đề nổi bật trong hoạt động ngân hàng ở nước ta hiện
nay là cạnh tranh sôi động trên nhiều lĩnh vực như là: mở rộng và đa dạng hóa dịch
vụ ngân hàng, mở rộng mạng lưới, … Tuy nhiên, khi có càng nhiều ngân hàng, càng
nhiều chi nhánh và phòng giao dịch được thành lập thì sự cạnh tranh trên thị trường
càng trở nên gay gắt, hệ thống BIDV cũng đang phát triển mạng lưới hoạt động của
mình theo hướng này. Hậu quả của việc mở rộng quá mức mạng lưới chi nhánh,
phòng giao dịch là sự tranh giành khách hàng, hạ tiêu chuẩn cho vay, điều này đã
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
- Một số vấn đề khác
+ Chưa xây dựng được một chiến lược kinh doanh dài hạn và một chiến lược
kiểm soát rủi ro tín dụng một cách có hiệu quả.

13


+ Tập trung dư nợ quá lớn vào một nhóm nhỏ khách hàng, dẫn đến khi một
khách hàng lớn bị rủi ro xảy ra thì ảnh hưởng ngay lập tức đến toàn bộ hoạt động
của chi nhánh.
+ Chưa hoàn tất được các công cụ, các quy trình phân tích tín dụng hiệu quả
phù hợp với những nhóm khách hàng có liên quan.
+ Chính sách tín dụng của ngân hàng thay đổi một cách đột ngột khi nền
kinh tế biến động mạnh đã làm nhiều khách hàng gặp khó khăn.
+ Giữa các bộ phận trong ngân hàng chưa phối hợp, trao đổi thông tin một
cách hiệu quả khi khách hàng có những bất thường, dẫn đến không kịp thời phát
hiện những khách hàng rủi ro.
+ Chưa có nhiều kinh nghiệm trong xử lý nợ cho nên khi rủi ro xảy ra còn
lúng túng trong việc xử lý, việc xử lý nợ trong thời gian qua còn yếu và chậm.
+ Hiện nay, cơ chế xử lý tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ trên thực tế

vẫn rất khó khăn nhất là thỏa thuận với khách hàng cũng như là cách thức ngân
hàng tự bán để thu nợ.
5. Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV Bắc Hà
Nội
a. Hoàn thiện chức năng phòng quản lý rủi ro
- Thành lập tổ nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô trực thuộc
phòng quản lý rủi ro: Đưa ra định hướng, chính sách cụ thể cho từng ngành, từng
lĩnh vực, cấp hạn mức cụ thể để chủ động phòng tránh rủi ro, tránh những phản ứng
quá chậm, gây ra lúng túng trong công tác quản trị rủi ro.
- Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra nội bộ của phòng quản lý rủi ro.
b. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng.
- Nâng cao chất lương nghiệp vụ phân tích tín dụng
- Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng
- Nâng cao chất lượng cán bộ: Nâng cao năng lực trình độ nghiệp vụ, chất
lượng thẩm định, trình độ quản lý khách hàng của cán bộ tín dụng, cán bộ quản lý
rủi ro và cán bộ kiểm tra kiểm soát.
c. Hoàn thiện các công cụ, biện pháp kỹ thuật kiểm soát RRTD
* Xây dựng chính sách khách hàng phù hợp
* Cải tiến quy trình cấp tín dụng phù hợp và hiệu quả Phân định rõ trách
nhiệm pháp lý của các phòng tham gia trong hoạt động cấp tín dụng.
* Đa dạng hóa sản phẩm tín dụng nhằm phân tán rủi ro:
- Nghiên cứu và áp dụng những sản phẩm ngân hàng mới trong đó chú trọng
xây dựng hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng.

14


- Mở rộng các sản phẩm dịch vụ thẻ thanh toán phù hợp với nhu cầu phát
triển xã hội và xu hướng hội nhập thế giới như thẻ ATM, thẻ VISA, MASTER
CARD trong nước và quốc tế…

- Đa dạng hóa hình thức đầu tư tín dụng, không tập trung đầu tư nhiều vào
một loại hình doanh nghiệp, một đơn vị, một ngành hàng hoặc một nhóm khách
hàng để phân tán rủi ro.
* Tăng cường kiểm tra định kỳ vật tư đảm bảo nợ vay: Mục đích công tác
này nhằm xác định khối lượng vật tư, hàng hoá, khối lượng xây dựng cơ bản ....
tương ứng với số tiền đã giải ngân nhằm xác định chính xác mục đích sử dụng vốn
khách hàng.
d. Tích cực hạn chế tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra.
- Sử dụng các công cụ bảo hiểm và bảo đảm tiền vay.
- Thực hiện nghiêm túc việc trích lập dự phòng bù đắp rủi ro.

15



×