Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận triết chủ đề triết học và vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.8 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
LỚP CAO HỌC CH26P
--------000--------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC KINH
TẾ

Giảng viên : TS. Lê Ngọc Thông
Lớp

:CH26P

Họ và tên

Hà Nội , tháng 12 năm 2017
LỜI MỞ ĐẦU

: Nguyễn Thị Yên


Mối quan hệ giữa triết học và khoa học cũng như khoa học kinh tế không phải là
vấn đề mới. Trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu dài, mối quan hệ ấy đã trở thành
một trong những “vấn đề triết học” được bàn luận sâu rộng với nhiều quan điểm khác
nhau.
Triết học có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của khoa học. Và với mỗi giai đoạn
phát triển của khoa học thì triết học cũng có một bước phát triển. Như vậy triết học và
khoa học được hiểu như một hay hai lĩnh vực khác nhau, chúng ảnh hưởng đến sự tồn tại
và phát triển của nhau ra sao? Giữa triết học và khoa học kinh tê có quan hệ với nhau như
thế nào? Để trả lời những câu hỏi này, cần thiết phải làm rõ vai trò của triết học đối với sự


phát triển của khoa học kinh tế.
Theo đó, bài viết gồm ba phần chính: phần một trình bày nguồn gốc, nội dung và
những quan điểm về triết học. Phần hai trình bày những quan niệm về khoa học và khoa
học kinh tế. Phần ba phân tích mối quan hệ giữa triết học và khoa học, đặc biệt là khoa
học kinh tế.

I.
Triết học
1. Khái niệm triết học
2


Triết học ra đời vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ thứ VI trước Công nguyên và đã
đạt được thành tựu rực rỡ trong các nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
Dù ở phương Đông hay phương Tây, người ta đều quan niệm triết học là đỉnh cao của
trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, nắm bắt được chân lý, hiểu được bản chất của
sự vật, hiện tượng. Thời gian xuất hiện và cách thức sử dụng thuật ngữ triết học ở phương
Đông và phương Tây tuy có khác nhau, song ý nghĩa, mục đích và cách thức thể hiện cơ
bản là giống nhau, thống nhất, đều chỉ hoạt động tinh thần, thể hiện khả năng nhận thức,
cách thức, phương pháp đánh giá của con người. Nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có trình độ khái quát hóa và tư duy
trừu tượng cao.
2. Nguồn gốc của triết học

Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn, nó có nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc xã hội.
-

Về nguồn gốc nhận thức:


Triết học như là hệ thống những tri thức chung nhất của con người về tự nhiên, xã hội
và tư duy, chỉ ra đời khi nhận thức của con người đạt tới một giới hạn nhất định. Theo
quan niệm của C.Mác và Ph.Awngghen, lịch sử loài người bắt đầu từ đâu thì tư duy con
người bắt đầu từ đấy. Song, với tư cách là tri thức lý luận chung nhất, triết học đồng thời
xuất hiện ở cả Phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước Công
Nguyên, khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, trong xã hội đã hình thành chế độ tư hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất; đã có giai cấp và nhà nước. Hệ quả tất yếu của các yếu tố nêu
trên là lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay, tầng lớp trí thức ra đời. Họ có điều kiện
nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm thành học thuyết, lý luận. Vào thời
kỳ này, triết gia đã xuất hiện và triết học được hình thành. Có thể kể đến một số người đã
sáng tạo ra các học thuyết, lý luận triết học như: Thales ở Hy Lạp, Khổng Tử ở Trung
Quốc, Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ … Nói cách khác, triết học chỉ ra đời khi con người đã

3


đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa để xây dựng nên các học
thuyết lý luận.
-

Về nguồn gốc xã hội:

Sự ra đời của triết học gắn liền với nguồn gốc xã hội, tức là sự xuất hiện chế độ chiếm
hữu nô lệ - xã hội có giai cấp đầu tiên của nhân loại. Triết học xuất hiện khi xã hội phân
chia thành giai cấp, khi có sự xuất hiện đội ngũ trí thức. Tuy vậy, với quan điểm lịch sử cụ
thể, nguồn gốc xã hội của triết học Việt Nam lại có những nét đặc thù của nó. Quá trình ra
đời của triết học Việt Nam không gắn liền với sự xuất hiện của giai cấp và đấu tranh giai
cấp ở trong nước một cách rõ nét, mà chủ yếu là gắn liền với công cuộc chống giặc ngoại
xâm để giành lại và giữ vững độc lập dân tộc. Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự phân chia thành hai nguồn gốc như trên chỉ có tính

chất tương đối.
3. Đối tượng của triết học

Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch
sử. Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại ở phương Tây được gọi là “triết học tự nhiên”,
bao hàm trong nó toàn bộ tri thức của nhân loại. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh
quan niệm sau này cho rằng triết học là “khoa học của mọi khoa học”. Thời kỳ này, triết
học đã đạt được những thành tựu đáng kể. Hệ thống các quan điểm triết học đã ra đời và
ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của triết học các thời đại sau đó, thậm chí ảnh hưởng
đến cả sự phát triển của Toán học, Vật lý học, Hóa học, Thiên văn học, và các ngành khoa
học xã hội và nhân văn như Đạo đức học, Mỹ học …
4. Vấn đề cơ bản của triết học

Tất cả các hiện tượng trong vũ trụ chỉ có thể hoặc là hiện tượng vật chất, tồn tại bên
ngoài ý thức chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức chúng ta. Mặc dù
các học thuyết triết học đã đề ra các quan niệm khác nhau về thế giới nhưng câu hỏi đặt ra
cần trả lời là: Thế giới tồn tại bên ngoài đầu óc con người có quan hệ như thế nào với thế
4


giới tinh thần tồn tại trong đầu óc con người. Tư duy của con người có khả năng hiểu biết
tồn tại thực của thế giới hay không.
Bản thể luận nhằm trả lời câu hỏi giữa vật chất và ý thức, cái nào tính có trước, cái
nào tính có sau (duy vật hay duy tâm). Đó là tiền đề tư duy của triết học. Duy vật hay duy
tâm là quan điểm tiến hành trong các điều kiện cụ thể.
Nội dung nhận thức luận: giữa tri thức và đối tượng được phản ánh có phù hợp với
nhau hay không. Từ đó hình thành nên trường phải khả tri hay bất khả tri.
Về mặt lịch sử, phương pháp biện chứng xuất hiện trước, gồm có biện chứng chủ
quan hay biện chứng khách quan, phép biện chứng duy tâm hay phép biện chứng duy vật.
Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức dựa trên lý luận phép biện chứng

với các nguyên tắc cơ bản nghiên cứu thế giới trong mối liên hệ vận động, nghiên cứu thế
giới trong xu hướng phát triển, tìm nguyên nhân bên trong sự vật hiện tượng.
Phương pháp siêu hình là phương pháp triết học thực hiện các nguyên tắc đối lập với
phương pháp biện chứng.
Biện chứng hay siêu hình đều là những phương pháp nhận thức của nhân loại, được
thực hiện trong các nhận thức cụ thể.
5. Chức năng của triết học

Cũng như mọi khoa học, triết học cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng khác nhau.
Trong đó, hai chức năng chính là phương pháp thế giới quan và phương pháp luận.
-

Phương pháp thế giới quan

Phương pháp thế giới quan là thành phần chính của nhân cách con người: nhận thức,
giải thích thế giới về cái vốn có của thế giới như nguồn gốc, bản chất tạo nên bản thể
luận. Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới

5


quan phát triển như quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri
thức do các khoa học đưa lại.
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân tố định
hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Nó giúp cho con người có cơ
sở khoa học đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích, ý
nghĩa của cuộc sống. Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành
quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Từ đó, nó giúp con người xác định thái
độ và cả cách thức hoạt động của mình. Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai
trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập

nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự
trưởng thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội nhất định.
-

Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận và hệ thống về những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát ,

những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp luận
cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp, là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc
tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là một bộ
phận không thể thiếu trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Xét phạm vi tác dụng của nó,
phương pháp luận có thể chia thành 3 cấp độ: phương pháp luận ngành, phương pháp luận
chung và phương pháp luận chung nhất.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, không được xem thường hoặc tuyệt đối hóa
phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương pháp luận triết học sẽ sa vào tình
trạng mò mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động sáng tạo trong công tác. Ngược lại,
nếu tuyệt đối hóa vai trò của phương pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và
dễ bị vấp váp, thất bại. Trau dồi phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người
tránh được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy, máy móc siêu
hình gây ra.
6


II.
Khoa học kinh tế
1. Định nghĩa về khoa học và khoa học kinh tế

Có nhiều quan niệm khác nhau về khoa học:
Khoa học là hệ thống tri thức về mọi loại quy luật của vật chất và sự vận động của

vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Khoa học là một hoạt động xã hội nhằm tìm tòi, phát hiện quy luật của vật chất,
hiện tượng và vận dụng những quy luật ấy để sáng tạo ra các nguyên lý các giải pháp tác
động vào các sự vật hoặc hiện tượng, nhằm biến đổi trạng thái của chúng.
Theo quan điểm của Marx, khoa học còn được hiểu là một hình thái ý thức xã hội,
tồn tại độc lập tương đối với các hình thái ý thức xã hội khác.
Vậy khoa học: là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá, phát minh ra những kiến
thức mới, học thuyết mới về tự nhiên và về xã hội, tăng lượng tri thức hiểu biết của con
người. Những kiến thức hay học thuyết mới này tốt hơn, có thể thay thế dần cái cũ, không
còn phù hợp.
Khoa học kinh tế (hay kinh tế học) là khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân
phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Khoa học kinh tế là quá trình nghiên cứu
cách thức xã hội quản lý các nguồn tài nguyên khan hiếm của nó. Từ đó giải thích cách
thức các nền kinh tế vận động và các tác nhân kinh tế tương tác với nhau. Khoa học kinh
tế gồm tập hợp các ngành khoa học, được chia thành hai nhóm: kinh tế học lý luận và
kinh tế học ứng dụng.
Kinh tế học lý luận là phần quan trọng nhất của khoa học kinh tế, tạo ra cơ sở lý luận
để phát triển kinh tế học ứng dụng. Bằng các cách tiếp cận khác nhau các nhà nghiên cứu
muốn đưa ra các học thuyết hợp lý nhằm làm sáng tỏ bức trang hoạt động kinh tế của xã
hội, sử dụng học thuyết để làm công cụ phân tích và dự đoán những xu hướng kinh tế.
Các lý thuyết kinh tế được xây dựng từ các phạm trù của kinh tế như: Giá trị, lao động,
trao đổi, tiền tệ, tư bản,… Trong đó phạm trù kinh tế đóng vai trò như những công cụ
7


nhận thức riêng biệt. Các quá trình kinh tế được xem là cơ bản và là đối tượng nghiên cứu
của khoa học kinh tế dựa trên sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ hàng hóa. Tuy vậy,
nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình đã vượt qua khuôn khổ của các phạm trù được lập từ
trước, làm thay đổi tính lý giải và khả năng phân tích của nhiều học thuyết. Mặt khác, các
học thuyết riêng biệt cũng chỉ làm sáng tỏ phần nào đời sống kinh tế mà thôi.

2. Lịch sử khoa học kinh tế và các trường phái kinh tế
- Các trường phải kinh tế học sơ khai

Các trường phải kinh tế học cổ đại xuất hiện rất sớm từ thời các nền dân chủ Lưỡng
Hà, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc, Ba Tư và Ả Rập. Nhiều học giả nổi tiếng được
xem là người khởi đầu cho giai đoạn hậu triết học kinh viện vào khoảng thời gian từ thế
kỷ 14 đến thế kỷ 17, được đánh giá là đã tiến gần tới chỗ kinh tế học trở thành một khoa
học thật sự, khi đã đề cập đến tiền tệ, lãi suất, thuyết giá trị trên quan điểm quy luật tự
nhiên.
Lý thuyết kinh tế là môn khoa học từ khi nó trở thành một hệ thống kiến thức về các
quy luật, nguyên tắc, phương pháp, có khả năng phản ánh và điều hành sự phát triển kinh
tế xã hội. Những tư tưởng kinh tế đã bắt đầu xuất hiện ở thế kỷ 17-18, giai đoạn hình
thành chủ nghĩa tư bản. Có hai nhóm học giả là những nhà trọng thương và những người
trọng nông, đã có những ảnh hưởng trực tiếp hơn đến những bước phát triển về sau này
của kinh tế học. Cả 2 nhóm này đều liên quan đến sự phát triển của chủ nghĩa bảo hộ nội
địa và chủ nghĩa tư bản hiện đại. Khoa học kinh tế đầu tiên phát triển từ kinh tế chính trị,
tuy cuối thế kỷ 19 ở phương Tây thuật ngữ kinh tế chính trị đã được thay bằng thuật ngữ
kinh tế học. Với sự xuất hiện nhiều học thuyết kinh tế tách các quan hệ chính trị - xã hội
ra khỏi đối tượng nghiên cứu, đề xuất những phương pháp mới không liên quan đến
thuyết giá trị về lao động hay quyền lợi giai cấp. Chủ nghĩa trọng thương là một học
thuyết kinh tế nở rộ vào thời gian từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 trong các cuộc đàm đạo
chính sự, giữa những thương gia và chính khách. Theo chủ nghĩa này thì của cải của quốc
gia nên phụ thuộc vào vàng và bạc. Các quốc gia không có sẵn mỏ vàng hay bạc vẫn có
thể sở hữu vàng, bạc thông qua thương mại bằng cách bán hàng hóa ra nước ngoài và hạn
chế nhập khẩu hàng hóa trừ vàng và bạc. Học thuyết kêu gọi nên nhập khẩu nguyên liệu
8


thô về để chế biến và xuất khẩu lại ra nước ngoài, chính phủ nên đánh thuế vào hàng hóa
đã chế tạo nhập khẩu từ nước ngoài cũng như cấm chế tạo hàng hóa ở các thuộc địa.

Chủ nghĩa trọng nông, một nhóm các học giả và các nhà lý luận người Pháp vào thế
kỷ 18, đã phát triển một quan điểm xem nền kinh tế như một vòng luân chuyển của thu
nhập và đầu ra. Họ cho rằng lĩnh vực quan trọng của kinh tế là sản xuất chứ không phải
thương mại. Người đứng đầu khuynh hướng này là Francois Quesnay. Trong Biều đồ kinh
tế của mình ông phân tích quá trình tái sản xuất xã hội và phân phối sản phẩm xã hội giữa
3 thành phần giai cấp: người sản xuất, chủ đất và người phi sản xuất. Như vậy, trường
phái cổ điển đã chuyển hướng nghiên cứu từ lĩnh vực thương mại sang lĩnh vực sản xuất
va tái sản xuất, xây dựng nền móng cho thuyết giá trị về lao động. Các nhà kinh tế cổ điển
đánh giá phát triển xã hội bằng sự kết hợp hai phương diện kinh tế và xã hội. Những nhà
trọng nền móng cho thuyết giá trị về lao động. Các nhà kinh tế cổ điển đánh giá phát triển
xã hội bằng sự kết hợp hai phương diện kinh tế và xã hội. Những nhà trọng nông tin rằng
chỉ có sản xuất nông nghiệp mới có thể tạo ra thặng dư rõ rệt so với chi phí, vì thế, nông
nghiệp là nền tảng của của cải. Họ phản đối chính sách của những nhà trọng thương đã
khuếch trương chế tạo và thương mại bằng cách bòn rút từ nông nghiệp, trong đó có thuế
quan nhập khẩu. Những nhà trọng nông ủng hộ việc từ bỏ thuế đánh trên chi phí theo đơn
vị hành chính sang sử dụng một loại thuế duy nhất đánh trên thu nhập của chủ đất. Những
sự thay đổi quan điểm về thuế bất động sản vẫn còn xuất hiện trong tư tưởng của các nhà
kinh tế học sau này, với các quan điểm về doanh thu thuế đạt được từ những nguồn không
gây méo mó thị trường. Các nhà trọng nông nói chung là một phía đối chọi với làn sóng
của chủ nghĩa trọng thương với những quy tắc thương mại kêu gọi sự can thiệp tối thiểu
của chính phủ vào thị trường.
-

Kinh tế học cổ điển

Phát triển thật sự của kinh tế học bắt đầu từ trường phái cổ điển với một loạt các công
trình khoa học như “luận bàn về thuế”, “Biểu đồ kinh tế”, “Nghiên cứu về bản chất và
nguyên nhân giàu có của các quốc gia” …

9



Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, từ trường phái cổ điển xuất hiện nhiều khuynh hướng
khác, trong số đó có kinh tế học tân cổ điển và kinh tế chính trị Mác Lênin. Các nhà kinh
tế tân cổ điển nghiên cứu các quá trình kinh tế cụ thể, hành vi các chủ thể kinh tế, cơ chế
thị trường tự do. Theo họ nhà nước chỉ giữ vững các điều kiện để phát triển thị trường và
cạnh tranh, nhưng không can thiệp vào hoạt động kinh tế.
-

Kinh tế học Mác-xít

Kinh tế chính trị Mác Lênin được trình bày trong một số tác phẩm như: “Tư bản”, “Chủ
nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Trên cơ sở phân tích sự phát
triển chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn lịch sử của nó Mác đã phát triển và củng cố thuyết
giá trị về lao động và xây dựng thuyết giá trị thặng dư, thuyết tích lũy và chuyển động tư
bản, chỉ ra cơ chế vận động và mâu thuẫn trong xã hội tư sản.
- Trường phái Keynesian
Trường phái Keynesian xuất hiện trong thập niên 30 của thế kỷ 20 do nhà kinh tế lỗi
lạc John Keynes sáng lập như một khuynh hướng độc lập với trường phái tân cổ điển. Tác
phẩm “Lý thuyết cơ bản về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của Keynes đưa ra những phương
pháp điều chỉnh kinh tế từ phía nhà nước nhằm giảm mức thất nghiệp, dùng các công cụ
tài chính để làm tăng hiệu quả lượng cầu hàng hóa, tăng tỷ lệ tiêu dùng.
Vào nửa đầu thập niên 50 thế kỷ 20 trường phái Tân Keynes tiếp nhận những quan
điểm cơ bản của Keynes và hình thành lý thuyết tốc độ và yếu tố tăng trưởng, xây dựng
mô hình tăng trưởng kinh tế. Những công trình nghiên cứu của một số nhà kinh tế thời kỳ
này tập trung vào vấn đề kết hợp hiệu quả các yếu tố, làm sao trong điều kiện cạnh tranh
tự do có thể tăng lượng sản xuất và giảm tối thiểu chi phí lao động và vốn.
Trường phái tân cổ điển với học thuyết tự do kinh doanh còn phục hưng trở lại thập
niên 70-80 với chủ nghĩa tiền tệ. Họ cho rằng tiền tệ và lưu thông tiền tệ là công cụ hiệu
quả của điều chỉnh và tự điều chỉnh thị trường, có khả năng đảm bảo ổn định và phát triển

phi hủng hoảng kinh tế.
10


III.

Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế

Triết học là hạt nhân lý luận thế giới quan của con người. Thế giới quan triết học như
thế nào sẽ quy định quan điểm về tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa, … như thế
đó. Vì vậy, triết học có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển của các ngành khoa học,
kể cả khoa học kinh tế và sự phát triển kinh tế.
Triết học có đối tượng nghiên cứu của mình là mối quan hệ của con người với nhau
trong xã hội, đặc biệt là quan hệ của con người với con người trong sản xuất vật chất.
Quan hệ của con người với tự nhiên được biểu thị cô đọng nhất thông qua lực lượng sản
xuất. Quan hệ của con người với nhau trong xã hội được biểu thị cô đọng nhất, cơ bản
nhất thông qua quan hệ sản xuất. Có thể nói đây là hai mối quan hệ cơ bản nhất của con
người. Do vậy, để phát triển kinh tế thì phải có tư duy về kinh tế một cách đúng đắn. Tuy
duy về kinh tế muốn đúng đắn phải dựa trên một thế giới quan triết học khoa học. Chẳng
hạn, triết học Mác Leenin nghiên cứu xã hội với tư cách một chỉnh thể thống nhất hữu cơ
với “hạt nhân” của nó là kinh tế. Nhưng kinh tế được triết học Mác Lênin nghiên cứu
dưới góc độ lịch sử cụ thể. Như chúng ta đã rõ, phương thức sản xuất lại là sự thống nhất
hữu cơ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó lực lượng sản xuất là nội
dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Như vậy, theo triết học Mác Lenin,
muốn phát triển một phương thức sản xuất thì trước hết phải tập trung vào phát triển lực
lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là sự
kết hợp hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất, mà trước hết là công cụ lao động
để tạo ra một sức sản xuất nhất định. Từ đây cho thấy, để phát triển kinh tế, trước hết phải
tập trung vào phát triển nhân tố người lao động và sau đó là công cụ lao động. Nếu người
lao động không được giải phóng, không có sức khỏe, không có trình độ học vấn, không có

kinh nghiệm, kỹ năng lao động,… thì dù công cụ lao động có hiện đại chăng nữa, lực
lượng sản xuất cũng không thể phát triển được. Ngược lại, nếu người lao động có sức
khỏe, trình độ, có tay nghề, có kinh nghiệm, kỹ năng lao động, nhưng công cụ lao động
thô sơ, lạc hậu thì lực lượng sản xuất cũng không thể phát triển được. Như vậy kinh tế
cũng không thể phát triển. Do đó, muốn phát triển kinh tế phải có được những chính sách
11


phù hợp để giải phóng người lao động nhằm giải phóng sức sản xuất. Đồng thời, phải đào
tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm lao động cho họ.
Triết học không trực tiếp tạo ra của cải vật chất, nhưng triết học khoa học đúng đắn sẽ
cung cấp cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học cho sự phát triển tuy duy về kinh tế
một cách đúng đắn, khoa học. Trên cơ sở đó góp phần phát triển lực lượng sản xuất nói
riêng, kinh tế nói chung. Đương nhiên, cơ sở lý luận, phương pháp luận triết học đúng đắn
còn phải được nhận thức đúng và vận dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế sáng tạo, phù
hợp thực tiễn thì mới mang lại hiệu quả thiết thực.
Mỗi hệ thống triết học đều nhằm trang bị cho chủ thể một cơ sở phương pháp luận cho
việc nhận thức và trên cơ sở đó vận dụng các quy luật kinh tế. Chẳng hạn, đối với triết
học Mac Lenin, trang bị phương pháp tư duy biện chứng duy vật để giúp con người nhận
thức và vận dụng các quy luật kinh tế một cách khách quan, khoa học hơn. Nhờ phương
pháp tư duy biện chứng duy vật mà chúng ta hiểu được rằng, các quy luật kinh tế cũng
giống như các quy luật khác, như quy luật của tự nhiên là ở tính khách quan của chúng.
Nghĩa là các quy luật kinh tế tồn tại, vận động, phát triển một cách khách quan, tuân theo
những quy luật vốn có của nó, không phụ thuộc vào mong muốn chủ quan của con người.
Nhưng khác với quy luật tự nhiên, các quy luật kinh tế còn mang tính xã hội. Chúng chỉ
tồn tại, vận động và phát triển trên cơ sở các hoạt động kinh tế của con người. Do đó, con
người không thể sáng tạo ra các quy luật kinh tế cũng như không thể tùy tiện xóa bỏ
chúng. Nhưng con người là chủ thể hoạt động kinh tế có ý thức, có lợi ích. Vì vậy, thông
qua các hoạt động kinh tế của mình, con người có thể tác động đến các quy luật kinh tế.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của

khoa học cũng như những ứng dụng rộng rãi của nó trong thực tiễn đã và đang làm thay
đổi sâu sắc đời sống con người, góp phần làm bộc lộ những hạn chế của tư duy siêu hình.
Con đường duy nhất để khắc phục những giáo điều, những khuôn sáo, trì trệ trong nhận
thức và hành động là nắm chắc và vận dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì phép biện
chứng duy vật là phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách
mạng.
12


KẾT LUẬN
Qua bài phân tích trên, mối quan hệ giữa triết học và khoa học cũng như khoa học
kinh tế đã được làm rõ xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của khoa học và khoa học
kinh tế.
Lịch sử đã chứng minh rằng nếu thiếu quan điểm về phương pháp luận đúng đắn
đối với các vấn đề về mối liên hệ lẫn nhau giữa các khoa học thì những thành tựu lớn lao
của một ngành khoa học có thể sinh ra những xu hướng không những không thúc đẩy sự
phát triển của các ngành khác mà thậm chí còn cản trở chúng.
Tóm lại sự hình thành và phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển
của khoa học cũng như khoa học kinh tế.

13



×