Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận tham nhũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.86 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu
Tham nhũng và cuộc đấu tranh chống tham nhũng là vấn đề nóng bỏng,
phức tạp, nan giải và bức xúc nhất hiện nay ở nước ta. Tham nhũng đã và đang đe
dọa đến sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây cũng
chính là vấn đề liên quan nhiều nhất, chi phối đến quá trình xây dựng và phát
triển của đất nước.
Tệ tham nhũng, lãng phí đã được khái quát, nêu rõ bản chất và nguy cơ hậu
quả tai hại của nó đối với đất nước như "giặc nội xâm", đe dọa đến sự sống còn
của chế độ. Hiểu rõ nguy cơ đó, thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta luôn luôn quan
tâm đề ra những chủ trương, giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí như:
Pháp lệnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và các cơ chế, chính sách có liên
quan; ban hành và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham
nhũng đến năm 2020… Những năm gần đây, nhất là khi có Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đạt được một số kết quả nhất
định: Nhiều vụ tham nhũng lớn, phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng tồn tại từ lâu
đã bị phát hiện, xử lý; việc xử lý kỷ luật nghiêm khắc đối với những cán bộ đã
dính líu vào tham nhũng; rồi những bản án tử hình, tù chung thân và bắt buộc
phải bồi thường tiền, tài sản đã tham nhũng của Nhà nước, của nhân dân, làm cho
tệ tham nhũng từng bước được kiềm chế. Song, tình trạng tham nhũng, lãng phí
hiện nay vẫn còn nghiêm trọng, phạm vi rộng, tính chất phức tạp, làm cho nhân
dân lo lắng, giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của
Nhà nước.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Tiểu luận:
"Thực trạng và giải pháp phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay".
2. Nội dung của Tiểu luận:
Tiểu luận được cấu trúc gồm 03 chương:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tham nhũng
- Chương 2: Thực trạng tham nhũng ở nước ta và nguyên nhân
- Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp phòng, chống tham nhũng ở


nước ta hiện nay

1


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THAM NHŨNG
1. Định nghĩa, đặc trưng của tham nhũng
Trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về tham nhũng. Ở Việt Nam,
khái niệm tham nhũng được quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng năm
2005. Theo đó, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Theo định nghĩa trên đây, tham nhũng có những đặc trưng cơ bản như sau:
- Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực công:
Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các
cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị, nói cách khác là ở các cơ quan, tổ
chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước.
Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức; sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại
diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện
nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
- Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao:
Đây là đặc trưng thứ hai của tham nhũng. Chủ thể tham nhũng phải sử
dụng “chức vụ, quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích
cho mình, cho gia đình mình hoặc cho người khác. Một người có chức vụ, quyền
hạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật vì động cơ vụ lợi nhưng hành vi đó
không lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì không coi là tham nhũng.

- Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi:
Mục đích của hành vi tham nhũng phải là mục đích vụ lợi. Nếu chủ thể
thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà không xuất phát từ động cơ vụ
lợi thì hành vi đó không là hành vi tham nhũng. Vụ lợi là lợi ích vật chất (tiền,
nhà, đất, các vật có giá trị...) hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền
hạn mong muốn đạt được từ việc thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn
của mình.

2


2. Biểu hiện của hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng biểu hiện trên thực tế rất đa dạng, dưới nhiều hình
thức khác nhau.
Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định những
hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn
để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì
vụ lợi.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm

pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đã được quy định
trong Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và có hiệu lực
từ ngày 1-1-2010), bao gồm:
- Tham ô tài sản: là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà
mình có trách nhiệm quản lý.
- Nhận hối lộ: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua
trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất
kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu
của người đưa hối lộ
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền
3


hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân
- Lạm quyền trong khi thi hành công vụ: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá
nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục
lợi: là cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận
hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào,
gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để
dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không
làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ
hoặc làm một việc không được phép làm
- Giả mạo trong công tác: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác

mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây:
+ Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;
+ Làm, cấp giấy tờ giả;
+ Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.
3. Tác hại của tham nhũng
- Tác hại về chính trị
Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng
đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, tình hình tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng, đáng
báo động. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở những chương
trình, dự án lớn mà còn xuất hiện nhiều trong các cấp chính quyền cơ sở - cơ quan
tiếp xúc với nhân dân hằng ngày, giải quyết những công việc liên quan trực tiếp
đến lợi ích của nhân dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương khoá IX chỉ rõ: “... Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, lo lắng, bức
xúc nhất hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư
tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên vẫn còn rất nghiêm trọng...”. Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, lãng phí
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách về
kinh tế - xã hội hoặc một nhiệm vụ quản lý nhất định của Nhà nước. Tổng quát
hơn, sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự
nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Nhân dân chính là động lực, chủ thể, mục đích
của cách mạng.
4


Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 tiếp tục
khẳng định: “tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực,
nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt,

làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm
khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của
công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ”.
2. Tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và
của công dân.
Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền của, thời
gian, công sức của nhân dân. Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất thoát liên quan tới
tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỉ
đồng. Đó là những con số lớn và đáng lo ngại so với số thu ngân sách hằng năm
của nước ta. Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích
của Nhà nước, của tập thể hoặc của cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người
thực hiện hành vi tham nhũng, mà nguy hiểm hơn, hành vi tham nhũng còn gây
thiệt hại, gây thất thoát, lãng phí một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể,
của công dân. Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán bộ, công chức quan liêu, sách
nhiễu đối với nhân dân trong khi thực thi công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi
thi hành công vụ khiến cho nhân dân phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền
bạc để có thể thực hiện được công việc của mình như: xin cấp các loại giấy phép,
giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác... Nếu xét từng trường hợp một thì
giá trị vật chất bị lãng phí có thể không quá lớn, nhưng nếu tổng hợp những vụ
việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong đời sống hằng ngày của nhân dân thì con
số bị thất thoát đã ở mức độ nghiêm trọng.
3. Tác hại về xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực
đạo đức xã hội, tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi
tham nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của
người cán bộ cách mạng, không phục vụ nhân dân mà hướng tới các lợi ích bất

chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức
nghề nghiệp. Vì vậy, tham nhũng không chỉ phát sinh ở trong các lĩnh vực kinh
tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai… mà còn có
xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước tới nay ít có khả năng xảy ra tham
5


nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao... Thậm chí, cả những lĩnh
vực lẽ ra không thể có tham nhũng, cả dưới góc độ đạo đức và pháp luật, như
lĩnh vực phúc lợi xã hội hay bảo vệ pháp luật. Hành vi tham nhũng xảy ra không
ít trong các chương trình trợ cấp cho thương binh, liệt sĩ, các gia đình chính
sách; tham nhũng tiền, hàng hoá cứu trợ xã hội, trong cả xét duyệt công nhận di
tích lịch sử, văn hoá, thi đua khen thưởng. Thậm chí tham nhũng còn xảy ra
trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Điều đáng báo động là việc tham nhũng dường như đã trở thành bình
thường trong quan niệm của một số cán bộ, công chức. Đó chính là biểu hiện của
sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm trọng. Hơn thế, tham nhũng
còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, khi người thực
hiện hành vi tham nhũng có khi là giáo viên, bác sĩ, những người hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội - những người xây dựng đời sống, nền tảng
tinh t hần cho xã hội.
Chương 2
THỰC TRẠNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA VÀ NGUYÊN NHÂN
2.1. Thực trạng tham nhũng ở nước ta
Ở Việt Nam cũng như các nước khác, việc đánh giá chính xác về tình hình
tham nhũng diễn ra trong thực tế là rất khó khăn, vì tham nhũng cũng giống như
một tảng băng trên biển, chúng ta chỉ có thể nhận biết được phần nổi của tảng
băng - là những vụ việc đã được phát hiện, xử lý. Tuy nhiên, thông qua kết quả
phát hiện, xử lý các vụ việc tham nhũng trong những năm qua và căn cứ vào việc
đánh giá của các cơ quan chức năng, Đảng và Nhà nước đã khẳng định rằng: tình

hình tham nhũng ở Việt Nam là nghiêm trọng.
- Trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản: tham
nhũng chủ yếu diễn ra trong việc quy hoạch; chuyển đổi mục đích sử dụng đất;
thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô
thị; giao đất, cho thuê đất; định giá đất khi thu hồi, đền bù; cấp phép khai thác tài
nguyên, khoáng sản v.v… Một số đối tượng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
giao đất không đúng thẩm quyền; lập hồ sơ khống hoặc khai tăng diện tích đất khi
đền bù. Ví dụ như: vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
xảy ra tại dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long - Vân Trì, Hà Nội,
thiệt hại ước tính khoảng 14 tỷ đồng; vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ xảy ra tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, gây thiệt hại gần 11 tỷ
6


đồng; vụ tham nhũng về đất đai tại Đồ Sơn và tại Quán Nam, thành phố Hải
Phòng... Dư luận cho rằng việc cấp đất cho các dự án đều có hiện tượng bôi trơn
cho những người có thẩm quyền (vụ Công ty Phát triển nhà tỉnh Bạc Liêu; vụ
Nguyễn Văn Khỏe, Chủ tịch UBND huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh
nhận hối lộ để cấp đất sai quy định).
- Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng: nổi lên tình trạng tham nhũng, tiêu
cực của một bộ phận cán bộ trong ngành ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương
mại hoặc cán bộ trong ngành ngân hàng tiếp tay, móc nối với các đối tượng bên
ngoài thông qua các hoạt động cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, đầu tư tài
chính, ủy thác cho vay, ủy tác đầu tư… để chiếm đoạt tài sản, gây thất thoát lớn.
Ví dụ như: vụ Lê Hoài Phương, cán bộ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam,
chi nhánh Cầu Giấy, Hà Nội, tham ô 24 tỷ đồng; vụ Phan Văn Tưởng, cán bộ
Ngân hàng Techcombank cùng các đồng phạm tham ô trên 10 tỷ đồng; vụ Đoàn
Tiến Dũng, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nhận
của khách hàng 5 tỷ đồng, là khoản trích từ 3% - 10% trong số tiền mà khách
hàng được vay của Ngân hàng này; vụ Nguyễn Thị Thùy Vân tham ô hơn 24 tỷ

đồng ở Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội; vụ Hoàng Thị Thu Hà,
Giám đốc chi nhánh miền Bắc của Tổng công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC)
lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thất thoát 19 tỷ
đồng; vụ Vũ Việt Hùng, Giám đốc ngân hàng Phát triển chi nhánh Đắk Lắk Đắk Nông, nhận 92 tỷ đồng, 100 ngàn USD và một ô tô BMW của Cao Bạch Mai
và Trần Thị Xuân để cho vay không đúng quy định...
- Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản: phần lớn các công trình xây dựng
đều xảy ra thất thoát tài sản, chủ yếu do tham ô và cố ý làm trái. Sai phạm xảy ra
ở hầu hết các khâu, từ việc lập dự án, thiết kế, dự toán, phê duyệt kế hoạch cấp
vốn đến đấu thầu, tư vấn, giám sát, thi công, nghiệm thu, quyết toán công trình.
Thủ đoạn chủ yếu là không chấp hành đúng trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng cơ
bản; gian lận, thiếu minh bạch trong đấu thầu; khai khống khối lượng và giá trị
vật tư, thiết bị; đưa vật liệu kém chất lượng, sai quy cách vào sử dụng; thi công
sai quy trình để giảm chi phí... Điển hình như: vụ tham ô, cố ý làm trái và lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Ban quản lý dự án
di tích lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ; vụ Huỳnh Ngọc Sĩ, Giám đốc Ban
quản lý dự án đại lộ Đông - Tây, TP.Hồ Chí Minh nhận hối lộ 260 nghìn USD để
xét thầu, nghiệm thu có lợi cho người đưa hối lộ; vụ tham ô xảy ra tại dự án xây
dựng cầu Bãi Cháy, tỉnh Quảng Ninh...
7


- Trong việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp:
thủ đoạn tham nhũng chủ yếu là giấu bớt và định giá trị tài sản, đất đai thấp hơn
giá trị thực khi cổ phần hóa hoặc bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp; lập các hợp
đồng mua bán, vận chuyển hoặc hóa đơn khống để chiếm đoạt; nâng khống giá
hoặc gửi giá khi mua bán tài sản công để trục lợi. Ví dụ: Nguyễn Bi, Chủ tịch Hội
đồng quản trị, kiêm Tổng giám đốc và Nguyễn Thanh Huyền, Phó Tổng giám
đốc, kế toán trưởng của Công ty Vifon - TP.Hồ Chí Minh, đã lập chứng từ khống
chiếm đoạt hơn 20 tỷ đồng và không thu về cho Công ty 59,9 tỷ đồng nhằm
chiếm đoạt khi cổ phần hóa Công ty này; vụ Trần Văn Khánh, Tổng Công ty Vật

tư nông nghiệp tham ô, cố ý làm trái, gây thiệt hại nhiều tỷ đồng; vụ Công ty xăng
dầu Hàng không khai khống tỷ lệ dầu hao hụt nhằm chiếm đoạt hàng chục tỷ
đồng; vụ Công ty cho thuê tài chính II thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn nâng khống giá thiết bị lặn từ 100 triệu lên 130 tỷ đồng. Ngoài ra,
một số đối tượng còn sử dụng tài sản công vào mục đích cá nhân hoặc biến tài sản
nhà nước thành tài sản riêng, như vụ Bùi Tiến Dũng ở Ban quản lý dự án quốc lộ
18 (PMU18) cho mượn hàng chục ô tô đắt tiền.
- Trong công tác cán bộ, dư luận về tình trạng “chạy chức, chạy quyền,
chạy công chức” vẫn còn nặng nề, nhưng trong thực tế chưa phát hiện, xử lý được
trường hợp nào. Dư luận nói nhiều đến hiện tượng một số cán bộ tiến thân bằng
con đường chạy chọt, nịnh bợ cấp trên (tìm hiểu sở thích, nhu cầu cá nhân của cấp
trên và gia đình họ để tìm cách đáp ứng; sẵn sàng biếu cấp trên những món quà có
giá trị lớn như nhà ở, đất ở, cổ phần trong các dự án, công ty...). Nhiều người nói
rằng, hiện nay mọi thứ đều “có giá”, từ việc tuyển dụng, phân công công việc đến
bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ. Báo chí đã đưa tin về 2 trường hợp
cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh nhận quà, nộp lại quà và sử dụng quà tặng không đúng
quy định, là ông Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau và ông Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
Cao Bằng (trước đây).
- Trong lĩnh vực tư pháp, hành vi tham nhũng chủ yếu là cán bộ tư pháp lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ nhằm bỏ lọt hoặc giảm nhẹ tội phạm
trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ví dụ: vụ Vũ Văn Lương,
Thẩm phán quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, nhận hối lộ 70 triệu đồng trong vụ tranh
chấp 2,7 m2 công trình phụ; vụ Hà Công Tuấn, Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh bị bắt quả tang nhận hối lộ 200 triệu đồng nhằm xử nhẹ tội cho bị
cáo… Ngoài những lĩnh vực trên, tình trạng nhũng nhiễu còn khá phổ biến
trong quan hệ giữa cơ quan nhà nước và công chức nhà nước với người dân và
doanh nghiệp, giữa nhân viên các cơ sở dịch vụ công với khách hàng, như: cảnh
8



sát giao thông, cán bộ thuế, các cơ quan cấp phép, cơ sở khám, chữa bệnh, các
trường học… gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Theo đánh giá của TI thì Việt Nam thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm
trọng. (Theo tiêu chí của TI, thang điểm là 10; những nước có điểm dưới 3 được
coi là tham nhũng nghiêm trọng). Những năm gần đây, chỉ số cảm nhận tham
nhũng của Việt Nam được xếp như sau: năm 2007 đạt 2,6 điểm, xếp thứ 123/179
quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng; năm 2008 đạt 2,7 điểm, xếp thứ
121/180; năm 2009 đạt 2,7 điểm, xếp thứ 120/180; năm 2010 đạt 2,7 điểm, xếp
thứ 116/178; năm 2011 đạt 2,9 điểm, xếp thứ 112/182.
Mặc dù năm 2011 có những tiến bộ nhất định (so với năm 2007, chỉ số cảm
nhận tăng 0,3 điểm và thứ hạng tương đối tăng lên khoảng 7 bậc), nhưng Việt
Nam vẫn là những nước có điểm số thấp và vẫn đứng ở phía cuối bảng xếp hạng.
Theo đánh giá của TI, ở châu Á, tình hình tham nhũng ở Việt Nam nghiêm
trọng hơn so với Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunei, Malaysia, Trung Quốc,
Thái Lan, Indonesia... nhưng ít nghiêm trọng hơn Mông Cổ, Philippines, Lào,
Nepal, Campuchia, Myanmar... Tóm lại, tình hình tham nhũng ở Việt Nam là
nghiêm trọng, với những biểu hiện vừa tinh vi, phức tạp, vừa trắng trợn, lộ liễu,
xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, có những điểm giống và khác
nhau so với tình hình tham nhũng ở các nước khác, nhưng đặc điểm nổi bật là
tính phổ biến. Trước đây, tham nhũng chủ yếu xảy ra trong các lĩnh vực kinh tế,
nhưng ngày nay đã lan sang các lĩnh vực vốn được coi trọng về đạo lý như giáo
dục, y tế, thực hiện chính sách xã hội, nhân đạo, từ thiện, phòng, chống dịch
bệnh… Tham nhũng xảy ra ngay trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, là những cơ
quan cầm cân, nảy mực, đại diện cho công lý và công bằng xã hội, như: Công an,
Viện kiểm sát, Tòa án... Những trường hợp thanh tra viên, điều tra viên, kiểm sát
viên, thẩm phán tòa án nhận hối lộ đã xuất hiện ở nhiều nơi. Không ít cán bộ,
công chức và người dân coi việc hối lộ cho công chức và việc công chức nhận hối
lộ khi giải quyết công việc là chuyện bình thường. Tình trạng tham nhũng “vặt”
và tham nhũng “nhỏ, lẻ”, mà nhiều người gọi là “nhũng nhiễu” hay “chi phí
không chính thức”, tuy thiệt hại không lớn, có khi chỉ vài chục nghìn đồng mỗi

vụ, nhưng diễn ra một cách tràn lan ở nhiều nơi, khiến người dân vô cùng bức
xúc. Số đối tượng tham nhũng là cán bộ, công chức, viên chức có chức vụ thấp
hoặc không có chức vụ lãnh đạo, quản lý, như: nhân viên cảnh sát, thuế vụ, bác
sỹ, y tá v.v... chiếm tỷ lệ khá cao; trong khi ở nhiều nước khác, đối tượng tham

9


nhũng chủ yếu là các chính khách, các quan chức và doanh nhân. Mấy năm gần
đây đã xuất hiện một số vụ tham nhũng liên quan đến yếu tố nước ngoài.
2.2. Về nguyên nhân của thực trạng
a. Chủ quan:
Thứ nhất, nguyên nhân và động cơ chủ yếu của tham nhũng là lòng tham
của con người. Cách đây hơn 2.200 năm, Hàn Phi Tử trong thiên Vong
trưng (Những điềm mất nước) và thiên Gian hiếp thí thần (Bọn bề tôi gian dối, ức
hiếp và giết nhà vua) cho rằng, con người sinh ra vốn tham dục, vị lợi; bản chất
con người là “ích kỷ” và đặc tính chủ yếu của nó là “sự ham mê lợi ích và thù
ghét tai họa” nên luôn “thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó, …”. Lẽ
cố nhiên đam mê lợi ích không phải lúc nào cũng xấu, nhưng để lòng tham dẫn
dắt, che mờ lý trí, điều khiển, kiểm soát hành động và vì lợi ích của bản thân, của
nhóm lợi ích mà chà đạp lên lợi ích của tập thể, cộng đồng và quần chúng nhân
dân thì rõ ràng là không thể chấp nhận được. Mọi hành vi tham nhũng dù dưới
hình thức nào chăng nữa đều có thể quy về “lợi ích cá nhân”. Lợi ích nhóm cũng
xuất phát từ lợi ích cá nhân mà ra. Nếu không vì lợi ích của bản thân thì chẳng ai
còn muốn tham nhũng nữa. Vì lợi ích cá nhân, người ta có thể làm tất cả, bất chấp
mọi thủ đoạn, mọi hậu quả để đạt được dù hành vi đó là vi phạm đạo đức, pháp
luật, hay vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng.
Thứ hai là do lối sống “ăn bám”, ỷ lại, lười lao động thích hưởng thụ của
một bộ phận, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là giới trẻ ngày nay. Chính lối sống
này kết hợp với bản chất ích kỷ, đam mê lợi ích vật chất của các bậc phụ huynh,

cán bộ, công chức,… là chất xúc tác để thúc đẩy con người ta lao vào các “phi
vụ” phạm pháp. Lối sống hưởng thụ len lỏi vào các cơ quan công quyền thể hiện
ở sự quan liêu và suy đồi của không ít cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
cống hiến thì ít mà muốn hưởng thụ thì nhiều, nên sách nhiễu, làm khó để vòi
vĩnh, “gợi ý”, “lót đường”, “rải thảm”.
Thứ ba là do cuộc sống, áp lực công việc, do môi trường xung quanh; do
giáo dục, do cơ chế và do chính bản thân mà đạo đức con người ngày càng bị suy
thoái, tha hóa. Điều này làm cho tệ tham nhũng càng có điều kiện thuận lợi để
phát sinh và lan rộng trong toàn xã hội. Tình trạng này đang có xu hướng ngày
càng tăng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
X nhận định: “Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng
viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống.
Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo
cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu
trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết
10


kiệm”. Hơn nữa, một bộ phận cán bộ, công chức chưa có ý thức rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị. Điều này dẫn đến sự tha hóa, suy
thoái về đạo đức không thể tránh khỏi của các công chức, viên chức nhà nước,
sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta đã nhận ra được
nguyên nhân này, nhưng biện pháp giải quyết chưa thật sự hiệu quả.
Ở nguyên nhân này, môi trường làm việc là điều kiện khách quan ảnh
hưởng đến sự suy thoái đạo đức. Hiện tượng đút lót, quà cáp để vụ lợi trong các
cơ quan công quyền không phải là điều quá xa lạ và diễn ra ở hầu hết mọi nơi.
Trong một môi trường như vậy, nếu như không “nhập gia tùy tục”, người ta sẽ bị
hất tung khỏi “vòng xoáy cuộc đời”. Theo lo-gíc phát triển khách quan của cuộc
sống, nếu mỗi con người không giữ được đạo “trung dung”, “trung thứ” và “tính

trực” và nếu “quân bất quân, thần bất thần, tử bất tử” (Khổng Tử) thì xã hội sẽ
lâm nguy, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Nguyên nhân này dần dần hình thành
hiện tượng tham nhũng tập thể, vì vậy khi có thanh tra, kiểm tra thì bao che lẫn
nhau, dẫn đến việc khó khăn trong vấn đề phòng, chống tham nhũng.
Thứ tư là do tâm lý, “truyền thống văn hóa” và trình độ nhận thức của một
bộ phận người dân còn yếu kém. Với quan niệm “dầu bôi trơn bánh xe”, “đầu
xuôi đuôi lọt”, “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” và nghĩ rằng giải pháp
nhanh nhất, hiệu quả nhất để giải quyết công việc là “thủ tục đầu tiên” cũng là
nguyên nhân thúc đẩy tham nhũng. Hơn thế, người ta còn dùng hối lộ, quà cáp
như một hình thức “kết thân”, “đầu tư chiều sâu”, “đầu tư vào tương lai” để tạo
thuận lợi cho con đường công danh sự nghiệp sau này cho cả bản thân lẫn người
thân. Chính hành vi tâm lý và trình độ nhận thức này đã vô tình làm cho không ít
cán bộ, nhân viên bị tham nhũng thụ động. Tình trạng này kéo dài làm xuất hiện
tư tưởng gây khó dễ ở cán bộ, công chức để nhận “phong bì” từ dân mới giải
quyết công việc, cho rằng nhận hối lộ là một thủ tục tất yếu trong quá trình xử lý
công việc. Bởi vậy, một số cán bộ, đảng viên khi có quyền lực đã đem địa vị,
quyền hành ra để “mặc cả” và cho rằng “muốn ăn chân giò phải thò chai rượu”.
Vô hình trung điều này tạo nên một cách suy nghĩ, một thói quen xấu trong cả cán
bộ công chức và cả những người muốn dùng tiền để giải quyết công việc, dần dần
hình thành nên “văn hóa phong bì”.
Thứ năm và cũng là nguyên nhân quan trọng, dễ dẫn đến tham nhũng nhất
đó chính là sự sơ hở, bất cập, thiếu công khai, thiếu minh bạch, cơ chế “xin - cho”
còn tồn tại. Đây là nguyên nhân thường xuyên được đề cập và lặp đi lặp lại nhiều
lần trong các phiên họp của Quốc hội. Nguyên nhân này thể hiện ở chỗ: cơ chế
kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng, quản lý, luân chuyển tài sản có nhiều sơ hở,
giao tài sản cho nhân viên nhưng không có biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ,
gian lận trong công tác để chiếm đoạt tài sản,... Các thủ tục, quy định của Nhà
nước chưa được công khai, rõ ràng nên nhân dân có suy nghĩ “tiếp cận, giải
11



quyết” mới xong, tạo điều kiện cho cán bộ tham nhũng; thiếu công khai, minh
bạch trong công tác quản lý, trong công tác kê khai tài sản, trong công tác sử
dụng tài sản, và thiếu minh bạch trong các văn bản, quy định, thủ tục. Hơn nữa,
việc thiếu trách nhiệm giải trình của các lãnh đạo cấp cao ở các cơ quan, đơn vị
cũng dẫn đến tình trạng thiếu công khai, minh bạch mặc dù việc báo cáo nghe có
vẻ vẫn rất “ổn”, “tốt” trong khi thực tế đó chỉ là “báo cáo láo”.
Thứ sáu, một nguyên nhân cần được nghiên cứu thêm đó là tư duy chính trị
của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn phảng phất tư duy “truyền thống”, phong
kiến, manh mún, chắp vá, thiếu tính hệ thống dẫn đến thiếu mạnh dạn và quyết
tâm trong việc thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy chính trị.
Giữa đổi mới tư duy chính trị và đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta chưa có sự
đồng bộ, thống nhất cần thiết nên thường xuyên diễn ra tình trạng “đánh trống bỏ
dùi”, “đầu voi đuôi chuột” làm tầm thường hóa hệ thống pháp luật.
Ngoài ra còn có nguyên nhân nữa mang tính chất khái quát là chúng ta
chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ. Hồ Chí Minh từng cho rằng “dân chủ là chìa
khóa vạn năng để giải quyết những vấn đề xã hội”. Tuy nhiên dân chủ phải gắn
liền với dân trí. Nhìn chung trình độ dân trí, kể cả quan trí của chúng ta chưa cao
nên nhân dân chưa có nhiều khả năng tham gia làm chủ, quản lý nhà nước, kiểm
tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và của cán bộ, công chức, viên
chức. Mặc dù chúng ta đã có bước tiến đáng kể về việc ban hành quy chế dân
chủ, song nhìn chung việc thực hiện đưa quy chế vào cuộc sống còn nhiều hạn
chế, khó khăn.
Bên cạnh một số nguyên nhân chủ quan cơ bản nêu trên còn có những
nguyên nhân khách quan rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng tham
nhũng ở nước ta.
b. Về nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất là việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa triệt
để, không theo kịp được trình độ phát triển của hoạt động thực tiễn. Trong quá
trình lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, để xây dựng, phát triển và bình

ổn trật tự xã hội còn nghiêng về “đức trị”, “nhân trị” mà chưa nghiêng về “pháp
trị”. Chính sách thưởng phạt chưa đủ sức răn đe người phạm tội và khuyến khích
người lập công, tố giác tội phạm.
Thứ hai là do hệ thống pháp luật, chính sách ở nước ta thiếu đồng bộ, chưa
thỏa đáng và nhất quán; trong xử lý, chế tài chưa nghiêm minh, pháp luật còn
nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém. Các thủ tục hành chính hay giấy
tờ, đất đai đều chưa minh bạch, rườm rà, cơ chế quản lý bất động sản chưa hiệu
quả và chặt chẽ tạo kẽ hở cho các cán bộ, viên chức tham nhũng. Pháp luật là

12


công cụ mạnh nhất để ngăn chặn, chế tài và xử lý tham nhũng nhưng pháp luật lại
chưa nghiêm, lỏng lẻo tạo điều kiện, cơ hội cho tham nhũng phát triển.
Thứ ba là do những bất cập trong triết lý về giáo dục, chưa hình thành được
một triết lý giáo dục đủ tầm cỡ, làm trụ cột lâu dài, xuyên suốt và bền vững trong
quá trình phát triển, kể cả giáo dục nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng;
giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường
chưa được chú trọng đúng mức. Hơn nữa, việc đưa những người thiếu năng lực
và thiếu phẩm chất đạo đức vào làm cho các cơ quan nhà nước do “quan hệ”, nể
nang, “đi đêm”,... làm suy thoái hệ thống chính trị và làm cho tình trạng tham
nhũng ngày càng phát triển nhanh chóng.
Thứ tư là do sự quản lý, thanh tra, kiểm tra lỏng lẻo, yếu kém của Nhà
nước; xử lý qua loa, chỉ mang tính “hình thức” như cảnh cáo, phê bình hoặc chủ
trương “đại sự hóa tiểu sự, tiểu sự hóa vô sự” vì người vi phạm thường là cán bộ
có quyền lực và địa vị, nên chưa mang tính răn đe. Các cán bộ cấp cao và cấp trên
chưa làm gương cho cấp dưới, chưa thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
với phương châm “một tấm gương sống về đạo đức gấp hàng trăm, hàng nghìn
bài diễn thuyết”. Việc chấp hành kỷ luật cũng bị xem nhẹ dẫn đến tình trạng
“phép vua thua lệ làng”, “trên bảo dưới không nghe”,... Người quản lý, thanh tra,

kiểm tra, điều tra cũng chưa thật sự mạnh tay và làm việc có hiệu quả, vẫn còn
nặng tình trạng “báo cáo tốt”, tệ hại hơn còn đồng lõa, “gợi ý” làm cho tệ tham
nhũng gia tăng, khó có thể ngăn chặn, phát hiện, xử lý kịp thời.
Thứ năm là do việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng của
nước ta chưa hiệu quả, đồng bộ, chưa đáp ứng được thực trạng tham nhũng hiện
nay, thiếu một chương trình phòng, chống lâu dài, tổng thể mà chỉ chủ yếu tập
trung vào việc giải quyết những vụ “tham nhũng vặt”, nhỏ lẻ. Mặt khác, các chính
sách của nước ta chưa khuyến khích toàn dân và cả hệ thống chính trị cùng
phòng, chống tham nhũng. Chúng ta chưa có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ những
người phát hiện và dám tố cáo tham nhũng. Việc tuyên dương người đứng lên tố
cáo tham nhũng hiện nay cũng chưa phải là giải pháp hiệu quả để động viên toàn
dân tham gia. Hơn nữa, người “đưa hối lộ” đi tố cáo tham nhũng cũng bị khép tội
“đưa hối lộ” nên cũng làm hạn chế việc tố cáo tham nhũng của nhân dân.
Thứ sáu là do mặt trái (bản chất) của nền kinh tế thị trường và sự phân cực
giữa các giai tầng trong xã hội ngày càng sâu sắc làm cho các giá trị đạo đức bị
đảo lộn. Đồng tiền đang lên ngôi trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Khi đồng
tiền được xem là “thước đo của vạn vật” thì các giá trị đạo đức, nhân phẩm sẽ
đứng trước bên bờ vực. C. Mác từng cảnh báo: “Trong xã hội tư bản đồng tiền là
một vấn đề trung tâm của mọi quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè đều bị
dìm chết trong dòng nước băng giá của đầu óc vị kỷ” và khẳng định: “Tất cả
những mối liên hệ phức tạp và muôn màu muôn vẻ ràng buộc con người phong
13


kiến đều bị giai cấp tư sản thẳng tay phá vỡ, không để lại giữa người và người
một mối quan hệ nào khác, ngoài mối lợi lạnh lùng với “lối trả tiền ngay” tiền
trao cháo múc không tình nghĩa”. Việc chạy theo sức mạnh của đồng tiền làm
cho một bộ phận không nhỏ cán bộ đi ngược lại truyền thống văn hóa của dân tộc.
Có không ít tổ chức, cá nhân vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt đã dùng mọi thủ đoạn, trong đó có thủ đoạn hối lộ được sử dụng

phổ biến nhất. Hơn nữa, chính sách tuyển dụng, trọng dụng và đãi ngộ các nhân
viên công quyền chưa thỏa đáng (chính sách tiền lương) là nguyên nhân góp phần
thúc đẩy mọi người cần phải kiếm thêm để bù đắp cho gia đình họ làm cho tình
trạng tham nhũng phát triển và lan rộng.

Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Về quan điểm
- Thứ nhất, phòng ngừa là chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan
trọng, cấp bách. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa, chủ động phát hiện
và kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời những người có hành vi tham nhũng,
bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham
nhũng; không có vùng cấm, vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền,
bất kể người đó là ai.
- Thứ hai, phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi
vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm. Gắn PCTN với thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; gắn PCTN, lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân.
- Thứ ba, kiên quyết, kiên trì, khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa để
không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng; cơ chế
bảo đảm để không cần tham nhũng.
3. 2. Về nhiệm vụ, giải pháp

14


Một là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy
định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm công tác PCTN
có hiệu lực, hiệu quả; nhất là xây dựng các quy chế nội bộ của Đảng, các nguyên

tắc và chuẩn mực đạo đức áp dụng đối với cán bộ, đảng viên, người đứng đầu;
xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý kinh tế - xã hội, tổ chức - bộ máy nhà
nước, hệ thống chính trị và thể chế về PCTN theo Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng.
Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan tham mưu của Đảng, các
bộ, ngành, cơ quan nhà nước phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, bổ sung, xây
dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền ban
hành thể chế thuộc phạm vi phụ trách, quản lý của cơ quan, tổ chức, bộ, ngành, địa
phương mình. Trước hết sửa đổi toàn diện Luật PTCN, sớm ban hành Luật bảo vệ
bí mật nhà nước; hoàn thiện các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
cán bộ, công chức, viên chức; hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình sự, tố
tụng hình sự, giám định tư pháp, thanh tra, kiểm toán, giải quyết tố cáo; các quy
định của pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội, nhất là đối với các lĩnh vực dễ xảy ra
tham nhũng, như: Đầu tư xây dựng (bao gồm cả đầu tư công và đầu tư theo hình
thức BT, BOT); thu - chi ngân sách; quản lý, sử dụng tài sản công; cổ phần hóa
doanh nghiệp; đất đai, tài nguyên khoáng sản; tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan;
chế độ, định mức, tiêu chuẩn; v.v… và các văn bản pháp luật liên quan đến PCTN,
bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả.
Thể chế nói chung và thể chế về PCTN nói riêng cùng với chuẩn mực đạo
đức trên các lĩnh vực là yếu tố cơ bản, nền tảng, có tác dụng ngăn chặn từ gốc
hành vi tham nhũng. Cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng cơ chế,
chính sách và pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội để hạn chế sự tác động tiêu cực
của “nhóm lợi ích”, “sân sau”, “tư duy nhiệm kỳ”, ngăn chặn nguy cơ nảy sinh
tham nhũng từ khi xây dựng và thực hiện chính sách. Thiết lập cơ chế giám sát và
kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn một cách hiệu
quả; kiên quyết, kiên trì, khẩn trương xây dựng một “cơ chế phòng ngừa để
không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng” (3) và
“một cơ chế bảo đảm để không cần tham nhũng”(4).
Hai là, phát huy đầy đủ, nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm và tính tiền

phong, gương mẫu của cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là
của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức, đơn vị
trong PCTN.
Đấu tranh PCTN là cuộc đấu tranh ngay trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn
vị, đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người. Vì vậy, phải phát huy đầy
đủ, nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm và tính tiền phong, gương mẫu của cấp
15


ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị, địa phương. Người đứng đầu phải nêu cao trách nhiệm, gương
mẫu, đi đầu, quyết tâm, quyết liệt, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN,
trước hết là trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình phụ trách. Xây dựng
quy định về tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham
nhũng và hoàn thiện chế tài xử lý người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng. Tiếp
tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên, quy định về những điều đảng viên không được làm. Cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu thực hiện nghiêm các quy định
của Đảng, Nhà nước về PCTN; đảng viên phải gương mẫu hơn quần chúng, cán
bộ phải gương mẫu hơn nhân viên, cán bộ càng cao càng phải gương mẫu. Kịp
thời xử lý nghiêm những người có hành vi vi phạm quy định về PCTN.
Ba là, tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ cán bộ, đảng viên; hoàn
thiện, thực hiện nghiêm các quy định về công tác tổ chức, cán bộ phục vụ PCTN.
Khẩn trương rà soát, bổ sung, khắc phục những sơ hở, bất cập trong tuyển
dụng, đào tạo, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, quản lý cán bộ, đảng viên. Cấp
ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải tăng cường quản lý, giám
sát cán bộ, đảng viên; tăng thẩm quyền và trách nhiệm người đứng đầu trong việc
tạm đình chỉ công tác cán bộ dưới quyền để kiểm điểm, xác minh, kết luận khi có
dấu hiệu vi phạm.
Quy định và thực hiện nghiêm việc xử lý, điều chuyển, miễn nhiệm, thay

thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có biểu hiện tham nhũng gây nhiều dư luận,
làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về
phẩm chất đạo đức, uy tín thấp. Quy định cụ thể và thực hiện có hiệu quả chủ
trương bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện không phải là
người địa phương; không bố trí những người có quan hệ gia đình cùng làm một số
công việc dễ xảy ra tham nhũng.
Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước; cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, nghiêm
minh, công khai. Rà soát, hoàn thiện quy định của Đảng và Nhà nước về xử lý kỷ
luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa kỷ luật Đảng với kỷ luật hành chính
của Nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, kiên quyết thực hiện có hiệu quả việc sắp
xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế gắn với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương. Đổi mới cơ
chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
Bốn là, thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiểm soát có hiệu
16


quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh
đạo, quản lý.
Công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình là điều kiện đầu tiên để kiểm
soát quyền lực. Công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình càng tốt thì càng tạo
điều kiện cho các chủ thể giám sát có hiệu quả công tác PCTN, không có vùng
tối, vùng trống, vùng cấm trong PCTN. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về công
khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và các biện
pháp bảo đảm để công dân thực hiện đầy đủ quyền tiếp cận thông tin theo quy
định của pháp luật.
Kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn,

trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý thì hiệu quả phòng ngừa tham nhũng càng
cao. Tiếp tục hoàn thiện quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có
chức vụ, quyền hạn, nhất là các nội dung về công khai, quản lý, kiểm tra, giám
sát, xác minh bản kê khai; trách nhiệm giải trình, chế tài xử lý vi phạm trong kê
khai và xử lý tài sản tăng thêm không giải trình được một cách hợp lý. Hoàn thiện
quy định và hệ thống cơ sở hạ tầng để chuyển mạnh và tiến tới thực hiện thanh
toán không dùng tiền mặt.
Năm là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án
tham nhũng, nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng.
Các cơ quan chức năng phải có các giải pháp phù hợp, thuận lợi, an toàn để
khuyến khích người dân phát hiện, dễ dàng phản ánh, tố giác tham nhũng. Tiếp
tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Một khi đã xảy ra tham nhũng thì phải xử
lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời, đúng quy định của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, không có vùng cấm, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, phải
nghiêm túc tuân thủ sự bình đẳng trước pháp luật, không chịu sự tác động không
đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào. Quá trình phát hiện, điều tra, xử lý tham
nhũng phải tích cực, khẩn trương; làm rõ đến đâu xử lý đến đó; không phân biệt
người có hành vi tham nhũng là ai, đã có dấu hiệu tội phạm thì phải khởi tố điều
tra, đã kết luận có người phạm tội thì phải truy tố, xét xử theo quy định của pháp
luật(5); vụ việc chưa đến mức xử lý hình sự thì phải xử lý kỷ luật nghiêm theo quy
định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Xử lý nghiêm, đúng pháp luật cả
những người bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, ngăn cản
việc chống tham nhũng. Chú trọng truy tìm, kịp thời áp dụng các biện pháp kê
biên, tạm giữ tài sản, phong tỏa tài khoản và xử lý tài sản tham nhũng ngay trong
quá trình thanh tra, kiểm toán, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Đẩy
nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm
trọng, phức tạp; tiến hành thanh tra, điều tra, kiên quyết xử lý nghiêm minh các tổ
17



chức, cá nhân có sai phạm liên quan các dự án lớn thua lỗ, kéo dài, gây lãng phí
lớn đang được dư luận xã hội quan tâm.
Tiếp tục kiện toàn Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo quy định
mới của pháp luật; kiện toàn tổ chức, bộ máy, cụ thể hơn về thẩm quyền, trách
nhiệm, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về
PCTN, Ủy ban Kiểm tra Đảng, Ban Nội chính, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán
Nhà nước trong PCTN; có quy định để ngăn ngừa có hiệu quả sự tác động không
đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào hoạt động của các cơ
quan này. Đổi mới phương thức hoạt động, củng cố, bổ sung, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, tăng cường phương tiện làm việc của các cơ quan, đơn vị chuyên
trách chống tham nhũng. Về lâu dài, cần nghiên cứu xây dựng mô hình cơ quan
chuyên trách chống tham nhũng theo hướng tăng thẩm quyền, trách nhiệm và tính
độc lập tương đối trong thực hiện nhiệm vụ.
Sáu là, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kiểm
soát quyền lực và xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng để ngăn chặn từ
gốc nguyên nhân phát sinh tham nhũng.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát công tác phát hiện, xử lý tham nhũng của
các cơ quan, đơn vị chức năng và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong
PCTN.
Phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí
trong PCTN, nhất là giám sát đối với việc thực thi trách nhiệm, quyền hạn của các
cơ quan và người có trách nhiệm, thẩm quyền trong PCTN nói chung và trong xử
lý các vụ việc, vụ án tham nhũng nói riêng; đồng thời, nghiêm trị những hành vi
lợi dụng chống tham nhũng để vu khống, tố cáo sai sự thật, hãm hại người đấu
tranh chống tham nhũng.
Xây dựng Đề án tăng cường giám sát, kiểm soát quyền lực, thiết lập bằng
được một cơ chế giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức
vụ, quyền hạn thực sự có hiệu lực, hiệu quả để ngăn ngừa tham nhũng.

Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về PCTN; xây
dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, trước hết là trong cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức. Xây dựng văn hóa là xây dựng con người; văn hóa tiết
kiệm, không tham nhũng là ứng xử có văn hóa của con người với tiết kiệm, lãng
phí, tham nhũng. Do đó, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng phải
quyết liệt, kiên trì, thường xuyên, lâu dài. Trước hết là, phải xây dựng ý thức tự
giác chấp hành, thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về PCTN, lãng phí; (2) Chủ động xử lý khi có xung đột lợi ích; (3) Xây
18


dựng, thực hiện tốt quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp; (4) Phê phán,
lên án, đấu tranh với tham nhũng, lãng phí; (5) Trọng liêm sỉ, danh dự, biết xấu
hổ khi bản thân và người thân tham nhũng, lãng phí.
Bảy là, từng bước mở rộng hoạt động PCTN ra khu vực ngoài Nhà nước;
mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về PCTN.
Tham nhũng không chỉ xảy ra trong các hoạt động thuộc khu vực Nhà
nước, mà còn có sự giúp sức, hỗ trợ đắc lực của các đối tượng hoạt động ngoài
khu vực Nhà nước. Sự cấu kết giữa những cán bộ, công chức, viên chức thoái
hóa, biến chất trong khu vực Nhà nước với những đối tượng hoạt động ngoài khu
vực Nhà nước là một dấu hiệu có tính phổ biến hiện nay của tội phạm tham
nhũng. Do đó, phải từng bước mở rộng hoạt động PCTN ra ngoài khu vực Nhà
nước thì công tác PCTN mới đồng bộ, hiệu quả. Mặt khác, tội phạm tham nhũng
có tính quốc tế, là vấn nạn của các quốc gia. Phải đẩy mạnh đàm phán, ký kết các
hiệp định tương trợ tư pháp, các thỏa thuận về hợp tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm với các nước, nhất là các nước có quan hệ truyền thống, các nước có đông
người Việt Nam sinh sống. Phối hợp chặt chẽ với cơ quan tư pháp của các nước,
các tổ chức quốc tế để truy bắt, dẫn độ số đối tượng phạm tội tham nhũng lẩn
trốn, chuyển giao tài liệu, chứng cứ và thu hồi tài sản tham nhũng tẩu tán ra nước
ngoài. Tích cực tham gia các sáng kiến, diễn đàn quốc tế, nghiên cứu, trao đổi

kinh nghiệm với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong PCTN. Nội luật hóa và
thực thi Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng theo đúng lộ trình,
phù hợp với điều kiện và pháp luật của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Kinh nghiệm xử lý các vụ tham nhũng vừa qua cho thấy, vai trò của cấp uỷ,
của cán bộ quản lý và người đứng đầu các tổ chức, các cơ quan là rất quan trọng.
Cán bộ quản lý, nhất là người đứng đầu liêm khiết, gương mẫu chấp hành Điều lệ
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, không tơ hào hoặc phung phí của
công thì cơ quan, tổ chức đó sẽ trong sạch, công tác có hiệu quả, nhân dân tin
yêu. Do đó, việc quản lý cán bộ, đánh giá đúng, sử dụng và bổ nhiệm đúng cán bộ
có vai trò rất quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Kiên
quyết không đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu tái cử những người mắc vào tệ tham
nhũng, lãng phí hoặc bao che, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí. Thực hiện
nghiêm quy định và xử lý trách nhiệm như miễn nhiệm, bãi nhiệm người đứng
đầu các tổ chức để xảy ra tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng...
Cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí là một cuộc đấu tranh
khó khăn, phức tạp, nhưng được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đồng tình và
quyết tâm thực hiện có hiệu quả. Chúng ta đã ban hành Nghị quyết về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Luật
19


Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, có Ban Chỉ
đạo Phòng chống tham nhũng, các cơ quan chức năng được củng cố và những
kinh nghiệm trong xử lý các vụ tham nhũng, lãng phí lớn vừa qua, với ý chí,
quyết tâm, thống nhất giữa ý Đảng - lòng dân, chúng ta tin tưởng: Cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhất định sẽ
giành được thắng lợi, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ
mới./.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, trang 196, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia - Sự thật, năm 2016.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, trang 213, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, năm 2016.
3. Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo
Trung ương về PCTN kết luận Hội nghị toàn quốc về công tác PCTN (ngày 5-52014).
4. Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 7-12-2015 của Bộ Chính trị.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 436
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương Khóa X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 13-14.

20


21



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×