Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội tại công ty cổ phần in hà nội giai đoạn 2012 – 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.51 KB, 86 trang )

MỤC LỤC

STT

1

Từ viết tắt

Giải nghĩa

1

BHXH

Bảo hiểm xã hội

2



Chế độ

3

CTCP

Công ty cổ phần

4

DN



Doanh nghiệp

5

DSPHSK

Dưỡng sức phục hồi sức khỏe

6

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

7



Lao động

8

NLĐ

Người lao động

9

NSDLĐ


Người sử dụng lao động


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Thực hiện tốt BHXH không chỉ là trách nhiệm của cơ quan BHXH mà
còn là trách nhiệm của mỗi người lao động, mỗi doanh nghiệp, góp phần
đảm bảo ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ trong các
trường hợp luật định, đảm bảo công bằng xã hội và phát triển xã hội một
cách bền vững.
Trong thời gian triển khai thực hiện BHXH, bước đầu một số doanh
nghiệp nghiêm túc thực hiện đầy đủ đúng theo quy định. Bên cạnh đó cũng
có không ít các doanh nghiệp đã bộc lộ nhiều yếu kém trong công tác thực
hiện BHXH cho người lao động. Các đơn vị doanh nghiệp chưa có sự hiểu
biết rõ ràng, chính xác về BHXH. Do vậy họ chưa tự giác tham gia cho
người lao động tại doanh nghiệp còn phổ biến, chưa đồng đều nên kết quả
còn nhiều hạn chế. Thực tế đòi hỏi cần phải có các giải pháp để cải thiện
tình hình này, tạo cơ sở thực hiện chính sách BHXH ngày một tốt hơn.
Là một trong những công ty hàng đầu về ngành in, được thành lập từ
năm 2001, công ty Cổ phần In Hà Nội đến nay đã thực hiện BHXH cho
người lao động theo đúng quy định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
còn nhiều vướng mắc và hạn chế cần được giải quyết. Trong quá trình
nghiên cứu của bản thân, nhận thức được tình hình này nên em đã chọn đề
tài “Tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội tại Công ty Cổ phần In Hà Nội

giai đoạn 2012 – 2016” làm đề tài khóa luận, nhằm phát huy những mặt
đạt được và giải quyết những hạn chế còn tồn tại trong công tác thực hiện
BHXH cho NLĐ tại công ty.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH nói chung và các
chế độ BHXH thực hiện tại doanh nghiệp nói riêng.
- Nghiên cứu thực trạng tình hình thực hiện BHXH tại Công ty Cổ
phần In Hà Nội.
- Rút ra những đánh giá về hiệu quả đạt được, hạn chế và nguyên
nhân. Đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm thực hiện BHXH tại
doanh nghiệp tốt hơn trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Thực hiện BHXH cho NLĐ tại doanh nghiệp.
3


- Phạm vi nghiên cứu: Tình hình thực hiện BHXH bắt buộc cho NLĐ
tại Công ty Cổ phần In Hà Nội, giai đoạn 2012 – 2016.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Bài khóa luận sử dụng các biện pháp nghiên cứu:
Thu thập tài liệu: thu thập những tài liệu liên quan đến các quy định
về lý thuyết và thực hiện BHXH tại các doanh nghiệp.
Thống kê: thống kê những số liệu về tiền lương tối thiểu chung, tiền
lương cơ sở, tiền lương tối thiểu vùng qua các năm; doanh thu, lợi nhuận,
tình hình thực hiện BHXH tại CTCP In Hà Nội…
So sánh: so sánh hoạt động kinh doanh cũng như công tác triển khai
thực hiện BHXH tại doanh nghiệp trong giai đoạn 2012 – 2016.
Phân tích tổng hợp: phân tích đánh giá tình hình thực hiện BHXH
qua những tài liệu thu thập, thống kê số liệu…, từ đó tổng hợp những mặt
đạt được, hạn chế, nguyên nhân để tìm ra những giải pháp thích hợp.

5. Nội dung nghiên cứu.
Ngoài lời mở đầu và kết luận bài khóa luận tốt nghiệp, gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện bảo hiểm xã hội tại doanh
nghiệp.
Chương 2: Tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội tại Công ty Cổ phần
In Hà Nội giai đoạn 2012 – 2016.
Chương 3: Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thiện công tác
thực hiện bảo hiểm xã hội tại Công ty Cổ phần In Hà Nội.

4


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ
HỘI TẠI DOANH NGHIỆP.
1.1. Khái niệm và vai trò của BHXH.
1.1.1. Khái niệm BHXH.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến nay, nền kinh tế
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cùng với sự phát triển
kinh tế là sự lớn mạnh không ngừng của hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt là
chính sách Bảo hiểm xã hội đã phát huy vai trò trụ cột trong hệ thống an
sinh xã hội, góp phần tích cực vào việc ổn định xã hội, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. BHXH hiện
nay là một trong những chính sách xã hội quan trọng của Đảng và nhà nước
ta từ lâu đã được cụ thể hóa thực hiện theo luật. BHXH là sự chia sẻ rủi ro
và các nguồn quỹ giúp người lao động đảm bảo cuộc sống của mình và gia
đình khi gặp rủi ro.
Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về BHXH, tuỳ theo góc độ
nghiên cứu, cách tiếp cận mà người ta đưa ra một số khái niệm như sau:
Theo Khoản 1, Điều 3, Luật BHXH thì: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo

đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ
bảo hiểm xã hội”.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì: “BHXH là sự bảo vệ của
xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp
công cộng để đối phó với khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị
giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi
già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông
con”.
Như vậy, BHXH là sự bảo đảm bù đắp một phần hoặc thay thế thu
nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết…trên
cơ sở đóng góp quỹ BHXH do Nhà nước tổ chức thực hiện và sử dụng quỹ
đó nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động và an toàn xã hội.
Người lao động và người sử dụng lao động là những đối tượng chính tham
gia BHXH. Tuy vậy, tuỳ theo sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước
mà các đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao
5


động nào đó. Quỹ bảo hiểm xã hội để dành chi trả việc quản lý và các chế
độ trợ cấp được hình thành từ ðóng góp của ngýời lao ðộng, chủ sử dụng
lao ðộng, cộng với nguồn hỗ trợ của Nhà nước. Quỹ BHXH được nhà nước
bảo hộ để tồn tại và phát triển. Mục đích chính của các chế độ BHXH là trợ
cấp vật chất cho người bảo hiểm khi gặp rủi ro đã được quy định trong luật.
Phát sinh từ nhu cầu chính đáng của người lao động, BHXH đã trở thành
chính sách xã hội quan trọng của nước ta và hầu hết các nước trên thế giới.
BHXH trở thành phương thức dự phòng để khắc phục hậu quả của các rủi
ro xã hội, đảm bảo an toàn xã hội và tạo động lực hữu hiệu để phát triển

kinh tế.
1.1.2. Vai trò của BHXH.
1.1.2.1. Đối với người lao động.
Mục đích chủ yếu của BHXH là đảm bảo thu nhập cho NLĐ và gia
đình họ khi gặp khó khăn trong cuộc sống làm giảm hoặc mất thu nhập.
BHXH sẽ góp phần thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi NLĐ bị
ốm đau, mất khả năng lao động, hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp
thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng những tổn
thất về vật chất, nhanh chóng phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp
tục quá trình hoạt động bình thường.
Tham gia BHXH là điều kiện cho NLĐ được cộng đồng tương trợ khi
ốm đau, tai nạn…Đồng thời BHXH cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện
trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của các thành viên khác. Từ đó
các rủi ro trong lao động sản xuất và trong đời sống NLĐ được khống chế,
khắc phục hậu quả ở mức độ cần thiết.
Tham gia BHXH còn giúp NLĐ nâng cao hiệu quả trong chi dùng cá
nhân, giúp họ tiết kiệm những khoản nhỏ đều đặn để có nguồn dự phòng
cần thiết chi dùng khi già cả, mất sức lao động. Đó không chỉ là nguồn hỗ
trợ vật chất mà là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi
gặp khó khăn làm họ ổn định về tâm lý, giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tuổi
già…Nhờ có BHXH cuộc sống của những thành viên trong gia đình NLĐ,
nhất là trẻ em người tàn tật,…cũng được đảm bảo an toàn.
1.1.2.1 Đối với tổ chức sử dụng lao động.
BHXH giúp cho các tổ chức sử dụng lao động ổn định hoạt động sản
xuất kinh doanh, ổn định tài chính thông qua việc phân phối các chi phí cho
NLĐ một cách hợp lý. Nếu không có BHXH thì các tổ chức sử dụng lao
động trả tiền bảo hiểm cùng với tiền lương hàng tháng của NLĐ. Số tiền
6



này không phải lúc nào cũng được NLĐ sử dụng đúng mục đích. Đến khi
bị ốm đau, tai nạn lao động thì họ không có thu nhập, không có chi phí
thuốc men đời sống của NLĐ bị ảnh hưởng dẫn đến ảnh hưởng tới quan hệ
lao động ảnh hưởng tới chất lượng lao động.
BHXH góp phần ổn định lực lượng lao động trong doanh nghiệp làm
cho việc sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp được liên tục đạt hiệu quả
cao hơn, NLĐ gắn bó với doanh nghiệp hơn. Việc NSDLĐ tham gia đóng
BHXH cho NLĐ sẽ thể hiện được trách nhiệm của mình đối với NLĐ, từ
đó họ sẽ yên tâm lao động sản xuất hơn góp phần xây dựng được mối quan
hệ tốt đẹp trong lao động.
BHXH giúp cho doanh nghiệp có trách nhiệm hơn đối với NLĐ của
mình không chỉ khi NLĐ còn làm việc trong doanh nghiệp mà cả khi họ đã
nghỉ việc về già. BHXH làm tăng tính nhân văn trong quan hệ lao động.
BHXH còn giúp các đơn vị sử dụng lao động ổn định nguồn chi, ngay
cả khi có rủi ro lớn thì cũng không rơi vào tình trạng nợ nần. Việc trích tiền
BHXH được các doanh nghiệp thực hiện hàng tháng nhờ đó mà thuận tiện
cho việc hạch toán các chi phí chủ động, ổn định.
1.1.2.3. Đối với xã hội.
Vai trò đầu tiên của hình thức này là tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng
cao tính cộng đồng xã hội củng cố truyền thống đoàn kết gắn bó giữa các
thành viên trong xã hội, điều này đã trở thành lý do tồn tại của BHXH. Tuy
không nhằm mục đích kinh doanh lợi nhuận nhưng BHXH là công cụ phân
phối sử dụng quỹ dự phòng hiệu quả nhất cho việc giảm hậu quả rủi ro, tạo
động lực phát triển kinh tế xã hội. Thông qua hoạt động BHXH những rủi
ro trong đời sống của NLĐ được dàn trải theo nhiều chiều tạo khả năng giải
quyết an toàn nhất với chi phí thấp nhất.
Quỹ BHXH là một nguồn tài chính tập trung khá lớn. Bên cạnh việc
chi trả các chế độ số tiền nhàn rỗi của quỹ còn được đầu tư để bảo toàn và
tăng trưởng quỹ. Việc đầu tư của quỹ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế xã hội.

BHXH là xương sống của hệ thống an sinh xã hội, là căn cứ để đánh
giá trình độ quản lý rủi ro của từng quốc gia và mức độ an sinh đạt được
của nó. Muốn đảm bảo an sinh tốt, trước tiên phải thực hiện tốt chính sách
BHXH.
Ngoài ra phân phối trong BHXH là quá trình phân phối lại theo
hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp, nó cũng góp phần làm
7


giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo góp phần đảm bảo công
bằng xã hội.
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của BHXH.
Nguyên tắc của BHXH là những vấn đề, những quan điểm cơ bản
được định ra và thực hiện xuyên suốt trong mọi hoạt động của BHXH. Là
một loại hình bảo hiểm, lại chủ yếu mang mục đích xã hội, BHXH vừa phải
thực hiện các nguyên tắc chung của hoạt động bảo hiểm, vừa phải thực hiện
các nguyên tắc mang tính xã hội của mình.
1.2.1. Mọi NLĐ đều có quyền tham gia và hưởng BHXH.
Được cộng đồng chia sẻ rủi ro là nhu cầu chính đáng của mọi người,
vì vậy, tham gia và hưởng BHXH là nhu cầu chính đáng của mọi người lao
động. Đó là một trong các phương thức đảm bảo quyền bình đẳng cho NLĐ
trên phương diện xã hội, nhất là trong điều kiện BHXH có sự bảo trợ của
Nhà nước. Ở Việt Nam, quyền tham gia và hưởng BHXH của NLĐ đã
được ghi nhận trong Hiến pháp (Điều 56) và Bộ luật Lao động (Điều 7).
Thực tế, một trong các tiều chí để đánh giá hệ thống BHXH thành công là
diện bao phủ của nó so với lực lượng lao động trong phạm vi cả nước. Vì
vậy, các hệ thống BHXH thường thiết kế để ngay cả những người ít có khả
năng cũng có cơ hội được tham gia bảo hiểm ở mức độ nhất định. Quyền
tham gia và hưởng BHXH không thể bị phân biệt về khu vực, ngành nghề,
thành phần kinh tế, giới tính, có tham gia quan hệ lao động hay không…

Tuy nhiên, người lao động được tham gia và hưởng BHXH ở mức độ nào,
trong những trường hợp nào… Hay nói cách khác là khả năng được chia sẻ,
khắc phục rủi ro đến đâu còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, và
trình độ quản lý rủi ro trong mỗi quốc gia.
Để đảm bảo quyền tham gia và hưởng BHXH cho người lao động,
theo nguyên tắc này còn bao gồm cả nội dung thực hiện BHXH phải đơn
giản, dễ dàng và thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi tham gia
khi điều kiện BHXH phát sinh.
1.2.2. Mức hưởng BHXH trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm
và chia sẻ cộng đồng.
BHXH là một trong những hình thức phân phối lại thu nhập giữa
những người tham gia bảo hiểm nên cần xác định mức hưởng một cách
công bằng, hợp lý. Như nhiều hình thức bảo hiểm khác, mức đóng có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định mức hưởng BHXH. Tuy nhiên, do
mục đích An sinh xã hội chi phối, trong điều kiện có sự bảo trợ của nhà
8


nước đối với quỹ BHXH, thì mức đóng quỹ BHXH và mức hưởng từ
BHXH thường bị khống chế ở mức trần nhất định. Điều đó để đảm bảo
công bằng và đảm bảo ngân sách nhà nước không phải bảo trợ cho những
mức bảo hiểm quá cao, ảnh hưởng đến hoạt động chi ngân sách. Ngoài ra,
trong một số trường hợp, mức hưởng BHXH còn phải dựa trên thời gian
đóng BHHX. Yếu tố này đặc biệt quan trọng đối với các chế độ bảo hiểm
dài hạn, quản lý quỹ theo hình thức tài khoản tiết kiệm cá nhân hoặc lập
quỹ tồn tích cộng đồng.
Như vậy, mức đóng, hưởng BHXH của NLĐ phải được tính toán hợp
lý trong tương quan với rất nhiều yếu tố. Việc xác định mức đóng, hưởng
BHXH hợp lý là nguyên tắc quan trọng để đảm bảo tính hấp dẫn và tính
bền vững của BHXH. Đây cũng là nguyên tắc thể hiện rõ nét yếu tố kinh tế

và yếu tố xã hội của hình thức bảo hiểm này.
1.2.3. BHXH thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít.
Khi tham gia BHXH, NLĐ được đảm bảo một khoản thu nhập khi bị
giảm hoặc mất khả năng lao động, hoặc mất việc làm. Khoản thu nhập thay
thế này nói chung cao hơn so với khoản phí BHXH mà họ đã đóng góp. Để
làm được điều này, BHXH phải thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít, có
nghĩa là lấy số đông người tham gia đóng góp để bù cho số ít người không
may gặp rủi ro. Theo nguyên tắc này càng nhiều người tham gia BHXH thì
sự san sẻ rủi ro càng được thực hiện dễ dàng hơn.
1.2.4. Nhà nước thống nhất quản lý BHXH.
Nhà nước thống nhất quản lý là yêu cầu khách quan đối với việc tổ
chức thành công BHXH, nhằm đảm bảo cho giới lao động trong toàn quốc
đều có thể tham gia BHXH, thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít.
BHXH còn là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã
hội. Nhà nước, với tư cách là đại diện chính thức và quản lý xã hội, phải có
trách nhiệm thực hiện các chính sách xã hội, quản lý các hoạt động BHXH
để đảm bảo ổn định và công bằng xã hội.
BHXH được nhà nước quản lý thống nhất, ổn định, sẽ tạo điều kiện
cho NLĐ dịch chuyển quan hệ lao động từ đơn vị này sang đơn vị khác, từ
khu vực này sang khu vực khác… theo yêu cầu của thị trường mà quyền lợi
bảo hiểm của họ không bị ảnh hưởng. Khi nhà nước quản lý sẽ đảm bảo
tính thống nhất của BHXH và thị trường lao động trong phạm vi cả nước,
có điều kiện tập trung nguồn lực để giải quyết rủi ro khi khả năng đóng quỹ
chưa cao.
9


Nhà nước cũng thành lập tổ chức BHXH, quản lý toàn bộ hệ thống tổ
chức và hoạt động BHXH thống nhất trong cả nước. Các cơ quan nhà nước
hữu quan cũng thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết

tranh chấp về BHXH; tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học về
BHXH, thống kê, quản lý các thông tin liên quan đến BHXH. Đặc biệt,
Nhà nước không chỉ đóng quỹ bảo hiểm cho những lao động làm việc trong
khu vực nhà nước như một chủ sử dụng lao động mà còn là người bảo trợ
cho quỹ BHXH trong các trường hợp cần thiết.
1.2.5. BHXH phải kết hợp hài hòa các lợi ích, các mục tiêu và phù hợp
với điều kiện kinh tế, xã hội đất nước.
Khác với hình thức bảo hiểm thương mại, chủ yếu mang lại lợi ích
cho người tham gia và người nhận bảo hiểm; BHXH ngoài mục đích chính
đảm bảo thu nhập cho NLĐ còn phải tính đến lợi ích của NSDLĐ và lợi ích
xã hội, kết hợp các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Vì vậy, kết hợp hài
hòa các lợi ích, các mục tiêu vừa là căn cứ thiết kế hệ thống vừa là điều
kiện để tổ chức thành công BHXH.
Trên thực tế, không chỉ NLĐ mà các bên trong quan hệ BHXH đều
nhận được các lợi ích nhất định khi tham gia quan hệ này. Trong đó, mỗi
chủ thể vừa hướng tới lợi ích chung để phát triển BHXH bền vững, vừa cố
gắng để lợi ích của mình đạt được ở mức cao nhất. Xác định các lợi ích,
các mục tiêu nêu trên phải đặt trong điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử của
quốc gia.
1.3. Nội dung cơ bản của BHXH bắt buộc.
1.3.1. Đối tượng tham gia.
Đối tượng tham gia BHXH là người có trách nhiệm đóng phí (quỹ)
bảo hiểm cho cơ quan thực hiện BHXH theo quy định của Nhà nước. Trong
BHXH, đối tượng tham gia chủ yếu là người lao động và người sử dụng lao
động. Người lao động tham gia BHXH, đồng thời là người được hưởng bảo
hiểm. Ngoài ra, thân nhân của người tham gia BHXH cũng có thể được
hưởng bảo hiểm trong một số trường hợp, theo quy định của pháp luật.
Trong BHXH, nếu người lao động tham gia quan hệ lao động thuộc
đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thì NSDLĐ có nghĩa vụ phải tham gia
đóng phí bảo hiểm cho những lao động đó. Tùy theo nhu cầu tham gia bảo

hiểm và trình độ quản lý rủi ro của từng hệ thống BHXH mà đối tượng
tham gia có quy mô lớn hay nhỏ.

10


Ở nước ta hiện nay, hình thức BHXH bắt buộc đang có sự phát triển
khá nhanh, đối tượng tham gia ngày càng mở rộng. Từ chỗ chỉ bảo vệ cho
người lao động trong khu vược nhà nước, hiện nay BHXH bắt buộc đã bao
phủ tất cả các đối tượng tham gia quan hệ lao động.
1.3.2. Các chế độ BHXH bắt buộc.
Các chế độ BHXH là các trường hợp được bảo hiểm do Nhà nước
quy định cho người hưởng bảo hiểm, theo các mức hưởng và thời gian
hưởng khác nhau, khi có đủ điều kiện bảo hiểm phát sinh. Cũng như việc
xác định đối tượng tham gia, việc xác định chế độ BHXH cũng tùy thuộc
vào nhu cầu tham gia bảo hiểm và trình độ quản lí rủi ro của từng nước.
Thông thường, số lượng các chế độ BHXH ngày càng được mở rộng trong
mỗi hệ thống. Theo qui định của ILO trong Công ước 102(năm 1952), để
đảm bảo mức tối thiểu, thì trong BHXH, các nước thành viên cần lựa chọn
ít nhất là ba trong chín chế độ sau: chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp
thất nghiệp, trợ cấp hưu trí, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ
cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất.
Trong đó phải có ít nhất một trong các chế độ: bảo hiểm thất nghiệp,
hưu trí, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tàn tật, tiền tuất. Tuy các chế độ
được quy định rất linh hoạt, phù hợp với điều kiện của nhiều nước, với
những trình độ phát triển khác nhau, nhưng qua đó, có thể thấy quan điểm
của ILO về mức độ ưu tiên lựa chọn các chế độ BHXH trong hệ thống an
sinh xã hội. Việt Nam là viên của ILO, tuy chưa tham gia Công ước này
nhưng cũng đã tham khảo nó khi hoạch định các chế độ BHXH của mình.
Với điều kiện hiện tại, nước ta đã lựa chọn, thực hiện các chế độ

BHXH, bao gồm: chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, hưu trí, tử tuất, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm ý tế bao gồm bảo
hiểm y tế bắt buộc và bảo hiểm y tế tự nguyện. Hệ thống các chế độ BHXH
có sự khác nhau trong các thời kỳ phát triện kinh tế- xã hội. Lựa chọn thực
hiện BHXH với những chế độ nào là tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội
trong từng thời kì.
Khi đã được pháp luật quy định, nội dung của các chế độ BHXH
thường bao gồm xác định đối tượng hưởng BHXH và điều kiện hưởng, xác
định mức trợ cấp, thời gian hưởng trợ cấp và cách tính...
Điều kiện hưởng của các chế độ bảo hiểm thường quy định về nội
dung như tuổi đời, mức độ suy giảm hoặc mất khả năng lao động thời gian
tham gia BHXH,... và quy định về thủ tục BHXH (các căn cứ để chứng
11


minh cho các điều kiện về nội dung như giấy chứng nhận điều trị, sổ
BHXH...)
Trong mỗi chế độ, Nhà nước quy định các mức hưởng, thời gian
hưởng BHXH phù hợp. Các mức hưởng cơ bản là mức trợ cấp thay lương,
bằng một tỉ lệ nhất định của tiền lương đóng cho BHXH. Các mức trợ cấp
này thường phải đảm bảo giá trị khi có các biến đổi của giá cả, tiền tệ và
đảm bảo mức sống tối thiểu cho người tham gia
Như vậy, các quy định về đối tượng, điều kiện, mức hưởng và thời
gian hưởng BHXH trở thành những nội dung rất quan trọng của mỗi chế độ
BHXH. Nó vừa là cơ sở pháp lý để đối tượng hưởng BHXH, vừa là công
cụ điều tiết của Nhà nước để đảm bảo sự công bằng giữa các chế độ, công
bằng về lợi ích giữa các bên tham gia và lợi ích chung và phù hợp với các
hệ thống khác của an sinh xã hội, phù hợp với sự biến động của các điều
kiện kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ.
1.3.3. Quỹ Bảo hiểm xã hội.

1.3.3.1. Khái niệm quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân
sách nhà nước. Quỹ này được dùng để chi trả trợ cấp cho các đối tượng
hưởng BHXH và chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH các cấp.
Có thể hiểu quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên
tham gia: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước bù thiếu
nhằm chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo cho hoạt động của hệ
thống BHXH.
Như vậy, “quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung, hạch toán độc lập với
ngân sách Nhà nước, được Nhà nước bảo hộ và bù thiếu. Quỹ này được
quản lý theo cơ chế cân bằng thu chi, do đó quỹ BHXH không đơn thuần ở
trạng thái tĩnh mà luôn có sự biến động theo chiều hướng tăng lên hoặc
thâm hụt” (trích giáo trình Lý thuyết BHXH – Trường Đại học Lao động Xã hội). Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết
những rủi ro của những người tham gia BHXH với tổng dự trữ ít nhất, do
rủi ro được dàn trải cho số đông người tham gia. Đồng thời quỹ này cũng
góp phần giảm chi ngân sách Nhà nước; khi có tai nạn lao động xảy ra với
người lao động, giảm gánh nặng phải chi cho những người hết tuổi lao
động….
1.3.3.2. Nguồn hình thành quỹ.
BHXH là phạm trù kinh tế - xã hội, mặc dù tính xã hội được thể
hiện nổi trội hơn. Theo các nhà kinh tế cho rằng, kinh tế là nền tảng của
12


BHXH vì chỉ khi NLĐ có thu nhập đạt đến một mức độ nào đó thì việc
tham gia BHXH mới thiết thực và có hiệu quả. BHXH chỉ có thể phát triển
được theo đúng nghĩa trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa tức là người
tham gia BHXH phải có trách nhiệm đóng góp BHXH để bảo hiểm cho
mình từ tiền lương, thu nhập cá nhân; NSDLĐ cũng phải đóng góp BHXH
cho NLĐ mà mình thuê mướn từ quỹ lương của doanh nghiệp; đồng thời

Nhà nước cũng có phần trách nhiệm bảo hộ quỹ BHXH như đóng góp thêm
khi quỹ bị thâm hụt.
Như vậy, quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau:
Người lao động: Hệ thống BHXH ở các nước trên thế giới chủ yếu
vẫn thực hiện trên nguyên tắc có đóng có hưởng, vì vậy người tham gia
phải đóng góp vào quỹ thì mới được hưởng các chế độ BHXH. NLĐ tham
gia đóng góp cho mình đề bảo hiểm cho chính mình và người thân. Thông
qua hoạt động này NLĐ đã dàn trải rủi ro theo thời gian, khoản đóng góp
vào quỹ BHXH chính là khoản để dành dụm, tiết kiệm cho về sau, để được
hưởng lương hưu hoặc hưởng trợ cấp khi gặp rủi ro. Khoản trợ cấp này
được xác định một cách khoa học và đảm bảo công bằng giữa những người
tham gia.
Người sử dụng lao động: Sự đóng góp của NSDLĐ không những
thể hiện trách nhiệm của NSDLĐ đối với người lao động, đồng thời cũng
biểu hiện lợi ích mang lại cho NSDLĐ bởi sự đóng góp một phần của
NSDLĐ cho NLĐ sẽ làm người lao động yên tâm lao động sản xuất, gắn
bó với doanh nghiệp, và giúp chủ doanh nghiệp tránh được thiệt hại kinh tế
do phải chi trả một khoản tiền lớn khi NLĐ của họ không may gặp rủi ro,
tai nạn lao động. Thông thường phần đóng góp này được xác định dựa trên
tổng quỹ lương của đơn vị, doanh nghiệp.
Nhà nước đóng và hỗ trợ: Quỹ BHXH được Nhà nước bảo hộ và
đóng góp khi quỹ bị thâm hụt không đủ khả năng chi trả chế độ. Nhằm mục
đích đảm bảo cho các hoạt động xã hội diễn ra được thông suốt, ổn định.
Nguồn thu từ sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước là rất quan trọng và cần
thiết, đảm bảo được lòng tin của NLĐ và chính sách BHXH.
Tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư quỹ: Quỹ BHXH là một quỹ tiền
lớn bởi sự đóng góp đông đảo của các bên tham gia, và không phải lúc nào
cũng phát sinh chi trả, do vậy đầu tư quỹ nhàn rỗi là cần thiết, vừa làm phát
triển quỹ, vừa huy động được nguồn vốn lớn cho hoạt động kinh tế. Nhưng
phải đầu tư quỹ theo đúng quy định, phải đảm bảo được đầu tư an toàn,

hiệu quả và có khả năng thu hồi nhanh.
13


Các nguồn thu khác: như sự đóng góp của các tổ chức từ thiện trong
và ngoài nước, khoản tiền thu từ nộp phạt của các doanh nghiệp chậm đóng
trốn đóng, thu từ thanh lý tài sản của cơ quan BHXH…
1.3.3.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích:
Trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động: Đây là khoản
chi chiếm tỷ trọng lớn nhất của quỹ BHXH nhằm đảm bảo ổn định, duy trì
cuộc sống cho NLĐ đồng thời góp phần ổn định sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp và xã hội.
Chi phí quản lý bảo hiểm xã hội: chi tiền lương cho các cán bộ làm
việc trong hệ thống BHXH, mua tài sản cố định phục vụ công tác thực hiện
BHXH, văn phòng phẩm…
Ngoài ra quỹ còn dùng để:
Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ
việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng hoặc
nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi hoặc
nghỉ việc hưởng trợ cấp ốm đau đối với người lao động bị mắc bệnh thuộc
Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành.
Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với
trường hợp không do NSDLĐ giới thiệu đi khám giám định mức suy giảm
khả năng lao động mà kết quả giám định đủ điều kiện hưởng BHXH.
Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định.
1.3.4. Tổ chức quản lý BHXH.
Tổ chức quản lý là quá trình tổ chức và điều khiển các hoạt động
BHXH theo một trật tự thống nhất, hiệu quả. Như vậy, quản lý BHXH bao
gồm 2 nội dung cơ bản là quản lý Nhà nước và quản lý nghiệp vụ BHXH.

Trong đó:
1.3.4.1. Quản lý nhà nước về BHXH.
Quản lý Nhà nước về BHXH là sự tác động của các chủ thể nhân
danh quyền lực Nhà nước, theo các quy định của pháp luật nhằm thực hiện
các chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực BHXH.
Nội dung quản lý Nhà nước về BHXH bao gồm các lĩnh vực lập
pháp (ban hành văn bản pháp luật BHXH), hành pháp (Tổ chức thực hiện
pháp luật BHXH, thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm…), và tư pháp (giải
quyết tranh chấp, xét xử vi phạm trong BHXH). Ngoài ra còn bao gồm cả
các hoạt động nghiệp vụ hỗ trợ cho thẩm quyền Nhà nước như tuyên truyền
14


pháp luật, thống kê, thông tin, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế về
BHXH.
1.3.4.2. Quản lý sự nghiệp BHXH.
Quản lý nghiệp vụ BHXH thường do các cơ quan thực hiện BHXH
đảm nhiệm. Ở Việt Nam, chúng ta đã thiết lập một cơ quan thống nhất, từ
cấp Trung ương đến địa phương để quản lý nghiệp vụ BHXH. Điều đó
không những hỗ trợ cho thị trường lao động thống nhất mà còn có khả năng
mở rộng phạm vi bao phủ và thực hiện đồng bộ chính sách BHXH nói
riêng và an ninh xã hội nói chung. Theo đó, BHXH là cơ quan dịch vụ
công, thuộc Chính phủ, thực hiện pháp luật BHXH và quản lý, sử dụng quỹ
BHXH theo quy định. Trong đó, Hội đồng quản lý BHXH thường có cơ
cấu 3 bên: Nhà nước, Đại diện tổ chức NLĐ và Đại diện tổ chức NSDLĐ,
thay mặt các bên đóng quỹ, chỉ đạo, giám sát BHXH theo pháp luật. Ở
nước ta Hội đồng quản lý BHXH gồm các thành viên là đại diện của Bộ
Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội đồng liên
minh các hợp tác xã Việt Nam, Phòng thương mại và công nghiệp Việt

Nam và Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Cơ cấu tổ chức của bộ máy
BHXH gồm cấp Trung ương và địa phương. Hiện nay, BHXH cấp huyện
trực tiếp thực hiện việc đăng kí, thu, chi trả, thanh, quyết toán với đơn vị sử
dụng lao động về BHXH…
Như vậy, chức năng quản lí Nhà nước về BHXH và quản lí nghiệp
vụ BHXH ở nước ta đã được phân biệt và thực hiện tương đối hợp lý.
1.4. Nội dung thực hiện BHXH tại doanh nghiệp.
1.4.1. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế, các
doanh nghiệp Việt Nam, trong đó, lượng lớn là doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đã có những đóng góp lớn vào thành tựu phát triển kinh tế đất nước.
Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh giữ vai trò quan trọng trong nền
kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những
năm gần đây, hoạt động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến,
góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội
lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng
trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia
giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm
nghèo...
15


Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các
cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế,
cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là DN ngành công nghiệp tăng
nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và
tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội
nhập.

Có thể nói vai trò của DN không chỉ quyết định sự phát triển bền
vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá
các vấn đề xã hội.
1.4.2. Trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện BHXH.
Một là, người sử dụng lao động phải đăng ký đầy đủ số lao động
thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội.
Theo Khoản 1, Điều 2, Luật số 71/2006/QH11, có hiệu lực từ
01/01/2007, quy định đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc:
“1. Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân
Việt Nam, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời
hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;
b) Cán bộ, công chức, viên chức;
d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an
d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ
sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân
dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân
dân, công an nhân dân;
đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ côn
an nhân dân phục vụ có thời hạn;

16


e) Người đi làm việc ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo hiểm xã
hội bắt buộc.
2. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao
gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức

nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh
nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá
nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.”
Để mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, Luật số
58/2014/QH13, có hiệu lực ngày 01/01/2016 qui định thêm nhóm đối
tượng là người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc như sau:
- Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động thời hạn từ đủ 1
tháng đến dưới 3 tháng, áp dụng từ ngày 1/1/2018;
- Người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam
có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề
do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp, có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2018;
- Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, phường, thị trấn.
Như vậy, theo Luật số 58/2014/QH13, đối tượng tham gia BHXH bắt
buộc đã được mở rộng bao phủ gần như toàn bộ người lao động có quan hệ
lao động. Đảm bảo sự công bằng được tham gia và hưởng chính sách
BHXH của mọi người lao động.
Hai là, người sử dụng lao động phải đóng BHXH đúng, đầy đủ.
- Mức đóng: Tùy vào điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
mà theo quy định, hàng tháng, hàng quý, NSDLĐ trích từ quỹ tiền lương,
tiền công để đóng BHXH cho người lao động tham gia tại DN theo mức
đóng quy định, và có sự thay đổi từng thời kì.
Bảng 1.1. Mức đóng BHXH bắt buộc qua từng thời kì.
Đơn vị: %
NSDLĐ
Giai
đoạn

Tổng


Ốm đau,
Thai sản

TNLĐ,
BNN

Hưu trí,
tử tuất

NLĐ

Tổng

17


1/2010 –
12/2011

16

3

1

12

6

22


1/2012 –
12/2013

17

3

1

13

7

24

1/2014
trở đi

18

3

1

14

8

26


(Nguồn: Quyết định 1111/QĐ-BHXH)
Người sử dụng lao động có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng BHXH cho
người lao động tham gia BHXH tại doanh nghiệp đúng theo mức đóng đã
quy định, để đảm bảo quyền lợi cho NLĐ.
- Tiền lương, tiền công tháng làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc:
+ Tiền lương do Nhà nước quy định:
Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc là tiền lương theo
ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm
niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương này tính trên
cơ sở mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
Tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc quy định tại Khoản này bao
gồm cả hệ số chênh lệch bảo lưu theo quy định của pháp luật về tiền lương,
tiền công.
+ Tiền lương, tiền công do đơn vị quyết định.


Theo Luật số 71/2006/QH11, quy định:
Người lao động thực hiện chế độ tiền lương do đơn vị quyết định thì
tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc là mức tiền lương, tiền
công ghi trên hợp đồng lao động.
Người lao động là người quản lý doanh nghiệp thì tiền lương, tiền
công tháng đóng BHXH bắt buộc là mức tiền lương do Điều lệ của công ty
quy định.
Mức tiền lương, tiền công đóng BHXH bắt buộc quy định tại Khoản
này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung hoặc mức lương tối thiểu
vùng tại thời điểm đóng:

18



Người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp dạy
nghề) thì tiền lương, tiền công đóng BHXH bắt buộc phải cao hơn ít nhất
7% so với mức lương tối thiểu vùng, nếu làm công việc nặng nhọc độc hại
thì cộng thêm 5%.
• Luật số 58/2014/QH13, có thay đổi:
Người lao động thực hiện chế độ tiền lương do đơn vị quyết định
thì tiền lương tháng đóng BHXH là tiền lương ghi trong HĐLĐ.
Từ 01/01/2016, tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương và phụ
cấp lương theo quy định của pháp luật lao động.
Từ ngày 01/01/2018 trở đi, tiền lương tháng đóng BHXH là mức
lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp
luật lao động.
Như vậy, tiền lương tiền công do đơn vị sử dụng lao động quyết định
có thay đổi từ năm 2016, điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế
diễn ra, khi thu nhập thực tế và tiền lương tháng làm căn cứ đóng có sự
chênh lệch khá lớn, làm quyền lợi của NLĐ khi tham gia BHXH không
được đảm bảo. Thay đổi, bổ sung của Luật BHXH làm cho việc thực hiện
BHXH ngày được hoàn thiện và đảm bảo quyền lợi cho NLĐ hơn.
Ba là, người sử dụng lao động trả trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người
lao động, bao gồm 2 chế độ ốm đau và thai sản.
- Chế độ ốm đau.
Theo Luật số 71/2006/QH11, quy định chế độ ốm đau:
Khái niệm:
Chế độ ốm đau là chế độ BHXH nhằm đảm bảo thu nhập cho người
lao động (tham gia BHXH) tạm thời bị giảm hoặc bị gián đoạn do phải
nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn không liên quan đến nghề nghiệp hoặc chăm
sóc con ốm.
Đối tượng áp dụng chế độ ốm đau:

Cán bộ, công chức, viên chức;
Người lao động làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn,
HĐLĐ có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao
động kể cả cán bộ quản lý, NLĐ làm việc trong hợp tác xã, Liên hiệp hợp
tác xã hưởng tiền lương theo HĐLĐ từ đủ 3 tháng trở lên;
Người lao động là công nhân quốc phòng, công nhân công an làm
việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang;
19


Người lao động đã tham gia BHXH mà chưa nhận BHXH 1 lần trước
khi đi làm việc tại nước ngoài theo HĐLĐ đối với doanh nghiệp Việt Nam
trúng thầu, nhận thầu công trình ở nước ngoài;
Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đôi nhân dân,
công an nhân dân.
Điều kiện hưởng:
Người lao động tham gia BHXH được nghỉ hưởng chế độ ốm đau
khi:
- Bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở y tế
(trừ trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do
say rượu hoặc sử dụng ma túy, chất gây nghiện khác).y
- Có con dưới bảy tuổi bị ốm, phải nghỉ việc để chăm sóc con và có
xác nhận của cơ sở y tế.
Thời gian nghỉ hưởng:
Ốm thông thường: Tính theo ngày làm việc của NLĐ. Việc quy định
thời gian hưởng phụ thuộc vào điều kiện lao động, thời gian tham gia
BHXH, tình trạng bệnh tật của NLĐ và mục đích bảo hiểm của Nhà nước.
Điều kiện làm việc

Điều kiện thường
Số năm đóng

(ngày/năm)

BHXH

Điều kiện nặng nhọc
độc hại, có phụ cấp
khu vực 0,7
(ngày/năm)

Dưới 15 năm

30

40

Từ đủ 15 năm đến dưới 30
năm

40

50

Từ đủ 30 năm trở lên

60

70


Ốm dài ngày: NLĐ mắc bệnh theo danh mục bệnh cần điều trị dài
ngày do Bộ y tế thì thời gian được hưởng trợ cấp ốm đau tối đa không quá
180 ngày trong 1 năm, không phụ thuộc vào thời gian đóng BHXH nhiều
hay ít. Nếu hết thời gian 180 ngày mà vẫn cần phải tiếp tục điều trị thì thời
gian này vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp ốm đau với mức hưởng thấp hơn.
NLĐ nghỉ chăm sóc con ốm: Thời gian hưởng chế độ khi ốm đau
trong một năm được tính theo số ngày được chăm sóc con tối đa là 20 ngày
20


làm việc nếu con dưới ba tuổi; tối đa là 15 ngày làm việc nếu con từ đủ ba
tuổi đến dưới bảy tuổi.
Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia BHXH, nếu một người đã hết
thời hạn hưởng chế độ mà con vẫn còn ốm đau thì người kia được hưởng
chế độ theo quy định nêu trên. Trường hợp trong cùng một thời gian người
lao động có từ hai con trở lên dưới 7 tuổi bị ốm đau, thì thời gian hưởng
chế độ khi con ốm đau được tính bằng thời gian thực tế NLĐ nghỉ việc
chăm sóc con ốm đau; thời gian nghỉ tối đa người lao động nghỉ việc trong
một năm cho mỗi con được thực hiện như đã nêu ở trên.
Mức hưởng và công thức tính:
Mức hưởng:
NLĐ hưởng chế độ ốm đau thông thường; nghỉ việc chăm sóc con
ốm; hoặc nghỉ việc do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần điều trị dài ngày
do Bộ y tế ban hành nghỉ tối đa không quá 180 ngày trong một năm thì
mức hưởng bằng 75% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng
liền kề trước khi nghỉ việc.
NLĐ mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần điều trị dài ngày do Bộ y tế
ban hành hết thời hạn 180 ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì vẫn được hưởng
ở mức thấp hơn, được quy định như sau:

Số năm đóng BHXH

Mức hưởng (%)

Dưới 15 năm

45

Từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm

55

Từ đủ 30 năm trở lên

65

Cách tính toán mức hưởng chế độ ốm đau như sau:
Trường hợp ốm đau thông thường, chăm sóc con ốm:

Trường hợp ốm đau cần chữa trị dài ngày:

Thời gian đóng (t)/mức
hưởng
t < 15 năm

180 ngày đầu

Ngày 181 trở đi

75%


45%
21


15 năm ≤ t < 30 năm

75%

55%

t ≥ 30 năm

75%

65%

+ Trợ cấp theo tháng = tỷ lệ (%) x Tiền lương đóng BHXH tháng trước
khi nghỉ x N.
Trong đó:
N: số tháng nghỉ việc ốm đau ( tính theo tháng dương lịch và tròn
tháng).
+ Nếu trường hợp có lẻ ngày (n) thì tính thêm mức hưởng chế độ ốm
đau cho những ngày lẻ như sau:
Người lao động mắc bệnh cần điều trị dài ngày, sau 180 ngày vẫn tiếp
tuc điều trị mà khi tính trợ cấp có mức hưởng chế độ ốm đau trong tháng
nhỏ hơn lương tối thiểu chung thì tính bằng lương tối thiểu chung.
Quyền lợi khác, DSPHSK sau ốm đau:
Người lao động sau thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau theo quy
định tại Điều 26 của Luật BHXH 2006, mà sức khỏe còn yếu thì được nghỉ

dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, cụ thể:
Thời gian nghỉ:
+ 10 ngày: với trường hợp sau khi điều trị bệnh dài ngày.
+ 7 ngày: sau nghỉ ốm mà có phẫu thuật.
+ 5 ngày: các trường hợp khác.
Mức hưởng một ngày:
+ Bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ DSPHSK tại gia
đình.
+ Bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ DSPHSK tại cơ sở
tập trung.
Theo Luật số 58/2014/QH13, có hiệu lực từ 01/01/2016, chế độ ốm
đau có một số thay đổi:
Đối tượng áp dụng, thêm nhóm:
Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng
đến dưới 03 tháng – có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.
Mức hưởng và công thức tính:
NLĐ mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần điều trị dài ngày do Bộ y tế
ban hành hết thời hạn 180 ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì vẫn được hưởng
22


ở mức thấp hơn, được quy định như sau:
Số năm đóng BHXH

Mức hưởng (%)

Dưới 15 năm

50


Từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm

55

Từ đủ 30 năm trở lên

65

Cách tính trợ cấp:

Quyền lợi khác, DSPHSK sau ốm đau:
Mức hưởng một ngày:
+ Bằng 30% mức lương cơ sở.
Như vậy, theo Luật số 58/2014/QH13, chế độ ốm đau có bổ sung thay
đổi một số điều nhằm phù hợp và đảm bảo lợi ích của người tham gia hơn.
Đối tượng áp dụng được mở rộng thêm 1 nhóm; cách tính trợ cấp ốm đau
một ngày bằng mức trợ cấp ốm đau một tháng chia cho 24 ngày (làm việc),
trước là chia cho 26. Việc tính bình quân 24 ngày làm việc trong một tháng
vừa phù hợp hơn, cả với người lao động làm việc 5 ngày/tuần, cả với người
làm việc 6 ngày/tuần, vừa đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Mức
hưởng trong trường hợp nghỉ ốm điều trị bệnh dài ngày với thời gian đóng
BHXH dưới 15 năm và DSPHSK được tăng lên, quyền lợi bảo hiểm của
NLĐ được cải thiện.
- Chế độ thai sản.
Theo Luật số 71/2006/QH11, các quy định về chế độ thai sản:
Khái niệm:
Chế độ thai sản là chế độ trợ cấp bằng tiền nhằm thay thế hoặc bù đắp
những khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất trong các trường hợp NLĐ nghỉ
việc để đi khám thai, sinh con, nuôi con, thực hiện các biện pháp kế hoạch
hóa gia đình, sảy thai, điều hòa kinh nguyệt, nạo hút thai, thai chết lưu.

Đối tượng áp dụng:
Cán bộ, công chức, viên chức;
NLĐ làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ có thời
hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động kể cả cán
bộ quản lý, NLĐ làm việc trong hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã hưởng
23


tiền lương theo HĐLĐ từ đủ 3 tháng trở lên.
NLĐ là công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các
doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang;
NLĐ đã tham gia BHXH mà chưa nhận BHXH 1 lần trước khi đi làm
việc tại nước ngoài theo HĐLĐ đối với doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu,
nhận thầu công trình ở nước ngoài.
Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đôi nhân dân,
công an nhân dân.
Điều kiện hưởng chế độ thai sản: NLĐ phải đóng BHXH từ đủ 6
tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận con
nuôi.
Lao động nữ mang thai.
Lao động nữ sinh con.
Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi.
Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp
triệt sản.
Thời gian nghỉ hưởng:
Thời gian nghỉ khám thai: trong thời gian có thai, lao động nữ được
nghỉ việc khi đi khám thai 5 lần, mỗi lần 1 ngày; trong trường hợp người
lao động có thai làm việc ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý,

thai không bình thường thì được nghỉ hưởng trợ cấp 2 ngày cho mỗi lần
khám thai.
Thời gian nghỉ khi bị sảy, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai
bệnh lý: Luật BHXH quy định trong trường hợp này người lao động nữ
được nghỉ việc hưởng trợ cấp 10 ngày nếu thai dưới 1 tháng; 20 ngày nếu
thai từ 1 tháng đến dưới 3 tháng; 40 ngày nếu thai từ 3 tháng đến dưới 6
tháng; 50 ngày nếu thai từ 6 tháng trở lên.
Thực hiện các biện pháp tránh thai: Trong trường hợp NLĐ xin nghỉ
để thực hiện các biện pháp tránh thai, thời gian nghỉ tối đa: NLĐ nữ đặt
vòng được nghỉ 7 ngày; triệt sản (cả nam/nữ) được nghỉ 15 ngày.
24


Khi sinh con: NLĐ khi sinh con được nghỉ hưởng chế độ thai sản 6
tháng. Trường hợp sinh đôi trở lên, từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con người
mẹ được nghỉ thêm 30 ngày.
Nhận nuôi con nuôi: NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi thì
được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi.
Mức hưởng và công thức tính:
Mức hưởng: Người lao động hưởng chế độ thai sản theo quy định của
Luật số 71/2006/QH11, thì mức hưởng bằng 100% mức bình quân tiền
lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi
nghỉ việc.
Công thức tính trợ cấp:
Khám thai, sảy thai, nạo hút thai, thai chết lưu, thực hiện các biện
pháp tránh thai:
Sinh con, nhận nuôi con nuôi:
Trợ cấp thay lương = Bình quân tiền lương, tiền công đóng BHXH
của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ x Số tháng nghỉ x 100%.
Trợ cấp 1 lần = 2 tháng lương tối thiểu chung/ 1 người con.

Quyền lợi khác, DSPHSK sau thai sản:
Người lao động sau thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản theo quy
định tại Luật BHXH 2006, mà sức khỏe còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức,
phục hồi sức khỏe, cụ thể:
Thời gian nghỉ:
+ 10 ngày: lao động nữ sinh từ 2 con trở lên.
+ 7 ngày: sinh 1 con phải phẫu thuật.
+ 5 ngày: các trường hợp khác.
Mức hưởng một ngày:
+ Bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ DSPHSK tại gia
đình.
+ Bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ DSPHSK tại cơ sở
tập trung.
Một số điểm mới, bổ sung của chế độ thai sản theo Luật số
58/2014/QH13:
Đối tượng áp dụng:
25


×