Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

1 cấu trúc quyền lực nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.96 KB, 36 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ

CẤU TRÚC QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Học viên thực hiện:
Khóa/Lớp:

HÀ NỘI, THÁNG 10 NĂM 2017


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Quyền lực nhà nước, về mặt hình thức là quyền lực công, nhưng bản
chất bao giờ quyền lực công đó cùng bị chi phối bởi một giai cấp hoặc lực
lượng xã hội nhất định. Do đó, quyền lực nhà nước là hình thức biểu hiện cơ
bản và tập trung của quyền lực công và quyền lực chính trị. Trong xã hội hay
một cộng đồng quốc gia – dân tộc, quyền lực chính trị và quyền lực xã hội
không ở đâu thể hiện một cách cơ bản và tập trung khác ngoài quyền lực nhà
nước. Trên ý nghĩa đó, Ph. Ăngghenviết: “ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ
sở của sự thống trị và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào còn
thực hiện chức năng xã hội đó”.
Quyền lực Nhà nước ra đời đã dẫn tới những biến chuyển trong tổ chức
xã hội loài người: luật tục trở thành luật pháp, dân cư trở thành công dân, lãnh
thổ tộc người (bộ lạc, liên minh bộ lạc) trở thành quốc gia. Trong ba nhân tố
hợp thành nhà nước là quyền lực chính trị, dân cư và lãnh thổ thì quyền lực
chính trị đóng vai trò quyết định. Nhà nước bắt đầu từ đâu thì gắn với nó là
nhu cầu tổ chức quyền lực nhà nước, bao gồm cả tổ chức quyền lực nhà nước
theo “chiều ngang” và tổ chức quyền lực nhà nước theo “chiều dọc”, nhằm
đáp ứng yêu cầu cả đối nội lẫn đối ngoại.
Để tìm hiểu về cấu trúc quyền lực nhà nước, tác giả lựa chọn đề tài:


“Cấu trúc quyền lực nhà nước ở Việt Nam” làm tiểu luận kết thúc môn học.

2


NỘI DUNG
1.Khái quát về quyền lực nhà nước
Trong xã hội hiện đại, chính trị nói chung, quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước nói riêng, về bản chất và khía cạnh chính trị của vấn đề vẫn
mang tính giai cấp, do lợi ích của giai cấp, tầng lớp cầm quyền chi phối,
nhưng những biểu hiện và ở khía cạnh kỹ thuật của vấn đề thì đã có những xu
hướng thay đổi mạnh mẽ do những phát triển mới của thế giới (như cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, v.v.)
mang lại:
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang làm thay đổi căn
bản tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, trực tiếp đưa đến những biến
đổi về kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, lối sống và cả chính trị, nhà nước,
v.v.. Nếu ở thế kỷ XVIII việc chế tạo ra máy móc chủ yếu là mô phỏng sự vận
động của chân tay con người, thì từ giữa thế kỷ XX đến nay việc chế tạo ra
máy móc đã mô phỏng được bộ não người. Từ đó nảy sinh vô vàn những sáng
tạo chưa từng có, đưa loài người tiến lên một thời đại mới với hệ thống công
nghệ cao và lực lượng sản xuất mới. Sự phát triển của khoa học - công nghệ
hiện đại diễn ra với tốc độ rất nhanh và quy mô rất lớn, nhất là trong các lĩnh
vực thông tin, sinh học, năng lượng mới, vật liệu mới và tự động hóa, v.v..
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại như vậy đang có những ảnh
hưởng ngày càng trực tiếp đến chính trị, chính sách từ những vấn đề gốc rễ là
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và nó làm gia tăng sức mạnh, phạm vi
và khả năng kiểm soát của quyền lực phi truyền thống; làm thay đổi chức năng
(chức năng giao tiếp và huy động chính trị, v.v.) và cấu trúc (tạo ra sự phân tán
quyền lực, v.v.) của các thể chế quyền lực; làm thay đổi các chức năng của

3


Nhà nước (chức năng điều tiết và cung ứng dịch vụ công, v.v.); làm thay đổi
phương thức và hình thức vận hành quyền lực (từ cưỡng ép là chủ yếu sang
thuyết phục là chủ yếu và xuất hiện hình thức “chính phủ điện tử”). Hơn nữa,
sự phát triển khoa học - công nghệ hiện đại đã tạo ra những phát triển mới về
phương pháp luận nghiên cứu và triển khai của khoa học xã hội, tạo ra những
cuộc cách mạng về thể chế, về chức năng của các thể chế chính trị, nhất là thể
chế nhà nước.
Toàn cầu hóa với nghĩa chỉ những thay đổi được tạo ra bởi các liên kết
và trao đổi (trên nhiều lĩnh vực) giữa các cá nhân, tổ chức và quốc gia trên quy
mô toàn cầu - là quá trình tăng lên mạnh mẽ những sự tác động và phụ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các cộng đồng và cá nhân trong quá
trình tồn tại và phát triển. Toàn cầu hóa như vậy đang ảnh hưởng đến quyền
lực chính trị, quyền lực nhà nước thông qua các thể chế chính trị, nhà nước,
thể hiện ở chỗ: làm thay đổi cách tiếp cận và quan niệm về độc lập và chủ
quyền của nhà nước quốc gia; làm thay đổi mô hình tổ chức và hoạt động,
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, cơ cấu và chủ thể của quyền lực nhà
nước, đa dạng hoá các chủ thể thực thi quyền lực nhà nước; làm xuất hiện các
chủ thể quyền lực mới là giới kinh doanh và xã hội dân sự, sự cạnh tranh giữa
các chủ thể quyền lực cũ và mới ngày càng rõ rệt; làm thay đổi việc phân bố
quyền lực quốc tế, đa dạng hoá chủ thể thực thi các cơ cấu quyền lực quốc tế;
tạo cơ hội cho các tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội và tập đoàn xuyên quốc gia
tham gia thực thi quyền lực.
Kinh tế tri thức, với nghĩa loại hình kinh tế, là loại hình kinh tế dựa
trên sự phát triển cao của lực lượng sản xuất hiện đại, khi tri thức trở thành
nguồn lực chủ yếu và quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Kinh tế tri thức,
4



với nghĩa ngành kinh tế, là ngành sản xuất và dịch vụ mà giá trị chủ yếu được
tạo ra bởi tri thức. Kinh tế tri thức, với nghĩa nền kinh tế, là nền kinh tế mà ở
đó phần lớn các ngành sản xuất và dịch vụ trở thành ngành kinh tế tri thức, tri
thức trở thành yếu tố quyết định đối với tăng trưởng kinh tế và làm gia tăng
giá trị sản phẩm. Kinh tế tri thức như vậy đang ảnh hưởng đến quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước, thể hiện ở chỗ: làm thay đổi quan niệm và khái
niệm quyền lực, làm phong phú thêm những mục tiêu, nguồn lực, phương
thức giành, giữ và thực thi quyền lực theo hướng đề cao tri thức và lao động
tri thức; làm xuất hiện những quyền lực mới như quyền lực mềm (cơ sở và
nguồn lực chủ yếu của quyền lực chủ yếu là tri thức), quyền lực thông minh
và quyền lực công chúng, v.v.; đòi hỏi nâng cao năng lực và phương thức quản
lý của nhà nước theo hướng tạo dựng ảnh hưởng và thu hút người dân vào các
quá trình chính trị, tôn trọng các quyền con người và quyền công dân, chia sẻ
giữa nhà nước và công dân, nâng cao tính linh hoạt của cơ chế phản hồi trong
sử dụng quyền lực, v.v.; làm thay đổi chế độ sở hữu sức lao động (tư liệu sản
xuất chủ yếu) theo hướng có lợi cho người lao động và việc thực hiện quyền
làm chủ của họ, nâng cao vị thế của lao động trí tuệ; làm thay đổi chức năng
và nhiệm vụ, tổ chức và phương thức quản lý của nhà nước và các tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội có liên quan.
Quyền lực mềm, cơ sở của quyền lực nói chung và quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước nói riêng trên tiền đề của sức mạnh kinh tế và quân sự, có
xu hướng chuyển dần sang sức mạnh của tri thức, thể hiện ở chất lượng và
hiệu quả của đường lối của đảng (đảng cầm quyền), chính sách, pháp luật của
nhà nước, sự tham gia chính trị của các tổ chức chính trị - xã hội và người dân.
Quyền lực dựa trên kinh tế và quân sự (quyền lực cứng) không còn là yếu tố

5



duy nhất quyết định năng lực quốc gia. Quyền lực mềm (sức mạnh, năng lực,
hình ảnh tổng hợp quốc gia) ngày càng trở thành cơ sở quan trọng cho quyền
lực do hiệu ứng, hiệu quả của nó mang lại1.
Quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước hiện đại không chỉ cần đến
sức mạnh kinh tế, quân sự mà còn cần đến sức mạnh của sự thu hút, hấp dẫn
bởi các giá trị văn hóa, tư tưởng, năng lực lãnh đạo, quản lý, tham gia chính
trị, chất lượng của thể chế, sự ổn định và an toàn của môi trường (môi trường
sống, môi trường xã hội, môi trường chính trị - xã hội, môi trường pháp lý,
môi trường kinh doanh, v.v.). Trong hoạt động chính trị và nhà nước, người ta
ngày càng cần đến và sử dụng tính chính đáng, tính giá trị của quyền lực, sự
ủng hộ của người dân đối với các thể chế quyền lực và thực thi quyền lực2.
Quyền lực mềm thể hiện trong các mối quan hệ giữa người lãnh đạo,
quản lý với nhân viên, giữa người cầm quyền với người dân, v.v.. Quyền lực
của một nhà lãnh đạo, quản lý sẽ lớn hơn nếu người đó có thể làm cho những
người khác chia sẻ và đóng góp vào hệ giá trị (quan niệm, định hướng, tầm
nhìn, đạo đức, tính cách, v.v.). Trong xã hội hiện đại, cưỡng bức không còn là
sự lựa chọn ưu tiên. Với ưu thế tạo ra sự đồng thuận, việc huy động vốn xã hội
với chi phí ít nhất và đặc biệt là huy động được sự tham gia tự nguyện lớn
nhất của xã hội, các mục tiêu thúc đẩy quyền làm chủ của người dân đạt được
nhanh hơn thông qua sự kết hợp quyền lực cứng với quyền lực mềm thành
quyền lực thông minh.
Quyền lực thông minh là khả năng xác định bối cảnh, lợi dụng các xu
hướng và sự dụng hợp lý quyền lực cứng và quyền lực mềm để đạt được hiệu
quả cao nhất trong lãnh đạo, quản lý và tham gia chính trị - nơi sự tham gia có
tính tự giác được đặt lên hàng đầu. Việc sử dụng quyền lực thông minh đòi hỏi
6


cùng lúc phải có một quyền lực cứng đủ mạnh để cưỡng chế hoặc thể hiện
năng lực cưỡng chế khi cần thiết và sự nhạy cảm chính trị, sự sáng tạo và linh

hoạt của người cầm quyền. Quyền lực thông minh càng phù hợp với điều kiện
quyền lực thuộc về nhân dân. Điều này không có nghĩa là quyền lực lãnh đạo,
quản lý mất đi vị trí và vai trò của nó, nhưng nó phải được tồn tại dưới một
hình thức hợp lý và phù hợp hơn. Với quyền lực thông minh, người lãnh đạo,
quản lý phải chú trọng nhiều hơn đến việc tạo ra ảnh hưởng và sức thu hút
người dân vào các mục tiêu chính trị của mình. Bởi việc sử dụng quyền lực
thông minh thể hiện được sự tôn trọng quyền con người, quyền cá nhân, dễ
được chấp nhận và tạo được hiệu ứng tâm lý tích cực hơn. Sự tôn trọng lẫn
nhau giữa nhà nước và người dân mang tính hai chiều, khi nhà nước tôn trọng
và bảo vệ các quyền cho người dân thì người dân cũng tôn trọng, bảo vệ và hỗ
trợ nhà nước, xem việc ủng hộ nhà nước là trách nhiệm của mình nhằm thực
hiện các mục tiêu chung.
Quyền lực thông minh trong lãnh đạo, quản lý đòi hỏi chính quyền có
đủ bản lĩnh để lắng nghe, chia sẻ, ủng hộ và hỗ trợ trong các vấn đề chính
đáng của người dân. Quyền lực thông minh chỉ có được trên cơ sở một chính
quyền minh bạch và hiệu quả, hệ thống chính sách, pháp luật đầy đủ, có hiệu
lực cao và một nền kinh tế phát triển bền vững. Nhà nước thể hiện đủ năng lực
và nguồn lực để duy trì các giá trị cơ bản, duy trì trật tự xã hội và mở ra những
tầm nhìn cho sự phát triển chung. Việc sử dụng quyền lực thông minh đem lại
hiệu quả cao, huy động được sự đồng thuận và vốn xã hội. Trong cơ quan nhà
nước, người lãnh đạo, quản lý dù được bầu ra dưới hình thức nào cũng phải
làm việc nhân danh người dân và chịu trách nhiệm trước người dân. Những

7


chính sách, quyết định đưa ra có sự đóng góp của người dân luôn có cơ hội
vượt qua những khó khăn và đạt đến thành công.
Quyền lực thông minh tạo ra cơ chế phản hồi linh hoạt hơn trong lãnh
đạo, quản lý và tham gia chính trị. Người dân có điều kiện đưa ra các phản

biện và yêu cầu, giúp cho các chính sách sát với thực tế và đa dạng hơn. Cơ
chế phản hồi này giúp cho chính quyền củng cố được cả quyền lực cứng và
quyền lực mềm của mình theo hướng phù hợp hơn với yêu cầu thực tế và
nguyện vọng của người dân. Việc xây dựng và củng cố quyền lực thông minh
của cả chính quyền và người dân sẽ hoàn thiện dần các kỹ năng làm chủ, từ đó
giúp cho việc phân tích các tình huống chính trị chính xác hơn và chất lượng
của việc làm chủ được nâng cao. Với cơ chế phản hồi hiệu quả và thiết thực,
sử dụng quyền lực thông minh là một phương thức để cân bằng giữa tính hiệu
quả của nhà nước với sự tham gia của người dân, tiết kiệm chi phí triển khai
chính sách. Một quốc gia muốn có được quyền lực thông minh, bên cạnh sự
hấp dẫn về chính sách và pháp luật, nền hành chính tinh gọn, hiệu quả và sự
minh bạch trong hoạt động của chính quyền, cần có đội ngũ cán bộ lãnh đạo
có trình độ, có trách nhiệm và đạo đức, biết và dám chịu trách nhiệm trước
người dân. Việc sử dụng quyền lực thông minh dựa rất nhiều vào năng lực và
uy tín, sức hấp dẫn của những người lãnh đạo, quản lý.
Quyền lực công chúng - quyền lực của số đông, không chính thống
nhưng có ảnh hưởng to lớn trong xã hội, được hình thành và phát triển với sự
hỗ trợ của máy móc và công nghệ truyền thông trực tuyến; thể hiện thông qua
các trang web và mạng xã hội, là dịch vụ nối kết các thành viên trên internet
với nhiều mục đích, không phân biệt không gian và thời gian3 - cũng làm cho
phạm vi và mức độ tác động của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước có
8


sự thay đổi. Cùng với lượng thông tin được cập nhật liên tục, sự trải nghiệm
trực tiếp và hiệu ứng lan truyền nhằm đúng đối tượng, số lượng các thành viên
ngày càng tăng. Công nghệ truyền thông có thể tạo ra và xử lý một lượng
thông tin nhiều hơn rất nhiều so với khả năng của con người. Các thông tin
được lưu trữ, liên kết trong một mạng lưới không giới hạn. Thông tin có thể
được trao đổi tức thời với chi phí cực thấp. Mạng xã hội tạo dựng quyền lực

của mình thông qua việc tạo cơ hội cho người dùng tìm kiếm thông tin, thu hút
nhiều người tham gia, sử dụng nó như một tiện ích ưa chuộng nhất.
Các mạng xã hội có thể khơi dậy tranh luận, tạo nên các làn sóng
thông tin, dư luận xã hội đối với nhiều vấn đề chính trị, chính sách công. Sức
mạnh này đang dần dần biến thành một loại quyền lực thực sự. Hiệu ứng xã
hội mà quyền lực này đem lại có thể làm thay đổi nhận thức của cá nhân,
nhóm xã hội về các vấn đề chính trị. Sự tham gia của công chúng về các vấn
đề chính trị qua mạng xã hội đang ngày càng tạo sức ép đối với việc thực thi
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nói chung, đối với đảng (đảng cầm
quyền) và nhà nước nói riêng.
Các trang mạng xã hội với lực lượng thành viên đông đảo, ý kiến
phong phú, trải nghiệm đa dạng và nguồn thông tin không hạn chế, nếu được
quản lý tốt sẽ trở thành công cụ làm chủ của người dân. Nhiều vấn đề chính
trị, chính sách công nếu được quản lý và khai thác theo chiều hướng tiêu cực
sẽ làm nảy sinh nhiều cơ hội lớn cho người dân trong việc tạo ra và tiếp nhận
thông tin, thúc đẩy dân chủ và tiến bộ xã hội, mặc dù quyền lực công chúng
đòi hỏi các chủ thể của nó phải có đạo đức, hiểu biết và trách nhiệm xã hội rất
lớn.

9


Những yếu tố trên đang ngày càng làm thay đổi phương thức thực thi
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước hay làm thay đổi phương thức lãnh
đạo, quản lý và tham gia chính trị của cán bộ, công chức và người dân. Đó là
việc hình thành các chủ thể, thể chế và cơ chế quản lý mới như4:
- Hình thành và phát triển nhanh chóng các chủ thể, thể chế và cơ chế
quản lý toàn cầu trên nhà nước (suprastate global governance) hay các thể chế
và cơ chế quản lý đa quốc gia. Hàng loạt các tổ chức khu vực và quốc tế từng
tồn tại hoặc mới hình thành ngày càng được trao thêm nhiều trách nhiệm mới,

rộng lớn hơn. Thậm chí các tổ chức quốc tế này còn được gọi là những cơ
quan, thể chế quản lý toàn cầu. Các thể chế này có khả năng đưa ra những
quan điểm và quyết định khác với các nhà nước quốc gia. Sự cần thiết, vai trò
và tầm quan trọng của các thể chế, cơ chế quản lý toàn cầu là rất lớn, trở thành
những thiết chế quyền lực với các cách thức tổ chức và thực thi quyền lực
thực sự. Mặc dù các thể chế, cơ chế quản lý toàn cầu còn có giới hạn về mức
độ và khả năng phát huy tác dụng, về tổ chức bộ máy và nhân viên, các nguồn
lực tài chính và các cơ sở luật pháp, nhưng ngày càng tác động mạnh mẽ đến
nhà nước quốc gia ở các góc độ và khía cạnh khác nhau, làm giảm thiểu quyền
lực nhà nước quốc gia và đặt nhà nước quốc gia trước những cạnh tranh và
thách thức mới.
- Hình thành và phát triển các chủ thể, thể chế, cơ chế quản lý, điều tiết
toàn cầu dưới nhà nước (substate global governance). Đó là các mối liên kết
trực tiếp xuyên biên giới giữa các chủ thể quyền lực dưới nhà nước, đưa ra
những sáng kiến chính sách không qua chính phủ trung ương. Các địa phương
thuộc các quốc gia, khu vực khác nhau thực hiện hoạt động kết nối, hợp tác
xuyên biên giới một cách trực tiếp và độc lập. Các thể chế và cơ chế quản lý,
10


điều tiết dưới nhà nước này ngày càng tác động mạnh mẽ đến nhà nước quốc
gia ở các góc độ và khía cạnh khác nhau, làm giảm thiểu quyền lực nhà nước
quốc gia và đặt nhà nước quốc gia trước những cạnh tranh và thách thức
mới.
- Hình thành và phát triển các chủ thể, thể chế, cơ chế quản lý, điều tiết
toàn cầu trên cơ sở thị trường. Các thể chế thị trường ngày càng có vai trò
quan trọng trong quản trị toàn cầu, các thể chế này càng quan trọng và cần
thiết khi các cơ quan quản lý trong khu vực công tồn tại khiếm khuyết hay bất
cập. Các sáng kiến chính sách được hình thành từ khu vực tư nhân cũng có
ảnh hưởng ngày càng lớn. Các diễn đàn sáng kiến chính sách được hình thành,

ngày càng đóng góp tích cực vào việc giải quyết các mâu thuẫn, xung đột lợi
ích giữa các nhà nước, chính phủ. Công việc quản lý, điều tiết xã hội không
còn là việc riêng của khu vực nhà nước, khu vực công nữa. Các thể chế và cơ
chế quản lý trên cơ sở thị trường ngày càng tác động mạnh mẽ đến nhà nước
quốc gia, làm giảm thiểu quyền lực nhà nước quốc gia và đặt nhà nước quốc
gia trước những cạnh tranh và thách thức mới.
- Mở rộng sự tham gia chính trị của các tổ chức xã hội. Theo đó, các tổ
chức xã hội do người dân tự tổ chức nhằm phát huy năng lực sáng tạo, hiện
thực hóa các ý tưởng để tương tác với nhà nước nhằm đạt tới nền quản trị
quốc gia minh bạch, hiệu quả và trách nhiệm. Đó là những hội, nhóm và tổ
chức khác nhau, độc lập tương đối, đóng vai trò là các thành tố dân chủ tham
gia, “bổ khuyết” cho những “thiếu hụt” của các cơ quan dân chủ đại diện.
Nguyện vọng và lợi ích của người dân không những được thể hiện trong chính
sách, pháp luật của nhà nước, mà còn thông qua tôn chỉ, mục đích, sự phối
hợp của các tổ chức xã hội, thúc đẩy người dân tham gia quản lý xã hội. Trong
11


điều kiện trình độ dân trí cao, hoạt động quản lý của nhà nước được chuyển
dần cho các chủ thể phi nhà nước.
Sự tham gia của các tổ chức xã hội vào công tác quản lý xã hội thể
hiện ở những phương diện như: (1) Tập hợp nhu cầu, lợi ích chính đáng của
thành viên, hình thành nhu cầu chính sách; chia sẻ, hỗ trợ, trao đổi kinh
nghiệm, nâng cao khả năng thỏa mãn nhu cầu; bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng của thành viên và ảnh hưởng lớn hơn ra cộng đồng, xã hội. (2) Tham gia
đánh giá, khuyến nghị của người dân với nhà nước về phát triển và quản lý xã
hội; xây dựng, giám sát, phản biện các cơ chế, chính sách và luật pháp về
chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chương trình, mục tiêu phát triển và quản lý
xã hội. (3) Hỗ trợ hoạt động của chính phủ trong việc gia tăng số lượng và
chất lượng các dịch vụ công, giảm áp lực cho nhà nước. (4) Thúc đẩy quá

trình dân chủ hóa và là cầu nối giữa đảng (nhất là đảng cầm quyền), nhà nước
với công dân. (5) Góp phần mở rộng hợp tác quốc tế, thực hiện đối ngoại nhân
dân.
- Hình thành các thể chế, cơ chế quản trị toàn cầu như là sự tương tác
chính trị giữa các chủ thể quyền lực xuyên quốc gia nhằm giải quyết những
vấn đề ảnh hưởng đến nhiều nhà nước hoặc khu vực khi quyền lực của nhà
nước quốc gia không còn đủ điều kiện và năng lực giải quyết. Nói cách khác,
quản trị toàn cầu đề cập sự tương tác chính trị cần thiết để giải quyết vấn đề
ảnh hưởng đến nhiều hơn một nhà nước hoặc khu vực khi quyền lực nhà nước
quốc gia không còn đủ mạnh để phát huy tầm ảnh hưởng. Yêu cầu về tổ chức
hành động tập thể ngày càng được ưu tiên, nhất là sự tích hợp của quản lý đa
phương dẫn đến sự hình thành những mô hình mới cho các tổ chức đại diện và
quản lý phụ thuộc lẫn nhau, hướng tới giải quyết những vấn đề toàn cầu. Việc
12


tìm kiếm các mô hình tổ chức và cơ chế quản lý mới trên quy mô toàn cầu,
cũng như không trở lại với các nguyên tắc và mô hình nhà nước theo tinh thần
của Hòa ước Westphalia5, đáp ứng các yêu cầu về hội nhập và liên kết quốc tế
vì những lợi ích chung ngày càng trở nên cần thiết.
Đối tượng của quản trị toàn cầu lúc đầu chỉ bao gồm những vấn đề có
nguồn gốc từ địa chính trị và lý thuyết quan hệ quốc tế, quốc phòng và an
ninh, ngoại giao và thương mại; nhưng về sau do tác động của sự phát triển
mới của thế giới đã mở rộng sang các lĩnh vực khác như quản trị môi trường,
quản trị hành tinh, vượt ra khỏi mối lo ngại và năng lực giải đáp của các nhà
nước quốc gia, bỏ qua những rào cản về chính trị và xã hội, hướng tới những
hành động tập thể khẩn cấp toàn cầu.
Cấp độ và phương thức vận hành của quản trị toàn cầu hiện nay còn
bất cập cả về các cơ sở pháp lý và đạo lý, các dữ liệu thông tin và phương
pháp quản lý dân chủ, nhưng nhu cầu mở rộng kết nối và xử lý các đề xuất,

sáng kiến của các đảng chính trị, các chính phủ và các tổ chức xã hội rất lớn.
Một trong những điều kiện để xây dựng chế độ quản trị dân chủ toàn cầu là
phát triển các nền tảng cho các trao đổi về việc xây dựng pháp luật và giải
quyết hài hòa các mục tiêu của quản trị toàn cầu
2. Nhận thức chung về cấu trúc quyền lực nhà nước
Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai
cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp. Nhà nước khác với các tổ chức xã hội
khác ở chỗ, Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt, có bộ máy
cưỡng chế để đảm bảo thực thi quyền lực đó. Đây là thứ quyền lực chỉ

13


riêng Nhà nước mới có và nhờ thứ quyền lực này, cho phép Nhà nước thâu
tóm quản lý hầu hết các nguồn nhân lực, tài lực của một quốc gia.
Cùng với đó, quyền lực nhà nước luôn gắn với chủ quyền quốc gia và
trong điều kiện xã hội hiện đại, quyền lực này thuộc về nhân dân và được thể
hiện thông qua những định chế nhà nước - pháp luật. Quyền lực nhà nước
được biểu hiện cụ thể ở hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước, các quy định
pháp luật và những nguyên tắc vận hành của hệ thống đó tạo nên một cơ chế
thực hiện quyền lực nhà nước. Cơ chế đó được hình thành và phát triển cùng
với sự phát triển của văn minh nhân loại và được cụ thể hóa ở mỗi quốc gia
tùy thuộc vào những điều kiện khách quan và chủ quan ở mỗi thời kỳ phát
triển.
Quan niệm về tổng thể cấu trúc quyền lực nhà nước, ngay từ trước
Công nguyên, các nhà tư tưởng lớn như Platon và Aristote đã nhắc tới phân
quyền, nhưng chỉ dừng lại ở quan niệm về một sự phân công lao động và phân
nhiệm trong bộ máy nhà nước. Cho đến tận thế kỷ thứ XVI - thế kỷ
thứ XVIII, J.Locke và S.L Montesquieu đã phát triển các tư tưởng này thành
học thuyết "phân chia quyền lực”. Cùng với các ông, nhiều học giả tư sản

khác cũng quan tâm đến vấn đề này. Có quan niệm thì phân chia quyền lực
thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền liên bang (J. Locke); có
quan niệm thì phân chia quyền lực thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp (S.L Montesquieu, I. Cant). Nhưng dù sao cũng không ít quan
niệm cho rằng, quyền lực không thể phân chia hoặc chí ít cũng có mối quan hệ
khăng khít không thể tách rời (J.J Rousseau...). Ở Trung Quốc trước kia Trung Hoa Dân quốc, còn có quan niệm quyền lực được phân chia thành 5
quyền và họ phản ánh 5 quyền đó vào Hiến pháp năm 1947. Vậy có thể nói
14


rằng, việc phân chia quyền lực không hẳn là một nguyên tắc khoa học, hợp lý
mà là một thủ pháp chính trị nhằm hạn chế độc tài, chuyên chế, bảo vệ tự do
của con người. Tuy nhiên, việc phân công, phân nhiệm trong bộ máy nhà nước
là cần thiết để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quá trình quản lý xã hội[1].
Nghiên cứu về cấu trúc quyền lực nhà nước, theo chúng tôi, vấn đề cơ
bản cần xem xét đó là kết cấu của các nhánh quyền lực và nguyên tắc vận
hành của các nhánh quyền lực. Trong xã hội hiện đại, quyền lực nhà nước bao
gồm 3 nhánh quyền lực chủ yếu là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền
tư pháp, theo đó:
(i) Quyền lập pháp là quyền làm ra Hiến pháp và luật, do cơ quan lập
pháp thực hiện. Cơ quan lập pháp ở các nước khác nhau có tên gọi khác nhau
và cách thức tổ chức cũng khác nhau;
(ii) Quyền hành pháp là một bộ phận cấu thành của quyền lực nhà
nước, có nhiệm vụ thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào tổ chức xã hội và
quản lý xã hội. Quyền hành pháp do một bộ máy hành chính nhà nước phức
tạp trải rộng từ trung ương tới địa phương thực hiện.
(iii) Quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật do cơ quan tư pháp
thực hiện.
Về ba quyền cơ bản trong hệ thống quyền lực nhà nước, theo Locke,
thì ông ta chỉ thừa nhận hai quyền lập pháp và hành pháp, đồng thời đề xuất về

sự phân công quyền lực, nhưng không nêu việc kiểm soát quyền lực. Chỉ đến
Montesquieu, ngoài việc đề xuất phân chia quyền lực nhà nước thành 3 quyền:
Lập pháp, hành pháp và tư pháp, thì ông cũng đề xuất thêm yêu cầu kiểm soát
quyền lực. Hơn nữa, không phải chỉ kiểm soát từ bên ngoài, mà là ngay trong
15


cơ cấu nội tại của hệ thống quyền lực nhà nước, như một cơ thể sống với cơ
chế tự động, tự phòng chống[2].
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa ba bộ phận quyền lực này ở các nước
không giống nhau (do có thể chế chính trị khác nhau) nên cách biểu hiện cũng
phản ánh các mức độ khác nhau. Trong khi ở các nước tư bản, quyền lực nhà
nước được tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” với những biến thể
khác nhau, thì ở các nước xã hội chủ nghĩa (như ở nước ta), ba nhánh quyền
lực này lại không tổ chức theo hướng độc lập và đối trọng với nhau, mà chỉ có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, cách thức tổ chức quyền lực
này tạm gọi là nguyên tắc "phân – hợp – kiểm".
Qua nhận thức thực tế cho thấy, hạt nhân hợp lý của học thuyết tam
quyền phân lập là có sự phân công rành mạch trong việc tổ chức và thực hiện
quyền lực. Điều này có ý nghĩa trong việc đề cao dân chủ, chống lạm quyền
và đây cũng là đóng góp to lớn của học thuyết này đối với lý luận về Nhà
nước pháp quyền. Tuy nhiên, trong điều kiện xã hội hiện đại và thể chế nhà
nước đơn nhất, chúng ta chỉ vận dụng "yếu tố hợp lý" của học thuyết phân
quyền là sự phân công quyền lực, chứ không nên áp dụng toàn bộ nội dung
của học thuyết này.
Sự quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực cho
thấy rõ những hạn chế trong cách tư duy cơhọc của học thuyết phân quyền.
Quyền lực nhà nước không phải là sự cộng lại đơn thuần của các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp, mà có thể yêu cầu chúng tách biệt, độc lập khỏi
nhau. Không có một cơ quan nào thuần tuý chỉ thực hiện một quyền, mà

không tham gia vào việc thực hiện các quyền khác. Không có một quyền nào
chỉ được thực hiện duy nhất bởi một cơ quan mà không có sự tham gia của các
16


cơ quan khác.Trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, các cơ quan không thể
độc lập hành xử quyền hạn của mình. Các cơ quan dù được phân nhiệm thực
hiện các quyền khác nhau, nhưng trong quá trình thực hiện quyền hạn của
mình đều phải có sự phối hợp với các cơ quan khác. Về thực chất thì quyền
lực nhà nước là thống nhất, không thể tách biệt độc lập các lĩnh vực hoạt động
của quyền lực nhà nước. Cho nên, chúng ta không áp dụng thuyết phân quyền
theo cách tách biệt các nhánh quyền lực, mà chỉ nên có sự phân công, phân
nhiệm giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, và tư pháp.
Do quyền lực nhà nước là một chỉnh thể nên cũng cần xem xét thêm về
cơ chế "kìm hãm, đối trọng" giữa các nhánh quyền lực. Mặc dù đôi lúc, có thể
có sự mâu thuẫn nhất định giữa các nhánh quyền lực, nhưng chúng luôn phải
phối hợp với nhau vì mục tiêu thống nhất của quyền lực nhà nước. Bản thân
quyền lực luôn có xu hướng thống nhất, nên sự kìm chế, đối trọng giữa các
nhánh quyền lực có thể có tác dụng chống lạm quyền, nhưng điều này
đôi khi cũng tạo ra sự mâu thuẫn chính trị, thậm chí, nếu người ta quá nhấn
mạnh đến kìm chế, đối trọng có thể dẫn đến sự triệt tiêu lẫn nhau giữa các
nhánh quyền lực (lật đổ Chính phủ hay giải tánQuốc hội).
Ngoài ra, sự phân quyền và kìm chế đối trọng giữa các nhánh quyền
lực ở một mức độ nhất định, thiết nghĩ,có thể chỉ phù hợp với xã hội đa lợi ích
như xã hội tư sản. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa như nước ta, lợi ích về cơ bản
là thống nhất, vì lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản thống nhất với lợi
ích của toàn dân tộc. Tính thống nhất về lợi ích của nhân dân là cơ sở cho tính
thống nhất của quyền lực. Vì vậy, quyền lực phải thống nhất và thuộc về nhân
dân. Cho nên, chúng ta cũng không áp dụng thuyết phân quyền ở yêu cầu kìm

17


chế, đối trọng giữa các nhánh quyền lực, mà chỉ có giám sát việc thực thi giữa
các nhánh của quyền lực nhà nước, nhất là chúng ta nhấn mạnh đến sự giám
sát của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước để đảm bảo sự thống nhất của quyền lực nhà nước[3].
2. Từ nhận thức lý luận đến thực tiễn cấu trúc quyền lực trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Ở nước ta, sau khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta mới có đủ những cơ sở và điều kiện khách quan để xây dựng một nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà quyền lực nhà nước là thống nhất
và thuộc về nhân dân. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa được coi là một sáng tạo trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của
Đảng ta về tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng và tổ chức quản lý xã hội nói
chung. Từ chỗ cơ bản quan tâm đến các vấn đề bên ngoài của tổ chức quyền
lực nhà nước (như kiện toàn tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan
trong bộ máy nhà nước…), chúng ta đã coi trọng bản chất của Nhà nước. Đó
là việc xác lập nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, coi trọng tính pháp
quyền trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Từ nhận thức đúng đắn
về nguyên tắc này, chúng ta ngày càng ý thức được đây là tinh hoa của khoa
học tổ chức quyền lực nhà nước, quản lý xã hội của loài người và vận dụng
sáng tạo, hài hòa với các nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc tổ chức của quyền lực nhà nước và xây dựng nhà nước
pháp quyền lần đầu tiên được Ðảng và Nhà nước ta xác định trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 như
sau: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
18



pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”[4] và chính thức đưa vào văn
kiện Đại hội VII, được phát triển thêm qua văn kiện Đại hội VIII, đặc biệt là
văn kiện Đại hội IX của Đảng. Đồng thời với chủ trương tăng cường pháp chế,
các nghị quyết của Đại hội IX cũng chủ trương mở rộng dân chủ và được
coi là cơ sở chính trị - xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương này tiếp tục được khẳng định lại ở Đại hội X: “Nhà nước
ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền
lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi
của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của
các cơ quan công quyền”[5].
Như vậy, ở đây chúng ta vẫn dễ dàng nhận thấy rằng, tính pháp chế là
đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền và bản chất của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư duy
lý luận, có lẽ điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam so với cácNhà nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành của Nhà
nước. Ở các nhà nước pháp quyền tư sản dù với các biến thể khác nhau, thì cơ
chế vận hành phổ biến vẫn là “tam quyền phân lập”. Việc Đảng ta xây dựng
cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, chính là
dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước và pháp luật.

19


Điều kiện thực tiễn thay đổi, Đại hội XI của Đảng đã kế thừa quan

điểm của Đại hội X và bổ sung phát triển phù hợp với tình hình mới: “Nhà
nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[6].
So với Đại hội X, việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ta theo
quan điểm của Đại hội XI có hai điểm mới như sau: Một là, tổ chức và thực
thi quyền lực nhà nước trước đây trong Văn kiện của Đảng thường sử dụng từ
“dưới” nay thay bằng từ “do” - “do sự lãnh đạo của Đảng”. Đây là một sự thay
đổi nhận thức quan trọng, khẳng định rằng, dù Đảng là hạt nhân của hệ thống
chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, dù “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam” thì Đảng
cũng không đứng trên Nhà nước pháp quyền, không đặt Nhà nước pháp quyền
“dưới” Đảng. Điều này cũng thể hiện sự chuyển biến nhận thức về vai trò lãnh
đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Hai là, kiểm soát quyền lực
nhà nước giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Nghĩa là, quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, mà trước hết kiểm
soát ngay từ bên trong Nhà nước, ngay trong quá trình tổ chức và vận hành bộ
máy nhà nước, sau đó là sự kiểm soát của nhân dân bằng các hình thức giám
sát, phản biện xã hội khác.
Như vậy, quá trình nhận thức lý luận của Đảng ta về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, về cấu trúc quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã
20


hội chủ nghĩa đã khẳng định rõ: Quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất
thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Đây chính là giá trị đích thực và bền vững trong tư tưởng

nhân loại về Nhà nước pháp quyền. Để thực thi quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân có hiệu quả, quyền lực nhà nước được tổ chức thành ba bộ
phận, quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, đây không phải ba bộ
phận quyền tách rời nhau, mà mỗi bộ phận quyền chỉ đại diện quyền lực nhà
nước trong giới hạn chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà
nước. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, Chủ tịch nước chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.

21


Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên...
Sự phân công càng rõ ràng, cụ thể thì hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của các cơ quan nhà nước càng được nâng cao. Vì vậy, sự phân công quyền
lực là cơ sở để thực hiện tốt nhất quyền lực nhà nước thống nhất. Hơn nữa, với

cơ cấu tổ chức quyền lực như vậy, các cơ quan này thực hiện cơ chế kiểm tra,
giám sát lẫn nhau, loại bỏ có hiệu quả nguy cơ độc quyền hay lạm quyền và
nạn quan liêu hoá bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó là yêu cầu phải có sự phối
hợp của các cơ quan trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước mà nhân dân
giao phó. Bộ máy nhà nước là tập hợp một hệ thống các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở; giữa các cơ quan nhà nước có mối liên hệ hữu cơ với
nhau. Cơ sở để hình thành mối liên hệ này là các cơ quan nhà nước được trao
và thực thi quyền lực nhà nước thống nhất, thực hiện mục tiêu chung của nhà
nước thống nhất. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp trong nhà nước pháp quyền được điều chỉnh một
cách nhịp nhàng và đồng bộ trên cơ sở quy định của pháp luật. Có thể nói,
việc thừa nhận phân công và phân nhiệm trong tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước là một bước tiến về nhận thức lý luận. Cả về mặt lý luận cũng như
về mặt thực tiễn đều đặt ra yêu cầu tất yếu rằng, giữa các cơ quan nhà nước
cần có sự phân công chuyên môn hoá lao động quyền lực, đảm bảo sự độc lập
trong tổ chức của các cơ quan và sự phối hợp giữa chúng, nhưng đồng thời
giữa các cơ quan cần có sự kiểm soát, kiềm chế, giám sát lẫn nhau. Nắm vững
nguyên tắc này có ý nghĩa chỉ đạo hoạt động thực tiễn về tổ chức và phân
công quyền lực nhà nước trong bộ máy nhà nước. Đảng và Nhà nước ta đã chủ

22


trương phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện ba quyền. Điều đó có nghĩa là trong quá trình cải cách và xây dựng
bộ máy nhà nước phải coi trọng việc xác định rõ chức năng, quyền hạn và
nhiệm vụ của các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền này để hạn chế sự
lạm quyền, lộng quyền, chồng chéo và cản trở công việc của nhau.
Từ nhận thứ lý luận, quan điểm về phân công, phối hợp trong thực thi
quyền lực nhà nước đã được thể chế hóa thành các quy định trong Hiến pháp

năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), thể chế hóa trong các Luật về tổ chức
Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân
nhân, Viện Kiểm sát nhân nhân và nhiều đạo luật khác... Tuy nhiên, việc
chuyển hóa nhận thức lý luận vào đời sống thực tiễn là một quá trình và đòi
hỏi những bước đi thích hợp. Sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, bên cạnh
những kết quả đã đạt được về mặt lý luận, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm qua đã bộc lộ không ít
những vấn đề cần phải giải quyết, đặc biệt là quá trình vận hành, thực thi
quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân. Tổ chức bộ máy nhà
nước còn nặng nề. Việc phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước còn
nhiều bất cập. Sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có những điểm chưa
rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp trung ương - địa phương
còn một số mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức bộ máy,
kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...). Chính sự phân công không rõ ràng
về thẩm quyền đã dẫn đến sự chồng chéo giữa các cơ quan lập pháp, hành
pháp và tư pháp trong việc thực thi quyền lực, làm cho cơ cấu quyền lực
không phát huy được hết hiệu quả, làm cho tình trạng tập trung quan liêu cũng

23


như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục; còn thiếu cơ sở khoa học khi
quyết định một số chủ trương về sắp xếp điều chỉnh tổ chức bộ máy ở trung
ương và địa phương nên khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng
còn hạn chế.
Đảm bảo cấu trúc quyền lực nhà nước thống nhất cũng đòi hỏi sự phân
công, phối hợp quyền lực giữa trung ương và địa phương. Hiện nay ở nước ta,
về mặt triết lý cũng như về mặt pháp lý, không có sự phân công quyền lực nhà
nước giữa trung ương và địa phương, thay vào đó là sự phân cấp về quyền lực

nhà nước của trung ương đối với các cấp chính quyền địa phương[7]. Thực
tiễn cho thấy, phân cấp được hiểu là một loại hình tổ chức và hoạt động quản
lý được pháp luật quy định tạo nên các cơ quan có thứ bậc khác nhau trong hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước. Phân cấp nghĩa là các cấp chính quyền
địa phương được giao phó thực hiện những nhiệm vụ nhất định và việc phân
cấp được thực hiện chủ yếu trong hệ thống các cơ quan hành chính, phân cấp
giữa Chính phủ và chính quyền địa phương. Các lĩnh vực được phân cấp chủ
yếu như: Phân cấp quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư và phát triển; phân cấp
quản lý ngân sách, quản lý đất đai và tài nguyên; phân cấp quản lý doanh
nghiệp nhà nước, hoạt động sự nghiệp và dịch vụ công; phân cấp về tổ chức
bộ máy và cán bộ, công chức... Tuy nhiên, tư duy phân cấp khó có thể giúp ích
cho sự phát triển năng động và sáng tạo của các cấp chính quyền địa phương,
bởi lẽ, dù thế nào chăng nữa, chính quyền địa phương vẫn phải phụ thuộc
chính quyền trung ương, cấp dưới phụ thuộc cấp trên...
Về phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước giữa trung ương và địa
phương. Sự phối hợp này được thể hiện ở hai mặt cơ bản, đó là chính quyền
địa phương thực thi chính sách, pháp luật của Trung ương và Trung ương lãnh
24


đạo, hướng dẫn, tạo điều kiện để chính quyền địa phương hoàn thành nhiệm
vụ chính trị được giao phó. Ở địa phương, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân đều là các cơ quan hành chính có nhiệm vụ thực hiện chính sách pháp luật
của Trung ương (mặc dù cơ chế hoạt động của hai cơ quan này hoàn toàn khác
nhau). Bên cạnh đó, với hai mặt cơ bản của phối hợp thực hiện quyền lực giữa
Trung ương và địa phương, đang làm cho địa phương trông chờ, ỷ lại vào
Trung ương, giảm tính năng động, sáng tạo của địa phương trong quá trình
vận hành, thực thi nhiệm vụ.
3. Một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm đảm bảo cấu trúc
quyền lực nhà nước thống nhất và sự hiệu quả của cơ chế thực thi quyền

lực nhà nước hiện nay
Một là, để đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về nhân
dân, cần làm rõ cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, bảo đảm quyền lực không bị tha hóa và bị lạm dụng.
Từ tư duy lý luận về quyền lực nhà nước thống nhất, về yêu cầu phân
công phối hợp và kiểm soát giữa các nhánh quyền lực trong cấu trúc quyền lực
nhà nước, các vấn đề trên được thể chế hóa thành các quy định thực tế, cụ thể
trong Hiến pháp – Đạo luật gốc của quốc gia. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 xác
định, bộ máy nhà nước Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc phân quyền,
nhưng có tiếp thu những điểm hợp lý trong lý thuyết phân quyền. Điều 2 Hiến
pháp sửa đổi năm 2013 quy định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".

25


×