Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở thành phố sơn la, tỉnh sơn la hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.08 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

ĐỖ HUYỀN TRANG

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KH&CN CẤP CƠ SỞ NĂM HỌC 2016-2017

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ CHẤT LƢỢNG CAO
Ở THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA HIỆN NAY

Mã số: TB 2017 - 05

Sơn La, Tháng 12 năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KH&CN CẤP CƠ SỞ NĂM HỌC 2016-2017

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ CHẤT LƢỢNG CAO
Ở THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA HIỆN NAY

Mã số: TB 2017 - 05

Ngƣời thực hiện: Đỗ Huyền Trang

Sơn La, Tháng 12 năm 2017



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH,HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNDVBC

: Chủ nghĩa Duy vật biện chứng

CNDVLS

: Chủ nghĩa Duy vật lịch sử

NNLNCLC

: Nguồn nhân lực nữ chất lượng cao

UV BCH TW

: Ủy viên Ban chấp hành Trung Ương

LHPN

: Hội Liên hiệp phụ nữ

ASEAN

: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á


UBND

: Ủy ban nhân dân

HĐND

: Hội đồng nhân dân

TTDS-KHHGĐ : Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề ........................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................................10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................10
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................10
6. Ý nghĩa của đề tài .......................................................................................................11
7. Kết cấu .......................................................................................................................11
Chƣơng I: Cơ sở lý luận chung về nguồn nhân lực nữ chất lƣợng cao ..................12
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn lực con người ............................12
1.2. Một số khái niệm cơ bản .........................................................................................15
1.2.1. Nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao ................................................15
1.2.2. Nguồn nhân lực nữ, nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ......................................19
1.2.3. Phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao .......................................................22
1.3. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực nữ chấ t lượng cao ở Việt Nam
hiện nay ...........................................................................................................................25
1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển nguồn nhân lực nữ chất
lượng cao .........................................................................................................................25
1.3.2. Tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao .....................30

Chƣơng II: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lƣợng cao ở thành phố
Sơn La hiện nay .............................................................................................................35
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu .................................................................................35
2.2. Phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Thành phố Sơn la hiện nay, thực
trạng và những vấn đề đặt ra...........................................................................................43
2.2.1 Chủ trương phát triển nhân lực tỉnh Sơn La đến năm 2020 và yêu cầu đặt ra đối
với phát triển NNL ..........................................................................................................43
2.2.2 Thực trạng phát triển NNLNCLC ở Sơn La hiện nay ..........................................48
2.3. Nguyên nhân của thực trạng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở thành
phố Sơn La hiện nay và những vấn đề đặt ra .................................................................55
Chƣơng III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ chất
lƣợng cao ở thành phố Sơn La hiện nay .....................................................................63
3.1. Yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Tỉnh Sơn La hiện nay ....63


3.2. Những giải pháp phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở TP Sơn La hiện
nay ...................................................................................................................................64
3.2.1. Giải pháp về đổi mới quản lý của nhà nước về phát huy và phát triển nguồn
nhân lực nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở thành phố Sơn La hiện
nay ...................................................................................................................................64
3.2.2. Giải pháp về đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực tạo điều kiện phát triển
NNLNCLC. .....................................................................................................................66
3.2.3. Giải pháp về nâng cao tính tích cực chủ động phấn đấu vươn lên của phụ nữ ...69
Chăm sóc sức khỏe với việc phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ..................69
3.2.4. Giải pháp về xây dựng môi trường xã hội tiến bộ thúc đẩy phát triển NNLNCLC
.........................................................................................................................................72
3.2.5. Đẩy mạnh phát triển kinh tế bền vững ở thành phố Sơn La nhằm tạo điều kiện
khách quan thuận lợi để phát triển NNLNCLC hiện nay...............................................73
Kết luận ..........................................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1. Bảng thống kê chức vụ trong các ban, ngành thành phố Sơn La phân theo giới
tính...................................................................................................................................49
Bảng 2: Thống kê số lượng, chất lượng cán bộ viên chức sự nghiệp giáo dục tính đến
31/12/2011. .....................................................................................................................51
Bảng 3. Số giáo viên cao đẳng phân theo giới tính ........................................................52
Bảng 4. Số giáo viên đại học phân theo giới tính ..........................................................52


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới đã có nhiều đổi thay. Những thành tựu vượt bậc về
khoa học, kỹ thuật và kinh tế là nét nổi bật mà loài người đã đạt được. Thế nhưng vấn đề
giới, sự phân biệt về vị trí, vai trò giữa nam và nữ ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả
các nước có trình độ phát triển cao về kinh tế, xã hội vẫn chưa được giải quyết một cách
hiệu quả. Sự ngăn cách về số phận giữa nam và nữ vẫn chưa được san bằng.
Trên thế giới hiê ̣n nay, mô ̣t hiê ̣n tươ ̣ng đươ ̣c ghi nhâ ̣n ở nhiề u quố c gia , khu vực
khác nhau trên thế giới, số lươ ̣ng phu ̣ nữ nắ m chiń h quyề n cấ p caokể cả cấp cao nhất và
bộ phận NNLNCLC ở các lĩnh vực khác nhau tăng lên rõ rệt. Mặc dù vậy, NNLNCLC
vẫn chưa được khai thác và phát triển đúng với khả năng của nó. Thực tế chứng minh,
NNLN không thua kém nam giới - xét trên phương diện trí tuệ, năng lực và những phẩm
chất khác. Như vậy, việc phát triển NNLN, đặc biệt NNLNCLC là một trong những vấn
đề quan trọng hiện nay. Bởi nếu không ta sẽ đánh mất đi một nửa sức mạnh của đất nước
cho phát triển kinh tế - xã hội. Hơn nữa, việc giải phóng, phát triển tiềm năng trí tuệ của
NNLNCLC là đòi hỏi khách quan và bức thiết của sự phát triển xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng
sản Việt Nam luôn coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu phát triển. Việc

chăm lo phát triển nguồn lực con người là một nhân tố quyết định thành công của công
cuộc đổi mới theo hướng xã hội chủ nghĩa. Chăm lo phát triển nguồn lực con người
hướng vào cả nam và nữ với các tiêu chí: Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tình cảm đạo đức, đặc biệt chú ý tới phụ nữ.
Theo thống kê cho thấy phụ nữ chiếm phần lớn lao động trong lĩnh vực nông,
lâm nghiệp, phụ nữ không chỉ tham gia sản xuất mà còn tham gia công việc của gia
đình, đồng thời tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội. Nhưng trên thực tế thì cả
xã hội và gia đình đều chưa đánh giá hết những đóng góp, cống hiến và cả khó khăn
của chị em phụ nữ, trong gia đình người phụ nữ chưa thực sự được bình đẳng đặc biệt
là phụ nữ ở vùng cao, vùng sâu, dân tộc ít người.
Sự nghiệp phát triển đất nước không thể thành công khi mà phụ nữ vẫn phải
chịu nhiều thiệt thòi , bất công, sự hạn chế điều kiện phát triển ngay từ trong gia đình .
Vì vậy việc nghiên cứu , tìm hiểu thực trạng về nguồ n nhân lực nữ đặc biệt là nguồ n
nhân lực nữ chấ t lươ ̣ng cao ngay từ cơ sở , địa phương, góp phần hướng tới giải phóng
1


toàn diện con người nói chung và giải phóng phụ nữ nói riêng, tạo cho họ những điều
kiện khách quan thuận lợi để nâng cao trình độ , khả năng nhằm góp phần to lớn hơn
vào quá trình phát triển đất nước Việt Nam ngày cảng giàu ma ̣ nh nói chung và kinh tế
xã hội của tỉnh nói riêng là vấn đề rất cần thiết đang đặt ra.
Sơn La là một trong những tỉnh thành miền núi phía Bắc, trong bối cảnh hiện
nay, do hạn chế về điều kiện kinh tế - xã hội cũng như vị trí địa lý cùng những thói
quen, suy nghĩ, phong tục tập quán của đồng bào nơi đây, Sơn La vẫn còn gặp phải rất
nhiều khó khăn, thách thức. Để đạt được mục tiêu trên nguồn nhân lực đặc biệt là
nguồn nhân lực nữ phải được nâng cao chủ yếu về chất lượng. Trong thực tế, nguồn
nhân lực nữ ở thành phố Sơn La vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như: trình độ nguồn
nhân lực phát triển chưa đúng mức, chưa tương xứng với tiềm năng về chất lượng và
số lượng hiện có, chưa đạt tới trình độ cần thiết so với yêu cầu phát triển chung nguồn
nhân lực so với cả nước.

Trong bối cảnh đó, phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao không chỉ giúp
thành phố Sơn La tận dụng được các tiềm năng hiện có, tiến gần đến các cơ hội mà
còn góp phần xóa bỏ được những định kiến về giới, góp phần vào công cuộc giải
phóng phụ nữ, tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao đời sống cũng như vị thế của nguồn
nhân lực nữ trong toàn tỉnh nói chung và trong thành phố Sơn La nói riêng.
Với ý nghiã như vâ ̣y , là nữ cán bộ đang nghiên cứu, quan tâm đến vần đề phụ
nữ ở quê hương. Tác giả chọn đề tài “Phát triển nguồn nhân lƣ̣c nƣ̃ chấ t lƣơ ̣ng cao
ở thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La hiêṇ nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Nhóm tác phẩm bàn về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
PTS Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (Viện kinh tế thế giới) (1996), Phát triển nguồn
nhân lực kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb CTQG, Hà Nội.
Cuốn sách đã giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân lực trong nền kinh tế
hiện nay và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục ở một số
nước trên thế giới. Từ đó vận dụng vào thực tế ở Việt Nam hiện nay nhằm góp phần
phát triển kinh tế xã hội.
Chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước KX07, đề tài KX-0718.PGS.TS Nguyễn Trọng Bảo chủ biên (1996),Gia đình, nhà trường, xã hội với việc
phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài, Nxb Giáo
2


dục, Hà Nội. Cuốn sách này giúp chúng ta hiểu được vấn đề bồi dưỡng nhân tài với vai
trò tích cực của gia đình, nhà trường, xã hội trong việc tuyển chọn, đào tạo và bồi
dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài.Từ đó đã đưa ra một số giải pháp để phát triển
nguồn lực này.
TS. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt
Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. Cuốn sách đã trình bày một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về vấn đề phát triển, phân bố và sử dụng con người trong quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đánh giá thực trạng 15
năm đổi mới trong lĩnh vực nguồn nhân lực.

Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong
giai đoạn hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Nội dung công trình tập trung phân tích các
yếu tố cơ bản tác động đến gia đình và vai trò của phụ nữ Việt Nam trong gia đình,
đặc điểm cơ bản của gia đình Việt Nam và xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ
trong giai đoạn hiện nay. Từ đó tác giả nêu ra những vấn đề xây dựng gia đình mới và
phát huy vài trò của người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (chủ biên) (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở
Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.Cuốn sách
là tập hợp các bài nghiên cứu, bài viết, bài tham luận tại hội thảo của đề tài KX.05.11
thuộc chương trình Khoa học- công nghệ cấp nhà nước KX.05 ( Giai đoạn 20012005). Chủ yếu trình bày các vấn đề lý luận và kinh nghiệm và các khuyến nghị trong
quản lý NNL ở Việt Nam.
TS. Nguyễn Thanh (2005), Phát triền nguồn nhân lực phục vụ Công nghiệp hóa,
Hiện đại hóa đất nước, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tiếp cận dưới góc độ triết
học, tác giả đã xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và dựa trên các quan điểm của Đảng về phát triển con người, về vai trò của Giáo
dục - Đào tạo để khẳng định giá trị của nguồn nhân lực trong công cuộc CNH- HĐH
đất nước.
Phạm Thành Nghị (Chủ biên) (2006), Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội. Các tác giả đã trình bày: Hệ thống hóa nhữngvấn đề lý luận cơ bản,
những nhận thức mới và hiện đại về quản lý NNL như vấn đề vốn con người và phát
triển vốn con người; các mô hình quản lý NNL;các yếu tố tác động đến quản lý NNL
3


và các chính sách vĩ mô tác động đến quản lý NNL; khái quát về vai trò của NNL
trong nền kinh tế đổi mới và kinh nghiệm phát triển NNL ở khía cạnh phát triển giáo
dục ở một số nước trên thế giới. Vận dụng tốt những kinh nghiệm quý báu đó vàoviệc
phát triển NNL ở nước ta sẽ góp phầntạo ra NNLCLC, tạo động lực thúc đẩy kinh tếxã hội phát triển.
Bộ Kế hoạch và đầu tư ( tháng 7/năm 2011), Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát

triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011- 2020. Trong báo cáo này đã tập trung làm rõ
các vấn đề: Hiện trạng phát triển NNL Việt Nam với những thành tựu cơ bản, những
hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của nó, phương hướng phát triển NNL Việt Nam đến
năm 2020 và những vấn đề đặt ra. Các giải pháp chủ yếu thực hiện quy hoạch phát
triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 và tổ chức thực hiện quy hoạch đó.
Nhóm tác phẩm này đã nêu bật lên được những vấn đề liên quan tới Nguồn nhân
lực và phát triển nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam cũng như vai trò của nó trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua đây các tác phẩm trên cũng đã
nhấn mạnh đến yếu tố con người và những giải pháp cơ bản để khai thác, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực.
Nhóm tác phẩm nghiên cứu về phát triển nguôn nhân lực nữ chất lượng cao
TS.Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả chỉ rõ tầm quan trọng của nguồn lực trí
tuệ đối với sự phát triển của xã hội, đồng thời làm rõ đặc điểm, thực trạng phát huy và
xu hướng phát triển của nguồn lực trí tuệ Việt Nam từ đó khẳng định sự cần thiết phải
chăm lo phát triển và phát huy cao độ sức mạnh của nguồn lực trí tuệ trong công cuộc
đổi mới ở Việt Nam. Tác giả cũng đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải
pháp chủ yếu để tạo động lực thúc đẩy quá trình phát huy, phát triển NNL một cách
bền vững.
Lê Thị Hồng Điệp (2005), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành
nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị, Trung tâm đào tạo bồi
dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại họcQuốc gia, Hà Nội. Trong luận án đã góp
phần làm phong phú thêm những lý luận mới về phát triển NNLCLC trong hình thành
nền kinh tế tri thức. Luận án đã phân tích nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác động tới
quá trình phát triển của nguồn lực này. Đánh giá sự phát triển của NNLCLC qua nhiều
mặt trong giai đoạn 2001- 2007, đề xuất một số giải pháp phát triển NNLCLC để góp
4


phần hình thành nền kinh tế tri thức ơ Việt Nam trong tương lai.

Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng,
Nxb Thế giới, Hà Nội. Cuốn sách đã nêu lên được những kinh nghiệm trong phát hiện,
đào tạo và sử dụng tài năng khoa học công nghệ sản xuất kinh doanh, quản lý của Mỹ
và một số nước Châu Âu, Châu Á. Từ đó tác giả đã đưa ra vấn đề: Việt Nam cần đổi
mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn tài năng hiện có trong sự nghiệp
CNH- HĐH và công cuộc đổi mới đất nước.
Viện Chiến lược phát triển của Bộ kế hoạch và đầu tư (2006), đã chủ trì triển
khai nghiên cứu đề tài cấp bộ với chủ đề, Nguồn nhân lực chất lượng cao: hiện trạng
phát triển, sử dụng và các giải pháp tăng cường. Các tác giả đã nêu ra quan điểm của
mình về NNLCLC và tìm hiểu những yếu tố tác động. Đề tài bước đầu cũng đánh giá
được thực trạng một nhóm NNLCLC ở nước ta và đề xuất những phương hướng, giải
pháp để phát triển NNLCLC của Việt Nam trong những năm tiếp theo.
PGS.TS Phạm Hồng Tung (chủ biên) (2008), Lược khảo về kinh nghiệm phát
hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn
sách giúp chúng ta đánh giá tương đối toàn diện về những mặt tốt và hạn chế của thực
tiễn đào tạo và sử dụng nhân tài Việt Nam trải qua các thời kỳ lịch sử, từ thời kỳ dựng
nước cho đến những năm của thế kỷ XIX, XX và sự xuất hiện của đội ngũ tri thức Tây
học. Tiếp đến tác giả đã làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về việc đào tạo thế hệ nhân
tài góp phần xây dựng đất nước. Trên cơ sở đó tác giả cũng đã rút ra bà học kinh
nghiệm hữu ích, góp phần xây dựng những luận cứ khoa học trong viêc hoạch định
chiến lược sử dụng, đãi ngộ nhân tài – NNLCLC ở Việt Nam hiện nay.
TS. Nguyễn Thị Thu Phương (chủ biên) (2009), Chiến lược nhân tài của Trung
Quốc từ năm 1978 đến nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ
cơ sở hình thành chiến lược nhân tài ở Trung Quốc thông qua khái niệm nhân tài, cơ
sở hình thành chiến lược nhân tài Trung Quốc, chiến lược nhân tài của Trung Quốc từ
năm 1978 đến nay. Qua đây tác giả đã đánh giá một số thành tựu, hạn chế trong chiến
lược nhân tài của Trung Quốc, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho chiến lược
phát triển nhân tài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Công trình của tác giả có ý
nghĩa tham khảo cho Đảng và Nhà nước trong việc đưa ra những chủ trương và chính
sách xây dựng chiến lược tổng thể về nhân tài, là bộ phận chất lượng cao của NNL.

GS.TS Hoàng Văn Châu (2009), Phát triển NNLCLC cho hội nhập kinhtế-vấn đề
5


cấp bách sau khủng hoảng,Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 38/2009. Trong bài viết của
mình ở góc độ tiếp cận NNL có trình độ cao - lực lượng lao động có học vấn, có trình
độ chuyên môn cao được đào tạo chủ yếu ở các trường đại học tác giả đã đề cập đến
thực trạng thị trường lao động chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, tác động của
khủng hoảng tài chính tới thị trường NNLCLC của Việt Nam. Từ đó đề ra một số giải
pháp nhằm phát triển NNLCLC cho các trường đại học nói chung và trường đại học
ngoại thương nói riêng.
GS.TS Nguyễn Văn Khánh (chủ biên) (2010), Xây dựng và phát huy nguồn lực
trí tuệ Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. Công trình này là kết quả nghiên cứu, hội thảo
của các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau trong khuôn khổ đề tài cấp nghiên
cứu khoa học cấp Nhà nước KX.03.22/06- 10 Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ
Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước trong thế kỷ XXI. Bằng cách tiếp cận
liên ngành, công trình mong muốn góp phần nhận thức, lý giải một số vấn đề cơ bản
về trí tuệ, nguồn lực trí tuệ như: lý luận chung về nguồn lực trí tuệ, xây dựng và phát
huy nguồn lực trí tuệ ở Việt Nam phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
PGS.TS. Nguyễn Văn Tài (2010), Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ
nước ta hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cuốn sách của tác giả đã đi sâu phân tích, làm rõ những cơ
sở lý luận và thực tiễn của đường lối, chính sách cán bộ của Đảng ta. Tác giả đã đưa ra
những đánh giá sát thực tế về tình hình cán bộ nước ta hiện nay, đề xuất những giải pháp
cụ thể, có tính khả thi để góp phần kiện toàn, nâng cao chất lượng cán bộ các cấp.
Nguyễn Thị Thanh Dung (2010), Phong cách tư duy Hồ Chí Minh với việc xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn
sách của tác giả đã phản ánh một cách khái quát, có hệ thống những nội dung cơ bản
của phong cách tư duy Hồ Chí Minh, từ đó đề ra một số giải pháp có tính khả thi nhằm
góp phần xây dựng phong cách tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta

hiện nay.
Nguyễn Văn Khánh, Hoàng Thu Hương, Tạp chí nghiên cứu con người số 12010, Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay: thực trạng và
triển vọng. Trong bài viết tác giả đã đưa ra một số quan niệm về nguồn nhân lực chất
lượng cao, cụ thể coi nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của nguồn nhân
lực nói chung, bao gồm những người có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên.
6


Qua đó đề cập đến thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao, triển vọng đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao, từ đó tác gải đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
Bùi Thị Ngọc Lan, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11- 2011, Nguồn nhân lực chất
lượng cao Việt Nam- xu hướng và giải pháp phát triển. Bài viết tác giả đã phân tích
thực trạng NNL chất lượng cao của Việt Nam, xu hướng phát triển NNLCLC của Việt
Nam cũng như đề ra các giải pháp để phát triển NNLCLC
Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Hà Thị Hằng (2013), Nguồn nhân lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế
hiện nay, Đại học Kinh tế Huế: Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực
tiễn về nguồn nhân lực cho Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức, luận án phân tích đánh giá thực trạng nguồn nhân lực cho Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ đó đề xuất
một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.
Luận án Tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Giáng Hương (2013), Vấn đề phát
triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Học viện chính trịHành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Luận án tiếp cận từ góc độ triết học nhìn từ mối
quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của vấn đề phát triển
NNLNCLC ở Việt Nam hiện nay, tác giả đã nghiên cứu thực trạng NNLNCLC ở Việt
Nam hiện nay thông qua số liệu thống kê NNLNCLC tham gia lãnh đạo, quản lý trong
hệ thống chính trị và khoa học công nghệ với giả thiết các lĩnh vực khác cũng có điều
kiện phát triển giống như các lĩnh vực này.

Các tác giả đã phân tích làm rõ thực trạng NNL ở nướ c ta trong giai đoạn hiện
nay về số lượng và chất lượng . Bên cạnh đó , tác giả đã chỉ ra một số nguyên nhân cơ
bản dẫn đến thực trạng yế u kém của NNL , trên cơ sở đó đã đề xuất một số những giải
pháp để có thể phát triển NNLCLC đủ mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH ,
HĐH đất nước . Đưa ra quan niệm về NNLCLC , sơ lược về thực trạng NNLCLC ở
nước ta hiện nay , trên cơ sở đó , các tác giả đã đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm
phát huy nguồn lực này ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Nhóm bài viết liên quan tới phát triển NNL, NNLCLC ở Tây Bắ c
Trầ n văn Trung: Chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ vùng Tây Bắc Việt
7


Nam, 2015- Luâ ̣n án tiế n si,̃ Luận án nghiên cứu chính sách về nguồn nhân lực trẻ Tây
Bắc, với phạm vi về phân tích, đánh giá thực trạng về quá trình thực thi, hiệu lực, hiệu
quả của quá trình thực hiện chính sách nguồn nhân nhân lực trẻ khu vực Tây Bắc,
đồng thời luận giải những giải pháp cơ bản để hoàn thiện hệ thống chính sách phát
triển nguồn nhân lực trẻ khu vực Tây Bắc. Tác giả chỉ đánh giá trên góc độ hệ thống
chứ không đi sâu vào từng chính sách cụ thể, xem xét nhân tố ảnh hưởng của một số
chính sách cơ bản trong hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ Tây Bắc.
Trầ n văn Trung (2011): Đào tạo nguồ n nh ân lực trẻ đáp ứng yêu cầ u phát
triể n kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc, Tạp chí Thanh niên, Hà Nôi
Phạm Ngọc Phương, Tạp chí Dân tộc, số 161 tháng 5/2014, Một số giải pháp
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La giai đoạn 20112020; Bài báo đã cơ bản đề cập đến vai trò và thực trạng NNL dân tộc thiểu số tỉnh
Sơn La từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản để phát triển nguồn nhân lực này đến năm
2020.
Nguyễn Thị Hoàng Lý (2/2016) Thực trạng nguồn nhân lực Tây Bắc và những vấn
đề đặt ra cho sự phát triển bền vững- Tạp chí Tổ chức nhà nước. Bài viết đã nêu qua
thực trạng nguồn nhân lực của khu vực Tây Bắc hiện nay và những vấn đề đặt ra từ
thực trạng này thông qua số liệu thống kê của các tỉnh như: Yên Bái, Lai Châu, Sơn La
Hội thảo quốc gia: Đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Sơn

La và vùng Tây Bắc trong tiến trình hội nhập- 10/2012, Hội thảo đã tập trung đánh
giá, phân tích các kết quả đã đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong công tác
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, từ đó đề ra phương hướng và giải pháp, kiến nghị
hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển
nhanh và bền vững của tỉnh Sơn La và vùng Tây Bắc trong tiến trình hội nhập.
Giang Quỳnh Hương (2013), Phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp phát
triển kinh tế- xã hội ở tỉnh Sơn La hiện nay, Luận văn đã trình bày cơ bản các vấn đề
lý luận về nguồn nhân lực, nêu ra thực trạng của nguồn nhân lực của tỉnh Sơn La hiện
nay qua đó đề xuất một vài giải pháp cơ bản để phát huy nguồn lực đó.
Lê Thị La (11/2015), Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn la hiện nay- Luận
văn thạc sỹ Triết học. Luận văn đã trình bày cơ bản vấn đề lý luận về nguồn nhân lực,
nêu ra thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La từ đó đề ra giải pháp để phát
triển nguồn nhân lực của tỉnh trong tiến trình hội nhập kinh tế.
8


Tăng trưởng vì mọi người (2015)- Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2015
về tăng trưởng bao trùm- NXB Khoa học xã hội. Tài liệu đã đưa gia những chỉ số
đánh giá cấp tỉnh về chỉ số HDI, các xu hướng biến động chỉ số phát triển con người,
chỉ số phát triển giới… chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bất bình đẳng,
đề xuất các chương trình trợ cấp xã hội và mô phỏng phân tích tác động, hiệu quả chi
phí. Đánh giá đóng góp của các chương trình khác nhau vào mức độ giảm tỉ lệ nghèo
và khoảng cách nghèo giữa các quốc gia.
Phan Đức Ngữ (2015), Một số vấn đề về đào tạo nhân lực tỉnh Sơn La, Bài tham
luận tạ hội thảo thành tựu kinh tế- xã hội 30 năm đổi mới 1985-2015 của Sơn La do
Hội khoa học kinh tế tỉnh Sơn La tổ chức. Bài tham luận đã phân tích tổng quát và
đánh gía thực trạng đào tạo nhân lực của Sơn La qua 30 năm đổi mới, những thay đổi
về số lượng, chất lượng, cơ cấu nhân lực, từ đây tác giả cũng đã chỉ ra được vấn đề nổi
bật đặt ra đó là vấn đề chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Sơn La.
Nguyễn Đình Nguyên (chủ biên) (2016), Hiện trạng và giải pháp phát triển

nguồn nhân lực Tây Bắc giai đoạn 2016- 2020, Nxb Khoa học tự nhiên và công nghệ,
Hà Nội. Đây là nghiên cứu nằm trong chương trình Khoa học và công nghệ trọng điểm
cấp nhà nước giai đoạn 2013-2018 “ Khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền
vững vùng Tây Bắc” KHCN-TB/13-18. Cuốn sách đã đề cập và phân tích rất rõ nét về
đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội của vùng Tây bắc, dưới phạm vi theo dõi của ban
chỉ đạo Tây bắc bao gồm 12 tỉnh, qua đây đã phân tích hiện trạng và nhu cầu nguồn
nhân lực của từng tỉnh, trong đó phần định hướng và phát triển nguồn nhân lực cũng
đã nêu lên những chính sách cũng như định hướng phát triển nguồn nhân lực vùng tây
Bắc hiện nay. Trong phần chương 4 của cuốn sách cũng đã nêu lên các giải pháp phát
triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của vùng Tây bắc gia
đoạn 2016-2020. Việc phát triển nhân lực, một mặt cần phải có tầm nhìn chiến lược
phát triển tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây
dựng những định hướng cụ thể, từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, nhưng khó khăn,
thuận lợi, hạn chế và nguyên nhân để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp
cho giai đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế- xã hội trong nước và quốc tế.
Nhóm tác phẩm này chủ yếu bàn về thực trạng phát triển nguồn nhân lực của
các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắ c nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng , những ha ̣n chế
và những thiếu hụt trong việc sử dụng nguồn lao động. Từ đó đề ra những giải pháp để
9


phát triển nguồn nhân lực trẻ vùng Tây Bắc.
Có thể thấy rằng , trong nướ c cũng như trên thế giới chưa có công triǹ h khoa
học nào đề cập toàn diện và trược tiếp về vấn đề “ Phát triển nguồn nhân lực nữ chất
lượng cao ở Thành phố Sơn La hiê ̣n nay”
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở thành phố Sơn La.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu về NNLNCLC tham gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã

hội từ năm 2006 tới nay thông qua số liệu thống kê ở thành phố Sơn La với góc độ cơ
cấu từ đây chỉ rõ những vấn đề cần đặt ra đối với phát triển NNLNCLC
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Chỉ ra những vấn đề hiện nay cần đặt ra đối với phát triển nguồn NNLNCLC ở
TP Sơn La, đề xuất một số giải pháp để t ạo điều kiện phát triển hơn nữa NNLNCLC ở
thành phố Sơn La.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những cơ sở lý luận về việc phát triển nguồn nhân lực nữ chất
lượng cao ở thành phố Sơn La.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng cơ cấu, nêu lên những vấn đề đặt ra và nguyên
nhân của việc phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở thành phố Sơn La.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở
thành phố Sơn La.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Để nghiên cứu vấn đề này, tôi sử dụng phương pháp luận CNDVBC và
CNDVLS
5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp nghiên
cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, quan sát thống kê, tổng kết thực tiễn nhằm thu thập
thông tin, đánh giá đúng thực trạng và đưa ra các phương hướng cơ bản phù hợp với
tình hình phát triển của nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở thành phố Sơn La.
10


6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ nội dung cơ bản trong Chủ nghiã Mác

- Lênin tư


tưởng Hồ Chí Minh về con người , nguồn lực con người, vai trò của phụ nữ, giải phóng
phụ nữ và những nghiên cứu về lao động nữ ; Cung cấp một số cơ sở lý luận và thực
tiễn cho lãnh đạo Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt hơn
vấn đề NNL ở thành phố Sơn La góp phần vào sự nghiê ̣p giải phóng con người xây
dựng Sơn La giàu mạnh và phát triển bền vững. Đề tài có thể được dùng làm tài liệu
nghiên cứu, giảng dạy những nội dung có liên quan ở các nhà trường.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài bao gồm 3
chương và 8 mục

11


Chƣơng I
Cơ sở lý luận chung về nguồn nhân lực nữ chất lƣợng cao
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn lực con ngƣời
Với quan niệm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, Mác đã đưa ra một
quan niệm khá hoàn chỉnh về khái niệm con người, cũng như về bản chất con người
như sau:
Thứ nhất: con người là một tổng thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội,
trong đó, mặt xã hội quyết định bản chất con người.
Chủ nghĩa Mác phân định rõ ràng hai mặt trong khái niệm con người: Mặt sinh
vật và mặt xã hội. Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên, mặt sinh học khi xem xét con
người với tư cách là một cá nhân sống. Ông thừa nhận con người là một động vật cấp
cao nhất, sản phẩm sự tiến hóa lâu dài của giới sinh vật. Như mọi động vật khác, con
người cũng là một bộ phận của thiên nhiên, tìm thức ăn, nước uống từ trong thiên
nhiên, con người phải đấu tranh sinh tồn….Tuy nhiên, Mác không thừa nhận quan
điểm: cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh học, là bản năng sinh
vật của con người như các nhà triết học trước Mác mà tiêu biểu là L. Phoiơbắc. Con

người vốn là sinh vật có đầy đủ những đặc trưng của sinh vật nhưng lại có nhiều điểm
phân biệt với các sinh vật khác. Theo ông con người khác với con vật như sau: “ có thể
phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái
gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay khi con người
bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức
cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như vậy
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” [18, tr.29]. Con
người là một bộ phận của tự nhiên, nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên con người
hoàn toàn khác với con vật. Như vậy chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhìn vấn đề bản chất
con người một cách toàn diện, cụ thể, xem xét bản chất con người không phải một
cách chung chung, trừu tượng, mà mang tính hiện thực, cụ thể của nó, trong quá trình
phát triển của nó.
Ngoài mặt sinh vật, theo Mác, con người còn có tính xã hội. Con người có tính
xã hội trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của con người là hoạt động mang tính
xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con người không thể tách rời xã hội và chính tính xã
hội là cho con người khác con vật. Hoạt động của con người chỉ phục vụ nhu cầu trực
12


tiếp của nó, còn hoạt động của con người gắn liền với xã hội phục vụ cho cả xã hội. Xã
hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con người
được thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. Hoạt động của con người không phải là
hoạt động theo bản năng như động vật là hoạt động có ý thức. Có thể nói con người
phân biệt với động vật ở tư duy mà ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy.
Mác nói: “ trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội” [18, tr.11]. Không có con người trừu tượng mà chỉ có những con
người sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, trong điều kiện lịch sử nhất định.
Tính xã hội của con người phát triển từ thấp tới cao, từ hoạt động có bản năng đến
hoạt động có ý thức, cũng như bản chất ý thức. Con người không chỉ có bản năng sinh
học mà còn có bản năng xã hội, đó là bản năng có ý thức.

Thứ hai: con người là sản phẩm và là chủ thể của xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi con người, người lao động, nguồn lực con người là
một trong những yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, là yếu tố quan trọng nhất,
quyết định nhất sự phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và
do đó quyết định năng suất lao động.
Con người muốn sống thì phải có thức ăn, vật dụng, nhà ở….để đáp ứng những
yêu cầu đó, con người phải không ngừng sản xuất. Sản xuất vật chất là điều kiện cơ
bản quyết định sự tồn tại và sự phát triển của xã hội. Chủ nghĩa Mác coi lực lượng sản
xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay
và trí óc, chính thực tiễn sản xuất của con người là cơ sở, động lực cho sự phát triển
của xã hội.
Con người và vai trò của nguồn lực con người được C.Mác và Ph.Ăngghen xem
xét dưới góc độ và tính cách là một trong những vai trò nguồn lực to lớn, theo quan
điểm của Mác: Bản thân con người là cơ sở của nền sản xuất vật chất của họ, cũng như
mọi sản xuất khác do con người thực hiện. Vì vậy tất cả những tình huống nào tác
động đến con người, đến cái chủ thể đó của sản xuất, thì ít nhiều cũng làm thay đổi tất
cả những chức năng và hình thức hoạt động của nó, tức là cũng làm biến đổi những
chức năng và hình thức hoạt động mà con người thực hiện với tư cách là kẻ sáng tạo ra
của cải vật chất, hàng hóa. Theo nghĩa đó có thể thực sự chứng minh được rằng, tất cả
các quan hệ và chức năng của con người, cho dù chúng thể hiện ra dưới hình thức nào
và dưới cái gì, đều ảnh hưởng đến nền sản xuất vật chất, nhiều hay ít đều tác động đến
13


nền sản xuất đó một cách quyết định. Các ông cũng chỉ ra rằng trong quá trình vận
động và phát triển của xã hội, sự vận động và thay thế mỗi hình thái kinh tế xã hội phù
hợp với một phương thức sản xuất vật chất nhất định và khi phương thức sản xuất thay
đổi, hình thái kinh tế - xã hội cũng thay đổi theo. Nhân tố quyết định phương thức sản
xuất theo hướng đi lên của lịch sử là lực lượng sản xuất. Như vậy, chính con người,
nguồn lực con người cùng với những công cụ lao động mà nó chế tạo ra và sử dụng đã

quyết định sự thay đổi của bộ mặt xã hội. Theo Mác: khi phát triển lực lượng sản xuất
của mình, nghĩa là khi sống, thì con người cũng phát triển những quan hệ nhất định với
nhau….tính chất của những quan hệ ấy tất yếu phải thay đổi cùng với sự biến cải và
phát triển của lực lượng sản xuất. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin còn
xem xét con người, nguồn lực con người trong tính tổng hòa các quan hệ xã hội của
nó: “ Bản chất con người không phải là cái trừu tượng vốn có của một cá nhẩn riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã
hội” [18, tr.11]. Con người với tính cách là một trong những nguồn lực quyết định sự
phát triển của đời sống kinh tế - xã hội còn được các nhà kinh điển khẳng định là
người làm chủ được quan hệ giữa mình với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân.
Đó là những con người, với vai trò là một trong những yếu tố cấu thành mang tính
quyết định phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải mang tính hoàn toàn mới,
được phát triển toàn diện về mặt trí, đức, thể, mỹ. Theo Mác: con người cuối cùng làm
chủ tồn tại xã hội của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản
thân mình, trở thành người tự do. Trong điều kiện phát triển của xã hội mới, dưới chế
độ mới luôn đặt ra đối với sự phát triển con người, nguồn lực con người trong tính
toàn diện.
Các ông đặc biệt đề cao vai trò của con người với tính chất của những mối quan
hệ người với người trong mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất. Mác viết:
những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở
chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào. Các tư liệu lao
động không những là cái thước đo sự phát triển sức lao động của con người, mà còn là
một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành.
Tóm lại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin coi trong quá trình phát
triển của đời sống vật chất của mỗi thời đại kinh tế, các tư liệu sản xuất giữa vai trò
quan trọng, đặc biệt là các công cụ lao động, cái làm tăng cho sự phát triển của sức lao
14


động con người, của nguồn lực con người, mà còn là một trong những yếu tố cấu

thành của những quan hệ xã hội trong lao động sản xuất.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những
vấn đề cốt lõi của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Đặc biệt trong
thời đại ngày nay, đối với các nước đang phát triển, giải quyết vấn đề này đang là yêu
cầu được đặt ra hết sức bức xúc, vì nó vừa mang tính thời sự, vừa mang tính chiến
lược xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước.
Nguồn nhân lực
“Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực”, là khái niệm được hình thành trong
quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực của sự
phát triển: Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đề cập đến khái
niệm nguồn nhân lực với các góc độ khác nhau.
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc: Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là
kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng
để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng.
Việc quản lý và sử dụng nguồn lực con người khó khăn phức tạp hơn nhiều so
với các nguồn lực khác bởi con người là một thực thể sinh vật - xã hội, rất nhạy cảm
với những tác động qua lại của mọi mối quan hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội diễn ra trong
môi trường sống của họ.
Theo David Begg: “Nguồn nhân lực là toàn bộ quá trình chuyên môn mà con
người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong tương
lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là kết quả đầu tư trong quá
khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương lai”. [4, tr.282]
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao
động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các
mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những
người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được
yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH”. [7, tr.269]

Theo TS. Nguyễn Hữu Dũng: “Nguồn nhân lực được xem xét dưới hai góc độ
15


năng lực xã hội và tính năng động xã hội. Ở góc độ thứ nhất, nguồn nhân lực là nguồn
cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng
tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm
năng giúp định hướng phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo không ngừng nâng cao
năng lực xã hội của nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ.
Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó
phải chuyển nguồn nhân lực sang trạng thái động thành vốn nhân lực, tức là nâng cao
tính năng động xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và giải phóng
triệt để tiềm năng con người. Con người với tiềm năng vô tận nếu được tự do phát
triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được trả đúng giá trị lao động thì tiềm năng vô tận
đó được khai thác phát huy trở thành nguồn vốn vô cùng to lớn“.[3, tr 20]
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa
phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (Thể lực, trí lực,
nhân cách) và tính năng động xã hội của con người thuộc các nhóm đó, nhờ tính thống
nhất mà nguồn lực con người biến thành nguồn vốn con người đáp ứng yêu cầu phát
triển.
Nguồn nhân lực, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rộng rãi bao gồm các yếu
tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính năng
động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hoá.
Như vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn thuần
là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ,
tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả
năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Khái niệm "nguồn nhân lực" (Human Resoures) được hiểu như khái niệm
"nguồn lực con người". Khi được sử dụng như một công cụ điều hành, thực thi chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi

lao động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có tham gia lao
động - hay còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của nguồn lao động gồm toàn bộ
những người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu cầu lao động được gọi là
lực lượng lao động.
Xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác nhau về
nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội dung cơ bản: nguồn
16


nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con người với tư cách là yếu tố
cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô
tận của sự phát triển không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay chất
lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận dân số
trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức mạnh
trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Vì vậy, có thể định nghĩa: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất
lượng con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất
đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang
và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Với tư cách là tiềm năng lao động của mỗi vùng, miền hay quốc gia thì nguồn
nhân lực là tài nguyên cơ bản nhất.
Nguồn nhân lực chất lượng cao
Với quan điểm như trên sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân lực
chất lượng cao. Về định lượng: nguồn nhân lực chất lượng cao là những người lao
động đã qua đào tạo, có bằng cấp và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Như vậy, những
người không qua trường lớp đào tạo nào, nhưng có khả năng đặc biệt, đáp ứng được
những yêu cầu phức tạp của công việc lại không được tính là lao động chất lượng cao
(chẳng hạn như nghệ nhân). Trong khi đó, một số người đã qua đào tạo, nhưng không
đáp ứng được yêu cầu của công việc tương ứng với trình độ đào tạo vẫn được xem là
nhân lực có chất lượng cao.Về định tính: nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ

phận của lực lượng lao động, có khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của công
việc, tạo ra năng suất và hiệu quả cao, có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển xã
hội. Tiếp cận theo góc độ này sẽ gặp khó khăn trong việc thống kê, quản lý và phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ở Việt Nam, cụm từ nguồn nhân lực chất lượng cao mới được để cập nhiều từ
khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và chính thức được nhắc
đến trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam
để khẳng định sự hiện diện của một bộ phận nhân lực đầu tàu trong quá trình phát triển
đất nước: “Thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”. [46, 335]
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta lại khẳng định: Phát triển,
17


nâng cao chất lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong
những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bề vững đất nước. Theo tinh thần Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI, nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận ưu tú nhất của
nguồn nhân lực đất nước, bao gồm những người tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo
đức và lối sống; có trình độ học vấn, chuyên môn cao; có sức khỏe tốt (theo độ tuổi);
luôn đi đầu trong lao động, sáng tạo khoa học, đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là những “cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội
ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học
công nghệ đầu đàn”.[47, 128].
Ngoài ra, còn có rất nhiều cuộc hội thảo, nghiên cứu đưa ra cách nhìn nhận
về nguồn nhân lực chất lượng cao. Chẳng hạn như: Nguồn nhân lực chất lượng cao
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; nhân
lực khoa học công nghệ, là những người có trình độ đại học, cao đẳng trở lên và nhóm
công nhân kỹ thuật chất lượng cao.
Nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những nhân lực có trình độ đại học, cao
đẳng; nguồn nhân lực lãnh đạo quản lý và hoạch định chính sách, nguồn nhân

lực khoa học công nghệ, đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng.
Như vậy thì nguồn nhân lực chất lượng cao phải được xem xét trên tất cả các
khía cạnh hình thành chất lượng nguồn nhân lực: thể lực, trí lực, tâm lực. Như cách
nhìn nhận, đánh giá nguồn nhân lực có phải là nguồn nhân lực chất lượng cao hay
không là cách đánh giá toàn diện trên tất cả các khía cạnh. Đảm bảo gắn với kết
quả lao động.
Sự phát triển của phân công lao động có quan hệ chặt chẽ với quá trình phát
triển của khoa học công nghệ. Từ đó kéo theo sự hình thành các nguồn nhân lực khác
nhau theo hướng phát triển của phân công lao động xã hội.
Tựu chung lại, nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm chỉ những người
lao động cụ thể, có trình độ lành ngành (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành
nghề cụ thể, theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định
(cao đẳng, đại học, trên đại học, lao động kỹ thuật lành nghề); có kỹ năng lao động
giỏi và khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ
sản xuất kinh doanh; có sức khỏe và phẩm chất tốt; có khả năng vận dụng sáng tạo
những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất
18


nhằm đem lại năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả cao.
1.2.2. Nguồn nhân lực nữ, nguồn nhân lực nữ chất lượng cao
Nguồn nhân lực nữ
Nếu con người là nguồn lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội thì phụ nữ là bộ phận cơ bản cấu thành nguồn lực ấy.
Hiểu theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực nữ bao gồm bộ phận dân số nữ có khả
năng tham gia vào quá trình lao động xã hội. Hay nói cách khác, nhân lực nữ được
hiểu không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động nữ đã có và sẽ có mà còn bao gồm sức
mạnh trí tuệ, thể chất, tinh thần của các cá nhân nữ trong một cộng đồng, quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực nữ với tư cách là lực lượng lao động của xã
hội, bao gồm nhóm phụ nữ trong và trên tuổi lao động trở lên có khả năng lao động.
Pháp luật Việt Nam quy định độ tuổi lao động đối với nữ trong khoảng nhỏ hơn của độ

tuổi lao động nam (nữ từ đủ 15 đến hết 55 tuổi, nam từ đủ 15 đến hết 60 tuổi) nên mặc
dù dân số nữ thường xuyên cao hơn (thường chiếm trên 51% dân số) song, lực lượng
lao động nữ thường chiếm tỷ lệ nhỏ hơn (khoảng 49% lao động xã hội).
Nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ cần chú ý đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, việc quan niệm nguồn nhân lực nữ (rộng hay hẹp) chỉ mang tính chất
tương đối, phụ thuộc vào phạm vi điều chỉnh của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Còn với tư cách là phần nửa dân số và lực lượng lao động xã hội, vừa là người trực
tiếp tái sản xuất ra nguồn nhân lực cho đất nước, phụ nữ luôn là vấn đề lớn đối với
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của bất kỳ quốc gia nào.
Thứ hai, nghiên cứu nguồn nhân lực nữ đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận
đúng đắn. Phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu ở đây là xem xét mối quan
hệ giữa cái chung (con người) và cái riêng (giới nam, giới nữ). Điều này là do chính
đặc điểm của đối tượng nghiên cứu quy định.
Là con người, nam giới và phụ nữ giống nhau - đều vừa là thực thể tự nhiên vừa
là thực thể xã hội - nhưng họ có khác biệt về mặt tự nhiên - sinh học của cơ thể.
Những đặc điểm sinh học về giới tính là bẩm sinh và không thể thay đổi được. Từ
những đặc điểm sinh học, xét về mặt xã hội, phụ nữ đảm nhiệm chức năng xã hội khác
nam giới, đó là chức năng trực tiếp tái sản xuất ra con người. Từ đó nảy sinh những
khó khăn, thuận lợi khác nhau giữa giới nam và giới nữ trong học tập, làm việc, sinh
19


×