Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

“Phân tích vai trò của thực tiễn đối với lý luận, liên hệ vấn đề này ở Việt Nam hiện nay”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.42 KB, 11 trang )

I.

MỞ ĐẦU

Có thể nói, lý luận và thực tiễn là hai phạm trù thường xuyên được đề cập đến trong các
hoạt động của con người. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, vừa
thống nhất, vừa đối lập và nó là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
nói chung và của lý luận nhận thức Mác xít nói riêng. Trong sự thống nhất và đối lập đó, thực
tiễn có vai trò quyết định đối với lý luận. Với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn vấn đề này,
Nhóm 10 đã chọn đề tài “Phân tích vai trò của thực tiễn đối với lý luận, liên hệ vấn đề này
ở Việt Nam hiện nay”.
II.

NỘI DUNG

II.1. Khái quát về lý luận và thực tiễn
2.2.1.Khái niệm thực tiễn
Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử – xã
hội của con người làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
Tính vật chất trong hoạt đông thực tiễn: Khác với các hoạt động khác, hoạt động thực
tiễn là loại hoạt động có mục đích của xã hội. Con người sử dụng những công cụ vật chất tác
động vào những đối tượng vật chất nhất định làm biến đổi chúng theo mục đích của mình.
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang tính chất phê
phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ sở để phân biệt hoạt
động thực tiễn với hoạt động lý luận của con người.
Tính chất lịch sử xã hội của hoạt động thực tiễn: Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau,
hoạt động thực tiễn diễn ra khác nhau và thay đổi về phương thức hoạt động. Đó là những
hoạt động đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách
quan và không ngừng phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy, hoạt
động thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang tính chất sáng tạo và có tính mục
đích, tính lịch sử - xã hội. Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối


quan hệ muôn vẻ, vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người trong
quá trình sản xuất vật chất và tinh thần, cũng là phương thức cơ bản của sự tồn tại xã hội của
con người.
Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể,
trong đó chủ thể với tính tích cực của mình làm biến đổi khách thể. Trong quá trình này
không chỉ biến đổi khách thể, mà còn làm biến đổi ngay cả bản thân chủ thể.
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú. Trong có ba
hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động
1


thực nghiệm khoa học. Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan
trọng khác nhau, không thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động
qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai
trò quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác.
2.2.2 Khái niệm lý luận
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong thế
giới và được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”1.
Lý luận có những đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lôgíc chặt chẽ.
Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Không có tri thức
kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận.
Tri thức kinh nghiệm là kết quả của quá trình nhận thức kinh nghiệm, thu nhận được từ
quan sát và thí nghiệm. Tri thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn – từ lao
động sản xuất, đấu tranh xã hội hoặc thí nghiệm khoa học. Có hai loại tri thức kinh nghiệm:
Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu được từ những quan sát hàng ngày
trong cuộc sống và trong lao động sản xuất và tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được

từ những thí nghiệm khoa học. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng tri thức kinh nghiệm vẫn có
vai trò không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của con người. Chính kinh nghiệm là cơ
sở để chúng ta kiểm tra lý luận, sửa đổi, bổ sung lý luận đã có, tổng kết khái quát thành lý
luận mới. Chính vì vậy, không thể coi thường tri thức kinh nghiệm, song cũng không thể
cường điệu tri thức kinh nghiệm, không nên dừng lại ở trình độ kinh nghiệm mà cần phát
triển lên trình độ lý luận.
Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Lý luận hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng nó không
hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát
từ kinh nghiệm. Lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại sự hiểu biết sâu
sắc hơn về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Lý luận thể hiện

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.497.

2


tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn và
do đó, phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.
II.2. Phân tích vai trò của thực tiễn đối với lý luận
2.2.1Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận:
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận đồng thời là tiêu
chuẩn để kiểm tra nhận thực, lý luận. Thực tiễn là nguồn gốc cơ sở sinh ra lý luận, nến không
có thực tiễn thì không có lý luận, thực tiễn cao hơn lý luận không những ở tính phổ biến mà
còn ở tính hiện thực trực tiếp.
Sự phản ánh vượt trước của lý luận qua nỗ lực sáng tạo của những thiên tài ở những giai
đoạn lịch sử nhất định xét cho đến cùng thì cái làm nên sự vượt trước ấy cũng đã được nảy

mầm từ mảnh đất thực tiễn sinh động, đều do thực tiễn gợi ý mách bảo.
Chỉ có thông qua thực tiễn con người mới vật chất hóa dược lý luận vào đời sống hiện
thực. Lý luận không có sức mạnh tự thân mà chỉ có thông qua thực tiễn thì lý luận mới phát
huy tác dụng, mới tham gia vào quá trình biến đổi hiện thực.
Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với lý luận, Lênin viết: "Thực tiễn cao hơn nhận thức,
lý luận. Vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà còn của tính hiện thực trực tiếp".
Vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn:
Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận khoa học và
ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa học, phản
động, lạc hậu.
Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ
đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi". Lý luận
đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của
thế giới khách quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn,
tránh được những sai lầm, vấp váp.
Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh vật chất,
điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác, chủ động,
tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò mẫm, tự phát.
3


Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tương
lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá
giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có
những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu
không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương lai là chức năng quan
trọng của lý luận.
Lý luận cách mạng có vai trò to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin cho rằng:
"Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng". Mác thì nhấn mạnh:

"Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng vật chất".
Vai trò của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn mới của thời
đại ngày nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức tạp, cùng
với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Ph.
Ăngghen chỉ ra rằng: một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có
tư duy lý luận.
Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ nghĩa xã hội
trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa
xã hội nói chung, cụ thể là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trước đây.
Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Theo quan điểm Mác xít, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau mà giữa chúng có sự
liên hệ, xâm nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận và thực tiễn
trong qúa trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn
CM và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các
lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm
nghiệm, bổ sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có vai trò cải tạo thế giới chứ không chỉ
giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng đã
tìm thấy ở giai cấp vô sản vũ khí vật chất của mình và giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học
Mác – Lênin vũ khí tinh thần của mình.
Lênin từng nhắc nhở những người cộng sản ở các nước phải biết cụ thể hóa chủ nghĩa
Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Lý luận cần phải
được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động.
4


Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản của
triết học Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng.
Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" hoặc "Có kinh nghiệm mà không có

lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ".
II.2.1. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ những phân tích về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, có thể rút ra được một số
ý nghĩa phương pháp luận chung như sau:
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng quy luật
khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan, hành động tuân theo quy luật khách quan.
Không được lấy ý muốn chủ quan thay cho điều kiện khách quan.
Thứ hai, phải thấy được vai trò tích cực của ý thức, tinh thần để sử dụng có hiệu quả các
điều kiện vật chất hiện có. Nghĩa là, phải biết động viên tinh thần, phát huy vai trò tích cực,
chủ động, sáng tạo của ý thức, tinh thần vượt khó vươn lên, v.v.
Thứ ba, cần tích cực chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, tuyệt đối hoá vai trò của ý thức,
của ý chí, cho rằng, ý chí, ý thức nói chung có thể thay được điều kiện khách quan, quyết
định điều kiện khách quan.
Bên cạnh đó, việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa
vô cùng quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và
rút ra được những quan điểm đúng đắn trong nhận thức và cuộc sống.
Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm; nhận thức và hành động chỉ
dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý luận, không chịu học hỏi để vươn
lên, không coi trọng việc tổng kết thực tiễn để khái quát hóa thành lý luận. Căn bệnh này thể
hiện ở việc “chỉ biết tối ngày vùi đầu vào công tác sự vụ”, ít đào sâu suy nghĩ, coi thường lý
luận, không chịu vận dụng lý luận để giải quyết những vấn đề thực tiễn, chỉ biết áp dụng kinh
nghiệm một cách máy móc, thiếu sáng tạo, hiệu quả thấp.
Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận; nhận thức và hành động chỉ dựa vào lý
luận, coi lý luận là “chìa khóa vạn năng” cho tư duy và hành động. Khi giải quyết những vấn
đề thực tiễn, không suy xét đến điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà chỉ áp dụng lý luận một cách
cứng nhắc, đôi khi là không phù hợp với thực tiễn cụ thể, khiến cho việc giải quyết rơi vào bế
tắc. Căn bệnh này thể hiện ở chỗ coi tri thức là chân lý tuyệt đối, tách rời lý luận khỏi thực tiễn,
rơi vào bệnh lý suông, không biết cụ thể hóa lý luận sao cho phù hợp và có hiệu quả.
5



Để khắc phục hai căn bệnh trên, cần phải đảm bảo mối quan hệ biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn, mọi hoạt động nhận thưc cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn; đồng
thời nâng cao vai trò của lý luận, vận dụng lý luận một cách năng động, sáng tạo và phù hợp
với mỗi điều kiện thực tiễn khác nhau. Cụ thể:
Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận
thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển
khai lý luận một cách đúng đắn, có hiệu quả, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ
sung, phát triển lý luận một cách toàn diện. Việc nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn,
học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn giấy, sách vở, xa vời thực tế. Đồng thời,
cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Điều này đòi hỏi phải nâng cao trình
độ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy cho toàn Đảng, toàn dân; nghĩa là chuyển từ
tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng
duy vật, đổi mới công tác lý luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt
ra, làm rõ những căn cứ khách quan của đường lối chính sách của Đảng.
2.3. Sự vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay
2.3.1. Trước thời kì đổi mới
Ngay sau khi giải phóng, Đảng và Nhà nước ta đã bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng
đất nước về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục... với mục tiêu nhanh chóng thiết
lập thành công chế độ xã hội chủ nghĩa. Học tập theo mô hình xã hội chủ nghĩa của Liên Xô,
đất nước ta xem kế hoạch hóa tập trung là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ
nghĩa; không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân.
Thời kì này, Đảng và nhà nước đã áp dụng một chế độ chính trị và kinh tế quá cao trong khi
các điều kiện về tư liệu sản xuất và lực lượng sản xuất còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Bởi xuất phát điểm của nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua nhiều
cuộc chiến tranh khốc liệt nên nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ của lực lượng sản
xuất còn thấp. Vì thế, việc rập khuôn máy móc lý luận vào thực tiễn này đã khiến đất nước ta
lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Nền kinh tế vận động thiếu năng động, kém hiệu
quả và mất cân đối. Đời sống người dân thiếu thốn, khó khăn làm cho lòng tin vào Đảng và

Nhà nước giảm sút.
Để xảy ra hiện tượng này, nguyên nhân chính là do nước ta chưa nhận thức đầy đủ lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa gắn lý luận với
điều kiện, hoàn cảnh thực tế ở nước ta nên đã chủ quan, nóng vội, bỏ qua những bước đi cần
6


thiết, lâm vào bệnh giáo điều. Với khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của lý luận, tách rời lý
luận với thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể. Vì thế, yêu cầu đặt ra cho thời kì này là
phải chú trọng tới hoàn cảnh điều kiện cụ thể của đất nước và vận dụng lý luận một cách sáng
tạo, mềm mỏng sao cho phù hợp. Chỉ khi lý luận phù hợp với thực tiễn thì đất nước mới phát
triển ổn định, bền vững.
2.3.2. Sau thời kì đổi mới
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta với tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý
luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề vào điều kiện cơ bản
làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà
có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa,
thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức của lý luận. Phải trải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm,
mới có cơ sở để khái quát thành lý luận.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ lý
luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của mình,
cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tự duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và áp dụng vào thực
tiễn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta về những nội dung sau:
-

Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực kinh tế

Từ đại hội VI, Đảng ta đã tập trung xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, mô hình kinh tế tập
trung quan liêu, bao cấp.

Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó quá trình sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì vậy, kinh tế thị trường
không chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những
quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ gồm lực lượng sản xuất mà còn cả một hệ thống sản
xuất. Như vậy, rõ ràng là không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, trừu tượng tách
rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật
của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối của các nhân tố định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo tinh thần của các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần thứ VI đến lần thứ X định
hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường thể hiện ở các nội dung: Thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát
triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo phát triển kinh
7


tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong tó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; thực hiện tiếng bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển, tăng trưởng kinh tế gắn liền vơi sphats triển văn hóa, y tế, giáo dục…. giải quyết tốt các
vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam.
Một số thành thành tựu đổi mới trong nước với thực hiện chính sách mở cửa, tích cực
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt
Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới, từ mội quốc gia bị phong tỏa, cấm
vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng cửa”, sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã
vươn mạnh ra thế giới. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và
vùng lãnh thổ; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài
ra, Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, điều
đáng nói nhất là năm 2007, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 10 của Tổ chức

Thương mại thế giới (WTO).
-

Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực chính trị
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và trực tiếp nhưng Đảng không làm thay Nhà nước,
không được sử dụng quyền lực Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước ban hành luật pháp
nhưng Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; Đảng giữ vai trò lãnh
đạo chính trị không có nghĩa là chỉ đạo chung chung, chỉ dừng ở việc đề ra cương lĩnh,
đường lối chung, không thể không quyết định những chủ trương, chính sách lớn liên quan
đến sự phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị đến quốc phòng, an ninh và quan hệ đối
ngoại của quốc gia, đến công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị, đến đời sống chung của
các tầng lớp nhân dân.
Trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu trúc của hệ
thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân,
đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp,
kinh doanh, dịch vụ xã hội… Đảng không quản lý trực tiếp các tổ chức này nhưng có liên hệ
mật thiết với các tổ chức đó. Đường lối, chính sách của Đảng có được xây dựng và thực thi
tốt hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các thành
viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến vai trò và sự tác động của các tổ chức xã hội.
Tất cả các tổ chưc Đảng, đoàn thể ở cơ sở phải thật sự gần dân, tin dân, trọng dân, nghe
dân; các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở phối hợp hoạt động chặt chẽ, đồng bộ, phát
8


động được các phong trào cách mạng tích cực đổi mới, như vậy thì sẽ khơi dậy mạnh mẽ
tiềm năng con người, đất đai, ngành nghề, ý chí chính trị và truyền thống văn hóa và hiện đại
hóa đất nước.
Thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là thiết thực thực hiện nguyên lý của chủ nghĩa
Mác – Lê nin, đó là cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là đem lợi dạy của Hồ Chí Minh:
đem chính trị vào giữa dân, cơ sở là nơi Đảng và chính quyền sống trong lòng dân, là cầu nối

giữa Đảng, chính phủ với dân.
Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực văn hóa
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế
giới quan Mác – Lê nin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống
tinh thần xã hội.
Đảng ta khẳng định nền văn hóa nước ta là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc và từng bước làm rõ các nội hàm của các khái niệm “tiên tiến”, “đậm đà bản sắc
dân tộc”. “Tiên tiến” là yêu nước tiến bộ, mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả
vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong
mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Nền văn hóa Việt Nam đang xây dựng là một nền văn hóa thống nhất mà đa dạng của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em
được kế thừa và phát triển góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất
trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét mới trong
chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước được hình thành. Các tài năng văn
hóa – nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa được giữ gìn, tôn tạo. Hệ thống
sản phẩm văn hóa góp phần trực tiếp vào sự phát triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của
nền kinh tế quốc dân. Hoat động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa thực sự khởi sắc, góp
phần làm cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, văn hóa được bạn bè
thế giới hiểu biết hơn.
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong
nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ trí thức, đạo đức, thế lực và thẩm mỹ
ngày càng cao, chống tư tưởng, văn hóa tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
-

Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực xã hội
9



Trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, bên cạnh việc tập trung vào xây dựng nền
văn hóa mới, Đảng ta rất coi trọng việc phát triển một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đảng ta xác định rõ các nhiệm vụ và giải pháp có tính chất toàn diện và tổng thể chiến lược
phát triển xã hội, từ công tác kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động,
thực hiện công bằng xã hội…đến thực hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được đảm bảo đầy đủ. Hiện nay, hơn 20 triệu tín đồ
thuộc các tôn giáo được tự do thực hiện các hoạt động tôn giáo. Quyền của đồng bào các dân
tộc thiểu số không những được pháp luật bảo vệ mà còn được Nhà nước chăm sóc, giúp đỡ
thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội cho các vùng khó khăn, thông qua các
chính sách xã hội, văn hóa như hệ thống trường dân tộc nội trú…
Thực tiễn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn: Đất nước ta đã
ra hỏi khủng hoảng kinh tết – xã hội, có sự thay đổi toàn diện và cơ bản, đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường, giữ vững an ninh, đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam.
Sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, có thể nói rằng mỗi Đại hội Đảng là một
dịp để Đảng và Nhà nước ta tổng kết thực tiễn, nâng tầm lý luận, làm căn cứ cho việc hoạch
định đường lối, chính sách phù hợp cho từng giai đoạn. Những thành tựu tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính
sách của Đảng; góp phần vào những thành công rất to lớn của Đảng và nhân dân ta trong
công cuộc đổi mới, tạo thế và lực mới cho đất nước.
Lý luận đổi mới ở nước ta ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tác động trở lại
thực tiễn. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành cơ sở khoa
học cho việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng, cho việc quản lý của Nhà nước. Tuy
nhiên, thực tế công tác lý luận ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập. Lý luận vẫn còn tình
trạng tách rời thực tiễn, chưa sâu sắc và nhạy cảm để phát triền những mâu thuẫn và tình
huống có vấn đề trong quá trình đổi mới. Chính vì vậy, chưa bao giờ lý luận lại cần thiết và
có tầm quan trọng như hiện nay.

Đảng ta cũng đưa ra những phương hướng, giải pháp để phát triển lý luận, đó là: phát
hiện, ủng hộ và nhân rộng những nhân tố mới, qua thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề mới,
bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối”, “chú trọng nâng cao tính khoa học, tính thực
tiễn và sức mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý
luận. Sớm xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận”.
10


Tóm lại, từ những phân tích trên cho thấy rõ phải coi trọng lý luận nhưng không được
cường điệu vai trò của lý luận coi thường thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động
cách mạng. Cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bậc của xã hội loài
người có sự đóng góp của lý luận đích thực. Tuy nhiên, lý luận phải gắn với thực tiễn, phải
được kiểm tra, đúc kết, khái quát từ thực tiễn thông qua việc tổng kết thực tiễn. Trong công
cuộc xây dựng XHCN ở nước ta khi đất nước nảy sinh những vấn đề cần được giải đáp về
mặt lý luận. Đảng ta đã đứng trên quan điểm, phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh để xem xét. Hàng loại các vấn đề từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội… không thể giải quyết bằng lý luận mà đòi hỏi Đảng ta phải thực hiện thông qua thực
tiễn, tổng kết thực tiễn, chỉ có như vậy công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội của ta mới giảm
bớt chông gai, gập ghềnh.
III.

KẾT LUẬN

Trải qua nhiều thay đổi về đường lối quản lý, hiện nay nền kinh tế nước ta đã tìm được
hướng đi đúng mặc dù vẫn còn không ít sai lầm cần sửa đổi. Đạt được những thành tựu như
vậy là do Đảng và Nhà nước ta đã đi từ thực tiễn hoàn cảnh đất nước để đưa ra được những
lý luận đúng đắn làm cơ sở cho việc ban hành các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp. Qua
đây ta có thể nhìn nhận được rõ hơn vai trò quan trọng của thực tiễn đối với lý luận trong mối
quan hệ chặt chẽ vừa có sự thống nhất, vừa có sự đối lập giữa chúng, và từ đó có thể vận
dụng, liên hệ vấn đề này để góp phần phát triển kinh tế, xã hội nước ta hiện thời và trong

tương lai.

11



×