Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty bảo hiểm quân đội hà nội giai đoạn 2012 2016 và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.97 KB, 78 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BH

Bảo hiểm

BHTNDS

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự

KDBH

Kinh doanh bảo hiểm

TNDS

Trách nhiệm dân sự

TMCP

Thương mại cổ phần

11


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

22



LỜI MỞ ĐẦU
Xe cơ giới là một phương tiện không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại
ngày nay của con người. Nó vừa là phương tiện đi lại vừa là công cụ để kinh
doanh. Cuộc sống ngày càng phát triển, đời sống của người dân càng nâng
cao thì nhu cầu về phương tiện này lại càng lớn. Hiện nay, số lượng xe máy
và số lượng ô tô ở việt Nam tăng lên nhanh chóng. Với khí hậu mưa nhiều,
bão lũ, úng ngập xảy ra liên tục như ở Việt Nam, giao thông phức tạp, chuyện
hỏng xe, chết máy, xước sơn vỏ xe, tai nạn giao thông xảy ra là điều không
hiếm. Điều này gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế cho chủ nhân của chiếc xe
máy hay xe ô tô. Đồng thời với điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông và ý thức
chấp hành luật lệ an toàn giao thông của người dân hiện nay rất còn hạn chế.
Do vậy khi tham gia giao thông nguy cơ gây ra tại nạn là không thể tránh khỏi
đối với bất kỳ ai.
Để giúp đỡ phần nào mọi người thoát khỏi tình trạng khó khăn, giảm
thiểu chi phí sửa chữa xe, cũng như giảm bớt những thiệt hại khi xảy ra tai nạn
của chủ xe cơ giới, công ty Bảo hiểm Quân đội Hà Nội gọi tắt là MIC Hà Nội đã
triển khai hai loại hình bảo hiểm đó là: Bảo hiểm vật chất xe cơ giới và Bảo
hiểm Trách Nhiệm Dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Đây là
những loại hình nghiệp vụ không chỉ đem lại lợi ích cho chủ nhân mỗi chiếc xe
khi có tổn thất xảy ra mà còn đem lại sự công bằng cho xã hội khi giúp người
gây ra tại nạn thực hiện nghĩa vụ bồi thường của mình theo đúng quy định của
pháp luật và đặc biệt nó cũng mang lại nguồn doanh thu lớn cho MIC.
Dù có kinh nghiệm nhiều năm trong việc kinh doanh hai loại hình bảo
hiểm xe cơ giới này, tuy vậy việc kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe
cơ giới và bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba của MIC cũng
còn nhiều điều tồn tại hạn chế cần phải khắc phục. Nhất là trong bối cảnh hiện
nay các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ xuất hiện ngày càng nhiều trên
thị trường và đều triển khai hai loại hình bảo hiểm xe cơ giới này, MIC muốn
vươn lên chiếm vị trí cao, khẳng định tên tuổi của mình trên thị trường, thu hút

khách hàng quan tâm đến sản phẩm của mình, cần phải có sự thay đổi, hoàn
thiện hơn nữa việc kinh doanh nghiệp vụ qua các khâu từ khai thác, đề phòng
hạn chế tổn thất, giám định và bồi thường. Xuất phát từ thực trạng trên, em xin
viết về đề tài “ Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới
và Bảo hiểm Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại
công ty Bảo Hiểm Quân Đội Hà Nội giai đoạn 2012-2016 và giải pháp”
33


1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và
bảo hiển TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba.
Làm rõ tình hình triển khainghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và
Bảo hiểm Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại
công ty Bảo Hiểm Quân Đội Hà Nội
Đánh giá mặt đạt được và hạn chế còn tồn tại khi triển khai những loại
hình nghiệp vụ bảo hiểm này tại Bảo hiểm Quân đội Hà Nội. Từ đó, đưa ra
các giải pháp và khuyến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa việc triển khai nghiệp
vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với
người thứ batại doanh nghiệp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và bảo
hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty Bảo hiểm
Quân Đội Hà Nội
2.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi công ty Bảo hiểm Quân đội Hà Nội
giai đoạn 2012-2016
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiến hành tổng hợp và phân tích số liệu theo các chỉ tiêu để làm rõ tình

hình thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và và bảo hiểm TNDS
của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty.
4. Nội dung chính của khóa luận
Ngoài phần mở đầu kết thúc, Khóa Luận tốt nghiệp có kết cấu gồm 3
chương:
Chương I . Lý luận chung về nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới và
bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với người thứ ba
Chương II. Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ
giới và bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với người thứ ba tại công ty Bảo Hiểm
Quân Đội Hà Nội giai đoạn 2012-2016.
Chương III. Một số giải pháp và khuyên nghị nhằm nâng cao hiệu quả
triển khai nghiệp vụ vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và bảo hiểm TNDS của
chủ xe đối với người thứ ba tại công ty Bảo Hiểm Quân Đội Hà Nội
Vì kiến thức lí luận và thực tế có hạn nên bài viết không thể tránh được
những sai sót, khiếm khuyết. Vì vậy, rất mong nhận được sự góp ý từ phía
thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn cô Ths.Nguyễn Thị Thía đã giúp
đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.

44


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI VÀ
BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
1.1. Sự cần thiết khách quan của BH vật chất xe cơ giới và BHTNDS của
chủ xe cơ giới đối vơi người thứ 3
Theo ước tính hàng năm trên thế giới có hàng vụ tai nạn xe cơ giới xảy
ra, phá hủy số lượng lớn tài sản. Phương tiện giao thông , làm bị thương và
chết hàng triệu người gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế quốc dân. Do đặc điểm
của giao thông đường bộ sử dụng nhiều loại hình xe cơ giới, số lượng xe hoạt

động ngày càng tăng và số lượng vụ tai nại cũng ngày càng tăng lên và ngày
càng nghiêm trong đôi khi mang tính thảm họa. Mặc dù nhà nước đã có nhiều
biện pháp ngăn ngừa, người tham gia cũng có ý thức hơn xong các vụ tại nạn
xảy ra giảm không đáng kể.
Hậu quả của các vụ tai nạn xảy ra không chỉ là mối lo ngại của các chủ
xe , nạn nhân mà của toàn xã hội. Các chủ xe không chỉ phải đối mặt với
những nguy cơ rủi ro về sức khỏe, tài sản , tính mạng của mình mà còn mà
còn phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với người khác. Đôi khi những rủi ro
gây tổn thất này muốn khắc phục triệt để thì bảo hiểm xe cơ giới là biện pháp
hữu hiệu nhất hiện nay.
Trong cuộc sống rủi ro có thể xảy ra không loại trừ một ai, đặc biệt khi
tham gia giao thông mức độ rủi ro lại ngày càng lớn. Thực tế là do xe cơ giới
có tính cơ động cao, việt dã tốt, tham gia triệt để quá trình vận chuyển, sắc
suất rủi ro đã lớn lại ngày càng lớn hơn so với các phương tiện vận tải khác .
Trong quá trình hoạt động xe cơ giới không chỉ gây ra tại nạn cho chính
bản thân mình, mà còn gây tai nạn thiệt hại cho người thứ 3, vì vậy tính chất
thiệt hại rất lớn. Mặt khác khi gây tại nạn các chủ xe thường bỏ chạy, chốn
tránh trách nhiệm của mình . Thấy rõ được sự cần thiết của bảo hiểm xe cơ
giới đặc biệt là bảo hiểm vật chất và BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với
người thứ 3 nên ở một số quốc gia nhà nước quy định bắt buộc người điều
khiển phương tiện giao thông phải mua bảo hiểm cho chiếc xe của mình.
Tham gia giao thông là hoạt động không thể thiếu của mỗi con người,
đó là một trong bốn nhu cầu tất yếu: ăn ,mặc, ở, đi lại. Rủi ro trong giao thông
luôn xuất hiện bất ngờ không lường trước được khi nào xảy ra rủi ro. Vì vậy
mua bảo hiểm khi tham gia giao thông là việc làm vô cùng cần thiết và hữu
ích .
55


a)


1.2 Tác dụng của bảo Bh vật chất xe và BHTNDS của chủ xe cơ giới đối
với người thứ 3
Đối với chủ xe
Góp phần ổn định kinh doanh, ổn định cuộc sống cho các chủ phương
tiện. Chủ phương tiện giao thông vận tải khi tham gia bảo hiểm sẽ nộp cho
nhà bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm, các khoản phí này sẽ hình
thành quỹ tiền tệ tập trung. Như vậy, khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi
bảo hiểm, ng ty bảo hiểm thông qua hoạt động nghiệp vụ của mình, sử dụng
nguồn quỹ bảo hiểm tiến hành bồi thường cho chủ xe một cách nhanh chóng
để giúp chủ xe có điều kiện nhanh chóng khắc phục hậu quả tai nạn, giảm bớt
gánh nặng tài chính do không phải chi ra những khoản chi phí bất thường như
chi phí cẩu kéo, chi phí sửa chữa, thay thế…Điều đó sẽ giúp cho các chủ
phương tiện giao thông vận tải khắc phục được những- khó khăn về mặt tài
chính, giúp họ ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh của mình. Đây cũng
là tác dụng đặc trưng của bảo hiểm.
BHTNDS của chủ xe cơ giới không chỉ có vai trò to lớn đối với người
bị thiệt hại mà cũng cả xã hội, nó là tấm lá chắn vững chắc cho các chủ xe khi
tham gia giao thông.
Tạo tâm lý yên tâm, thoải mái, tự tin, khi điểu khiển các phương tiện
tham gia giao thông.
Bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ xe khi phát sinh TNDS, trong đó
có lỗi của chủ xe thì công ty bảo hiểm nơi mà chủ xe tham gia ký kết bảo
hiểm tiến hành bồi thường nhanh chóng để các chủ xe phục hồi lại tinh thần,
ổn định sản xuất., phát huy quyền tự chủ về tài chính, tránh thiệt hại về kinh
tế cho chủ xe.
Có tác dụng giúp cho chủ xe có ý thức trong việc đề ra các biện pháp
hạn chế, ngăn ngừa tai nạn bằng cách thông qua bảo hiểm TNDS của chủ xe.
Gúp phần xoa dịu, làm giảm bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị
nạn. Đây là mục đích cao cả trong nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe đối

với người thứ ba.
b) Đối với xã hội
Góp phần ngăn ngừa và đề phòng hạn chế tổn thất
Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình mà khách hàng chỉ có thể nhận
được khi gặp rủi ro dẫn đến tổn thất. Nếu rủi ro xảy ra dẫn đến tổn thất thuộc
phạm vi bảo hiểm thì nhà bảo hiểm sẽ bồi thường cho khách hàng. Mục tiêu
lớn nhất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là tạo ra lợi nhuận. Theo đó, các
doanh nghiệp bảo hiểm muốn có lợi nhuận cao thì chi phí phải giảm, mà
66


-

-

khoản chi cho bồi thường là khoản chi lớn nhất của các doanh nghiệp. Trên cơ
sở đó các doanh nghiệp đã đề ra các biện pháp nhằm giúp cho khách hàng của
mình đề phòng và hạn chế tổn thất có thể xảy ra. Các doanh nghiệp bảo hiểm
phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường giáo dục cho nhân dân ý thức
chấp hành luật lệ giao thông, tham gia vào các hoạt động tuyên truyền phổ
biến kiến thức pháp luật về an toàn giao thông đến từng người dân. Ngoài ra
các doanh nghiệp bảo hiểm còn dùng quỹ nhàn rỗi của mình vào việc xây
dựng, cải tạo hệ thống đường xá, lắp đặt các hệ thống đèn tín hiệu, dải phân
cách nhằm hạn chế các tai nạn giao thông đáng tiếc có thể xảy ra.
Góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước và tạo thêm việc làm cho người
lao động
Như chúng ta đã biết, người tham gia bảo hiểm đóng một khoản phí bảo
hiểm tạo thành nguồn quỹ bảo hiểm lớn, ngoài việc chi trả, bồi thường nguồn
quỹ này còn là một nguồn vốn lớn đầu tư phát triển kinh tế đất nước. Ở một
số nước phát triển như Mỹ, nguồn vốn mà các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư

vào nền kinh tế thường cao, đứng thứ hai chỉ sau các ngân hàng thương mại
và cung cấp khoảng 10% tổng quỹ đầu tư của thị trường tiền tệ và vốn. Từ đó
bảo hiểm đã góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước và tạo thêm nhiều
công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã
hội.
Góp phần huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế xã hội
Khi mà khách hàng đóng một khoản phí cho các doanh nghiệp bảo
hiểm lập thành một quỹ chung. Trong khi đó, số tiền này tạm thời nhàn rỗi vì
tạm thời chưa phải chi trả cho các tổn thất xảy ra. Cùng với đó, thị trường tiền
tệ thì luôn biến động, lạm phát xảy ra cao. Vì vậy, số tiền này sẽ được đem đi
đầu tư vào các lĩnh vực mà pháp luật quy định cho các doanh nghiệp bảo
hiểm. Nhờ vậy, xã hội có nguồn vốn để đầu tư vào phát triển kinh tế, tạo thêm
nhiều việc làm cho người lao động.
c)Đối với người thứ 3
Riêng với BHTNDS bắt buộc của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 thì
đấy là tác dụng quan trọng nhất:
- Nó thay mặt người thứ ba bảo vệ quyền lợi chính đáng cho họ. Và khi
chủ xe gây tai nạn thì công ty thay mặt chủ xe bồi thường những thiệt hại cho
nạn nhân một cách nhanh chóng, kịp thời mà không phụ thuộc vào tài chính
của chủ xe.
- BHTNDS cũng giúp cho người thứ ba ổn định về mặt tài chính và về
77


-

mặt tinh thần, tránh gây căng thẳng hay sự cố bất thường từ phía của nhà
người bị hại (trong trường hợp người thứ ba bị chết).
1.3. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới và BHTNDS của
chủ xe đối vơi người thứ 3

1.3.1. BH vật chất xe cơ giới
a) Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới là toàn bộ các loại xe cơ
giới có giá trị, có đủ điều kiện về kỹ thuật và pháp lý cho việc lưu hành xe, có
giấy phép lưu hành xe do cơ quan có thẩm quyền cấp và hoạt động trên lãnh
thổ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người chủ xe phải được cơ
quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận
kiểm định về an toàn kỹ thuật và môi trường.
Xe cơ giới là một loại xe chạy trên đường bộ, bằng động cơ của chính
nó và có ít nhất một chỗ ngồi cho người lái xe. Xe cơ giới bao gồm rất nhiều
các loại xe khác nhau: xe mô tô 2 bánh, xe mô tô 3 bánh, xe ô tô chở người,
xe ô tô chở hàng hóa, xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng và các loại xe
chuyên dùng khác.
Trong thực tế, vì nhiều lý do mà các doanh nghiệp bảo hiểm thường chỉ
khai thác bảo hiểm đối với ô tô mà hạn chế bảo hiểm cho xe mô tô.
Xét trên phương tiện kỹ thuật bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có
thể bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe hoặc tiến hành bảo hiểm từng bộ phận
của chiếc xe.
Bảo hiểm vật xe cơ giới là hình thức bảo hiểm tự nguyện, chủ xe khi tham
gia bảo hiểm sẽ được bồi thường cho những tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là phạm vi giới hạn những rủi ro mà theo thỏa thuận
nếu những rủi ro đó xảy ra thì nhà bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường
cho chủ phương tiện.
Rủi ro được bảo hiểm
Trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới, chủ xe cơ giới sẽ được bồi thường
thiệt hại vật chất xe xảy ra do tai nạn bất ngờ, ngoài sự kiểm soát của chủ xe,
lái xe trong những trường hợp sau đây:
Đâm, va, lật, đổ
Hỏa hoạn, cháy, nổ

Những tai nạn bất khả kháng do thiên nhiên: bão, lũ, sét đánh, động đất, mưa
đá, sụt lở.
Vật thể từ bên ngoài tác động lên xe.
88


-

-

Mất cắp, mất cướp toàn bộ xe
Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác
Ngoài ra các công ty bảo hiểm còn thanh toán những chi phí cần thiết
và hợp lý nhằm:
Ngăn ngừa, hạn chế tổn thất phát sinh thêm
Chi phí đưa xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất
Chi phí giám định tổn thất
Trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm
(bao gồm cả các chi phí) không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy
chứng nhận bảo hiểm.
Đồng thời các công ty sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường trong
những trường hợp sau:
Thứ nhất: Đối với những thiệt hại vật chất của xe gây ra do các nguyên nhân:
- Hao mòn tự nhiên phát sinh từ hoạt động bình thường của chiếc xe
gây ra.
- Hư hỏng do khuyết tật, ẩn tỳ, mất giá trị, giảm dần chất lượng cho
dù có
Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường
phương
tiện giao thông cơ giới đường bộ.

- Hư hỏng hoặc tổn thất thêm do quá trình sửa chữa và do vật thể
trong xe tác động lên mà không phải do xe đâm va lật đổ
- Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị (âm thanh, hình
ảnh, điều hòa nhiệt độ, thiết bị định vị)
- Xe bị thiệt hại, sau khi sửa chữa phải đăng kiểm lại theo quy
định của Nhà nước mà chưa đi đăng kiểm lại.
- Tổn thất động cơ do đi vào vùng ngập nước hay do nước lọt vào
động cơ xe gây hiện tượng thủy kích phá hỏng động cơ xe (trừ khi có thỏa
thuận khác bằng văn bản)
Thứ hai: Đối với những tổn thất:
Mất cắp bộ phận xe (Trừ trường hợp thỏa thuận khác bằng văn
bản)
- Săm lốp, chụp lốp, đề can xe bị hư hỏng trừ trường hợp thiệt hại
xảy ra do cùng một nguyên nhân và đồng thời với các bộ phận khác của xe
trong cùng một vụ tai nạn.
- Bạt phủ, các thiết bị lắp thêm trên xe ngoài các thiết bị của nhà
99


b)
-

-

sản xuất đã lắp ráp (không tính các thiết bị mang tính chất bảo vệ cho xe như
hệ thống báo động, cảm biến báo lùi, cản trước, cản sau)
Các rủi ro loại trừ
Ngoài ra để tránh nguy cơ trục lợi bảo hiểm, hành vi phạm đạo đức
pháp luật các công ty bảo hiểm không bồi thường những thiệt hại, tổn thất xảy
ra bởi các nguyên nhân sau:

- Hành vi cố ý
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành.
Chủ xe và lái xe vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông như:
+ Không có giấy phép lưu hành
+ Lái xe bị ảnh hưởng bởi rượu, bia, ma túy và các chất kích thích khác
trong xe chở chất cháy nổ
+ Xe quá trọng tải hoặc quá số hành khách quy định.
+ Xe đi vào đường cấm hoặc đi đêm không đèn
+ Xe chở chất cháy, nổ trái phép
+ Xe dùng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa
Trong thời hạn bảo hiểm nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu cho chủ xe
khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới, nếu chủ xe
không chuyển quyền lợi bảo hiểm sang chủ xe mới thì Công ty bảo hiểm sẽ
hoàn trả lại phí.
Số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là số tiền người tham gia bảo hiểm chấp nhận tham
gia hoặc người bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm xác định dựa
trên giá trị bảo hiểm và sự phân tích chủ quan của người tham gia hoặc người
bảo hiểm. Nguyên tắc của bảo hiểm là số tiền bảo hiểm không vượt quá giá trị
bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm vô tình hoặc cố ý vi phạm các công ty
bảo hiểm sẽ có những chế tác phù hợp tùy vào mức độ thực tế.
Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế của xe trên thị trường
tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Xác định giá trị thực tế của xe thực chất là
xác định giá bán của nó trên thị trường vào thời điểm tham gia bảo hiểm. Việc
xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ
sở để bồi thường chính xác thiệt hại thực tế cho chủ xe tham gia bảo hiểm. Để
có thể đánh giá chính xác giá trị bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm cần
phải kiểm tra xe trước khi nhận bảo hiểm sau đó sẽ đánh giá giá trị thực tế của

1010


-

chiếc xe tham gia bảo hiểm.
c) Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là nhân tố đầu tiên quyết định đến sự lựa chọn của khách
hàng. Vì vậy việc xác định chính xác phí bảo hiểm sẽ đảm bảo cho hoạt động
của công ty, đồng thời làm tăng tính cạnh tranh cho công ty trên thị trường
bảo hiểm.
Phương pháp tính phí bảo hiểm
Mức phí của hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới, được xác
định bằng tỷ lệ phí bảo hiểm nhân với số tiền bảo hiểm.
Tỷ lệ phí cơ bản thường áp dụng cho thời hạn một năm hợp đồng, cùng
với tỷ lệ phí cơ bản đó là quy đinh về tỷ lệ giảm phí đối với những hợp đồng
có thời hạn dưới một năm.
Nhìn chung tỷ lệ phí bảo hiểm được xác định dựa trên phương pháp
thống kê, kết quả tính toán về tần xuất xảy ra tổn thất và chi phí trung bình/ 1
tổn thất và định mức chi phí quản lý của người bảo hiểm. Tuy nhiên việc tính
mức phí cụ thể cho các hợp đồng, phải bao quát được mọi yếu tố ảnh hưởng
lớn đến khả năng phát sinh trách nhiệm của người bảo hiểm. Ngoài ra, khi xác
định phí bảo hiểm các công ty bảo hiểm dựa vào một số yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất: Những yếu tố liên quan đến bản thân chiếc xe và vấn đề sử
dụng xe, gồm có:
- Loại xe: Loại xe sẽ liên quan đến trang thiết bị an toàn, chống
mất cắp, giá cả chi phí sửa chữa, phụ tùng thay thế...
- Mục đích sử dụng xe
- Phạm vi, địa bàn hoạt động

- Thời gian xe đã qua sử dụng, giá trị xe.
Thứ hai: Những yếu tố liên quan đến người được bảo hiểm, người điều
khiển xe:
- Giới tính, độ tuổi của lái xe
- Tiền sử của lái xe
- Kinh nghiệm của lái xe
- Quá trình tham gia bảo hiểm của người được bảo hiểm
Thứ ba: Việc tính phí bảo hiểm còn tùy thuộc vào sự giới hạn phạm vi
bảo hiểm và có sự phân biệt giữa bảo hiểm lẻ và bảo hiểm cả đội xe. Ở Việt
Nam hiện nay, tỷ lệ phí bảo hiểm của các công ty bảo hiểm nhìn chung đều có
sự phân biệt giữa xe mô tô và ô tô, giữa cách thức bảo hiểm cho toàn bộ xe và
1111


bộ phận xe. Tỷ lệ phí còn được mở rộng cho những trường hợp mở rộng
phạm vi bảo hiểm (ví dụ cho rủi ro xe mất cắp bộ phận, bảo hiểm không trừ
khấu hao..); trường hợp áp dụng mức miễn thường tăng lên và số năm xe đã
qua sử dụng.
d) Giám định và bồi thường
- Vai trò của giám định, bồi thường
Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm dễ bắt chước, do vậy những chiến lược
cạnh tranh thông thường như giá cả, dịch vụ rất khó mang lại tính đột biến.
Trên cơ sở đó, chiến lược sản phẩm trở nên có ưu thế hơn cả. Chất lượng của
sản phẩm bảo hiểm được thể hiện tại khâu giám định, bồi thường. Đây là khâu
rõ nét nhất trong đặc tính vô hình của sản phẩm bảo hiểm. Với vai trò thể hiện
chất lượng sản phẩm bảo hiểm, khâu giám định bồi thường là khâu trực tiếp
quyết định tính hấp dẫn của sản phẩm bảo hiểm, mang lại uy tín của công ty,
đồng thời quyết định sự lỗ lãi trong nghiệp vụ bảo hiểm.
Bên cạnh đó, giám định bồi thường còn mang vai trò hòa giải khi có sự
xung đột về lợi ích của các bên liên quan. Với vai trò quan trọng như vậy,

giám định bồi thường được pháp luật và các tổ chức bảo hiểm rất quan tâm và
đề ra những nguyên tắc nhất định.
Trong những năm gần đây, các sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới đã phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đòi hỏi công tác giám định bồi
thường ngày một phải được củng cố, nâng cao và phải đảm bảo các nguyên
tắc:
Nguyên tắc giám định
+ Phải được tiến hành sớm nhất sau khi nhận được thông tin tai nạn
(theo quy định chung là 5 ngày). Nếu không tiến hành sớm được thì lý do
chậm chễ phải được thể hiện trong biên bản giám định
+ Tất cả các thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm về vật chất, tài sản
đều phải tiến hành giám đinh.
+ Trong trường hợp đặc biệt nếu tổ chức bảo hiểm không thực hiện
được việc lập biên bản giám định, thì có thể căn cứ vào biên bản giám định
của cơ quan chức năng, chụp ảnh, hiện vật thu được, khai báo của chủ xe và
kết quả điều tra.
+ Quá trình giám định phải có mặt và ký xác nhận của chủ xe, chủ tài
sản bị thiệt hại hoặc người có trách nhiệm được ủy quyền quản lý, sử dụng.
+ Mục tiêu giám định để: Xác định nguyên nhân tai nạn từ đó xác định
trách nhiệm của bảo hiểm, đánh giá, xác định thiệt hại cho việc bồi thường
1212


được nhanh chóng, giúp việc tổng hợp nguyên nhân gây tai nạn giao thông để
có biện pháp phòng ngừa.
+ Yêu cầu của biên bản giám định phải khách quan, tỷ mỷ thể hiện đầy
đủ chi tiết những thiệt hại do tai nạn đồng thời đề xuất phương án khắc phục
thiệt hại một cách hợp lý và kinh tế nhất.
Nguyên tắc bồi thường
Nguyên tắc bồi thường là các quy định khi tiến hành bồi thường cho

chủ xe của công ty bảo hiểm
Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế:
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bồi thường = Thiệt hại thực tế *
Giá trị thực tế xe
Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế
Theo nguyên tắc tránh trục lợi bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm chỉ chấp
nhận số tiền bảo hiểm bằng hoặc nhỏ hơn giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên có
trường hợp người tham gia bảo hiểm vô tình hoặc cố ý tham gia với số tiền
lớn hơn giá trị bảo hiểm, trong trường hợp này số tiền bồi thường chỉ bằng giá
trị thiệt hại thực tế, theo nguyên tắc “ số tiền bồi thường không vượt quá thiệt
hại thực tế”
Ví dụ xe ô tô có giá trị thực tế 450 triệu nhưng người tham gia bảo
hiểm với số tiền 500 triệu, khi tổn thất toàn bộ công ty bảo hiểm chỉ bồi
thường 450 triệu. Có những trường hợp tổ chức bảo hiểm chấp nhận số tiền
bảo hiểm cao hơn giá trị thực tế. Trường hợp này gọi là “Giá trị thay thế mới”,
chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao theo các chính sách điều kiện bảo
hiểm chặt chẽ
+ Trong trường hợp tổn thất bộ phận:
Khi tổn thất bộ phận xảy ra, chủ xe sẽ được giải quyết bồi thường theo
một trong hai nguyên tắc trên. Tuy nhiên các công ty bảo hiểm thường giới
hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng tỷ lệ giá trị tổng thành xe.
+ Trong trường hợp tổn thất toàn bộ
Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi mất cắp, mất tích hoặc bị thiệt hại
nặng đến mức không thể sửa chữa hoặc nếu có thì chi phí sửa chữa, phục hồi
bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Nếu xe tham gia bảo hiểm nhỏ hơn
hoặc bằng giá trị thực tế của xe tại thời điểm tham gia bảo hiểm thì bồi
thường toàn bộ số tiền ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Nếu xe tham gia
bảo hiểm cao hơn giá trị thực tế của xe tại thời điểm tham gia bảo hiểm thì bồi
1313



thường bằng giá trị thực tế của xe khi xảy ra tai nạn.
Các tổ chức bảo hiểm thường quy định khi giá trị thiệt hại so với giá trị
thực tế của xe đạt tới hoặc vượt qua một tỷ lệ giới hạn nhất định nào đó thì
được coi như tổn thất toàn bộ ước tính.
Ngoài những nguyên tắc trên, khi tính toán và chi trả bồi thường, các tổ
chức bảo hiểm còn phải chú ý các nguyên tắc sau:
- Tạm ứng bồi thường: Phải được dựa trên cơ sở:
+ Chủ xe có đơn yêu cầu bảo hiểm
+ Thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm và phải ước tính giá trị thiệt hại
thuộc phạm vi bảo hiểm
- Căn cứ vào đó để đề xuất tạm ứng theo quy định bằng văn bản, khi
xét bồi thường phải đối trừ hoặc thu hồi tạm ứng.
Những bộ phận thay thế mới, thì khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử
dụng hoặc chỉ tính giá trị của bộ phận được thay thế ngay trước lúc xảy ra tai
nạn.
Trong trường hợp thiệt hại xảy ra có liên quan đến trách nhiệm của
người thứ ba, công ty bồi thường cho chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền
khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho công ty bảo hiểm kèm theo
toàn bộ hồ sơ, chứng từ có liên quan. Trong trường hợp bảo hiểm trùng theo
nguyên tắc số tiền bồi thường mà chủ xe nhận được không được vượt quá giá
trị thực tế, thông thường các công ty bảo hiểm giới hạn trách nhiệm bồi
thường của mình theo tỷ lệ số tiền bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo
hiểm của công ty mình so với tổng số tiền ở tất cả các giấy chứng nhận bảo
hiểm.
1.3.2. Nội dung của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba
a) Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của củ xe cơ giới đối với người thứ 3 là

bảo hiểm trách nhiệm bồi thường của lái xe, chủ xe khi phương tiện đi vào
hoạt động gây thiệt hại cho người thứ 3. Như vậy đối tượng ở đây chính là
phần trách nhiệm dân sự, trách nhiệm bồi thường của chủ xe cơ giới đối với
những hậu quả tính được bằng tiền theo quy định của pháp luật khi chủ
phương tiện gây tai nạn làm thiệt hại về tính mạng tài sản, tinh thần cho bên
thứ 3.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng bên thứ 3 trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là những người trực tiếp bị thiệt hại do
hậu quả của các vụ tai nạn ngoại trừ:
1414


- Lái, phụ xe, nguời làm công cho chủ xe
- Những người mà lái xe phải nuôi dưỡng như cha mẹ, vợ, chồng, con
cái
- Hành khách đi trên xe
- Tài sản tư trang hành lý của những người nói trên
- Các khoản phạt mà chủ xe, lái xe phải gánh chịu
Đối tượng được bảo hiểm không xác định được từ trước chỉ khi nào lưu
hành xe gây tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối
với người thứ 3 thì đối tượng mới được xác định cụ thể.
Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba bao gồm:
- Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hay sức khỏe của bên thứ 3
- Chủ xe phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay hay cố ý
mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ hoặc là vi phạm các quy định
khác của nhà nước
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại thực tế
- Chủ xe, lái xe phải có lỗi
Trên thực tế chỉ cần đồng thời xảy ra 3 điều kiện thứ 1, thứ 2, thứ 3 là

đã phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3. Nếu
thiếu một trong 3 điều kiện đó thì sẽ không phát sinh trách nhiệm dân sự.
Điều kiện 4 có thể có hoặc không vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do tính nguy
hiểm cao độ của xe cơ giới mà hoàn toàn không có lỗi của chủ xe
b) Phạm vi bảo hiểm
Các rủi ro được bảo hiểm
Trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối
với người thứ 3 các công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho những rủi ro bất
ngờ không thể lường trước được gây tai nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân
sự của chủ xe
Công ty bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về vật chất và tinh
thần, về con người, tài sản được tính toán theo những nguyên tắc nhất định.
Ngoài ra thì công ty bảo hiểm còn phải thanh toán cho chủ xe những khoản
chi phí mà họ đã chi ra nhằm đề phòng thiệt hại. Những chi phí này chỉ được
bồi thường khi nó phát sinh sau khi tai nạn xảy ra và được coi là cần thiết và
hợp lý.
Trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm được hạn mức trong
mức trách nhiệm ghi trong hợp đồng hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Trong
1515


bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 các thiệt hại
nằm trong phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm gồm:
+ Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khỏe của bên thứ 3
+ Thiệt hại về tài sản, hàng hoá của bên thứ 3
+ Thiệt hại về tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc
làm giảm thu nhập
+ Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp đề
phòng và hạn chế tổn thất, các chi phí đề xuất của bên bảo hiểm
+ Những thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của những

nguời tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn
nhân.
Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế và nhu cầu của người bảo hiểm
mà các công ty bảo hiểm có thể mở rộng phạm vi bảo hiểm cho những loại
rủi ro khác. Những điều khoản bổ sung sẽ kéo theo người tham gia phải đóng
thêm một khoản phí
Các rủi ro loại trừ
Người bảo hiểm không chịu bồi thường thiệt hại của các vụ tai nạn mặc
dù có phát sinh trách nhiệm dân sự trong các trường hợp sau :
+ Tai nạn xảy ra do hành vi cố ý của chủ xe, lái xe và người bị
thiệt hại
+ Xe không đủ các điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham
gia giao thông theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ
+ Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao
thông đường bộ như :
+ Xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an
toàn kỹ thuật và môi trường
+ Lái xe không có bằng lái hoặc bằng bị tịch thu
+ Lái xe bị ảnh hưởng bởi bia rượu và các chất kích thích
+ Xe trở chất cháy, chất nổ trái phép hoặc là vận chuyển trái với
quy định trong giấy phép vận chuyển
+ Xe sử dụng để tập lái hoặc là đua thể thao, đua xe trái phép,
chạy thử khi sửa chữa
+ Xe đi vào đường cấm, khu vực cấm, xe đi đêm không đủ đèn
theo quy định
+ Đồ vật trở trên xe rơi xuống đường gây thiệt hại cho bên thứ 3
+ Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp, bị cướp trong tai nạn
1616



+ Thiệt hại dán tiếp do xe bị tai nạn làm ngưng trệ hoạt động sản
xuất kinh doanh, giảm giá trị thương mại
+ Chiến tranh hoặc các nguyên nhân tương tự chiến tranh
+ Tai nạn xảy ra ngoài phạm vi lãnh thổ nước sở tại tham gia bảo
hiểm
+ Xe trở quá trong tải hoặc quá số lượng khách quy định
Ngoài ra doanh nghiệp bảo hiểm cũng không chịu bồi thường thiệt
hai đối với những tài sản đặc biệt bao gồm:
+ Vàng bạc, đá quý
+ Tiền và các loại gấy tờ có giá trị như tiền
+ Đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm
+ Thi hài, hài cốt
c)Mức trách nhiệm bảo hiểm
Mức trách nhiệm bảo hiểm là số tiền tối đa doanh nghiệp bảo hiểm có
thể phải trả đối với thiệt hại về thân thể, tính mạng và tài sản của bên thứ ba
và hành khách do xe cơ giới gây ra trong mỗi vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi
trách nhiệm bảo hiểm.
Hiện nay mức hạn mức trách nhiệm Bộ Tài Chính quy định cụ thể như
sau:
Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về người do xe cơ giới
gây ra là 100 .000.000 đồng/1 người/1 vụ tai nạn.
Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe mô tô hai
bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương tự (kể cả xe
cơ giới dùng cho người tàn tật) gây ra là 50.000.000 đồng/1 vụ tai nạn.
Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe ô tô, máy
kéo, xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc
chủng khác sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng (kể cả rơ-moóc và sơ
mi rơ- moóc được kéo bởi xe ô tô hoặc máy kéo) gây ra là 100.000.000
đồng/1 vụ tai nạn.
d) Phí bảo hiểm

Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe cơ giới phải nộp cho nhà bảo
hiểm để hình thành một quỹ tiền tệ độc lập, tập trung đủ lớn để bồi thường
thiệt hại xảy ra trong năm nghiệp vụ theo phạm vi bảo hiểm và hạn mức trách
nhiệm mà người tham gia đã ký với nhà bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.

1717


Bảng 1.1. Biểu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới
Số TT

Loại xe

I
1
2
III
1
2
3
4
5
IV
1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21

Mô tô 2 bánh
Từ 50 cc trở xuống
Trên 50 cc
Xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương
tự
Xe ô tô không kinh doanh vận tải
Loại xe dưới 6 chỗ ngồi
Loại xe từ 6 đến 11 chỗ ngồi
Loại xe từ 12 đến 24 chỗ ngồi
Loại xe trên 24 chỗ ngồi
Xe vừa chở người vừa chở hàng (Pickup, minivan)
Xe ô tô kinh doanh vận tải
Dưới 6 chỗ ngồi theo đăng ký
6 chỗ ngồi theo đăng ký

7 chỗ ngồi theo đăng ký
8 chỗ ngồi theo đăng ký
9 chỗ ngồi theo đăng ký
10 chỗ ngồi theo đăng ký
11 chỗ ngồi theo đăng ký
12 chỗ ngồi theo đăng ký
13 chỗ ngồi theo đăng ký
14 chỗ ngồi theo đăng ký
15 chỗ ngồi theo đăng ký
16 chỗ ngồi theo đăng ký
17 chỗ ngồi theo đăng ký
18 chỗ ngồi theo đăng ký
19 chỗ ngồi theo đăng ký
20 chỗ ngồi theo đăng ký
21 chỗ ngồi theo đăng ký
22 chỗ ngồi theo đăng ký
23 chỗ ngồi theo đăng ký
24 chỗ ngồi theo đăng ký
25 chỗ ngồi theo đăng ký

22

Trên 25 chỗ ngồi

V
1
2
3
4


Xe ô tô chở hàng (xe tải)
Dưới 3 tấn
Từ 3 đến 8 tấn
Trên 8 đến 15 tấn
Trên 15 tấn

II

Phí bảo hiểm năm
(đồng)
55.000
60.000
290.000
437.000
794.000
1.270.000
1.825.000
933.000
756.000
929.000
1.080.000
1.253.000
1.404.000
1.512.000
1.656.000
1.822.000
2.049.000
2.221.000
2.394.000
3.054.000

2.718.000
2.869.000
3.041.000
3.191.000
3.364.000
3.515.000
3.688.000
4.632.000
4.813.000
[4.813.000 + 30.000 x
(số chỗ ngồi - 25 chỗ)]
853.000
1.660.000
2.746.000
3.200.000

Nguồn :Thông tư số 22 /2016 /TT-BTC
Biểu phí thì do bộ tài chính quy định ngoài ra các công ty bảo hiểm có
thể thoả thuận với các chủ xe cơ giới với người thứ 3 theo số lượng đầu
1818


phương tiện của mình. Mặt khác các đầu phương tiện lại khác nhau về chủng
loại, về độ lớn, xác suất xảy ra tai nạn là khác nhau. Do đó phí bảo hiểm sẽ
được tính riêng cho từng loại phương tiện.
Việc xác định mức phí bảo hiểm nhìn chung là rất khó khăn, bởi vì phí
bảo hiểm là nguồn thu chủ yếu của các công ty bảo hiểm nên mức phí tối
thiểu phải thỏa mãn nhu cầu thanh toán bồi thường và công tác đề phòng hạn
chế tổn thất đồng thời phải đảm bảo cho công ty có được khoản lợi nhất định.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bảo hiểm, ngày càng có nhiều

các công ty bảo hiểm gia nhập làm cho thị trường ngày càng trở nên cạnh
tranh gay gắt. Chính vì vậy việc đưa ra một mức phí thích hợp là một vấn đề
không dễ dàng đối với các công ty bảo hiểm
Phí bảo hiểm phải là một mức phí cạnh tranh, không quá cao, không
quá thấp so với mức phí của bộ tài chính quy định. Mức phí này phải đảm bảo
được nguyên tắc số đông bù số ít và đảm bảo được sự cân đối thu chi trong
hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm
Phương pháp tính phí
Phương pháp tính phí phải đảm bảo có cơ sở khoa học, phản ánh đầy đủ
các yếu tố ảnh hưởng có liên quan và mức phí phải phù hợp với khả năng tài
chính của các chủ phương tiện.
Phương pháp tính phí được thông qua con số thống kê 5 năm về trước.
Công thức tính phí là : F= f + d
Trong đó: F là phí thu một đầu xe
f là phí thực( phí bồi thường)
d là phụ phí( thường từ 20-30%)
f là phí thuần hay phí bồi thường và nó được xác định theo công thức
sau:
n

∑s t
i =1
n

f=

i i

∑c
i =1


i

Si:
là số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ
xe được bồi thường trong năm i
Ti : là số tiền bồi thường bình quân một vụ trong năm i
n: là số năm thống kê(từ 3 đến 5 năm)
Phụ phí: Thường được xác định theo một tỷ lệ nhất định trên số phí cơ
bản thường từ 20 đến 30% mức phí cơ bản
1919


% phụ phí
d=



x Phí cơ bản

(1-% phụ phí)
Đối với các phương tiện thông dụng, mức độ rủi ro lớn như xe Rơmoc,
xe chở hàng hạng nặng thì tính thêm tỷ lệ phụ phí so với mức phí cơ bản. Đối
với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới 1 năm) thời gian tham gia bảo
hiểm được tính tròn tháng và phí bảo hiểm được tính như sau:
Dưới 3 tháng thì tính 30% phí năm, từ 3 đến 6 tháng thì tính 60% phí
năm, từ 6 đến 9 tháng thì tính 90% phí năm, từ 9 –12 tháng thì tính 100% phí
năm.
Nếu người tham gia đóng phí cả năm thì những thời điểm nào đó mà xe
không hoạt động nữa hoặc chuyển quyền sở hữu cho người khác mà không

chuyển giấy bảo hiểm thì chủ phương tiện sẽ được hoàn trả lại phí bảo hiểm
tương ứng với số thời gian còn lại của năm
P hoàn lại = P năm / 12 tháng x
Số tháng xe không hoạt
động
e) Công tác giám định
công tác giám định
Công tác giám định tổn thất nhằm xác định mức độ thiệt hại của bên
thứ 3 và mức độ lỗi của các chủ phương tiện đồng thời xác định xem nguyên
nhân xảy ra tai nạn và xem xét nguyên nhân đó có thuộc pham vi bảo hiểm
hay không thuộc phạm vi bảo hiểm .
Trong công tác giám định phải có sự chứng kiến của ba bên: chủ xe,
người thứ 3 hoặc là đại diện hợp pháp của bên thứ 3, bên bảo hiểm. Nếu chủ
xe hoặc người thứ 3 không thống nhất về mức độ thiệt hại do doanh nghiệp
bảo hiểm xác định, hai bên sẽ thỏa thuận chọn giám định viên chuyên nghiệp
giám định lại. Kết luận này sẽ là kết luận cuối cùng.
Nếu kết luận của giám định viên có sai khác lớn với kết quả giám định
của công ty bảo hiểm thì công ty bảo hiểm sẽ chịu chi phí, ngược lại thì chủ
xe hoặc người thứ 3 phải chịu
Xác định thiệt hại thực tế của bên thứ ba
Thông thường thì thiệt hại thực tế của bên thứ ba bao gồm
- Thiệt hại về tài sản
- Thiệt hại về con người
* Đối với thiệt hại về tài sản
Thiệt hại về tài sản bao gồm 2 trường hợp
2020





Trường hợp 1: Tài sản bị mất, bị hư hỏng hoặc bị huỷ hoại không thể
sửa chữa được. Trong trường hợp này thiệt hại về tài sản sẽ được xác định
bằng giá mua của tài sản cùng loại trên thị trường
Trường hợp 2: Tài sản có thể sửa chữa được, thiệt hại là chi phí hợp lý
để sửa chữa nó. Nếu phải thay thế mới phải trừ đi giá trị khấu hao. Cần lưu ý
thiệt hại về tài sản không tính đến những thiệt hại về những hư hỏng phát sinh
trong quá trình sửa chữa mà không liên quan đến tai nạn
* Đối với thiệt hại về con người
- Trong trường hợp bị thương
+ Các chi phí cần thiết và hợp lý cho công việc cứu chữa, bồi
dưỡng phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất như : chi phí cấp cứu, tiền hao
phí vật chất và các chi phí y tế khác(thuốc men, dịch chuyền,máu…)
+ Các chi phí hợp lý và phần thu nhập bị mất của người chăm sóc
nạn nhân, khoản tiền cấp dưỡng cho người mà bệnh nhân có nghĩa vụ nuôi
dưỡng
+ Khoản thu nhập bị giảm sút hay bị mất của người đó
+ Khoản tiền bù đắp những tổn thất về tinh thần
Trong trường hợp nạn nhân bị chết
+ Chi phí hợp lý, chăm sóc và cứu chữa cho ngườ thứ 3 trước khi
chết
+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng(những chi phí hủ tục không
được thanh toán)
+
Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ 3 phải nuôi
dưỡng(như vợ, chồng, con cái…)
Như vậy tổng thiệt hại của người thứ 3 sẽ được xác định như sau:
Thiệt hại thực tế của bên thứ 3= Thiệt hại về tài sản + Thiệt hại về con
người
Công tác Bồi thường
Khi nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ thì thời hạn bồi thường của doanh

nghiệp bảo hiểm là 15 ngày kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ và không kéo dài
quá 30 ngày trong trường hợp phải tiến hành xác minh hồ sơ
Hồ sơ yêu cầu bồi thường bao gồm:
* Thông báo tai nạn, giấy yêu cầu bồi thường của chủ xe
* Bản sao các giấy tờ sau:
- Giấy chứng nhận bảo hiểm
- Giấy phép lái xe, giấy đăng kí xe
2121


- Giấy kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường
* Bản kết luận điều tra tai nạn của công an hoặc bản sao hồ sơ tai nạn
- Sơ đồ của hiện trường tai nạn
- Biên bản khám nghiệm hiện trường
- Biên bản giám định thiệt hại(nếu có)
- Các giấy tờ có liên quan đến trách nhiệm của bên thứ 3
- Quyết định của toà án(nếu có)
Khi yêu cầu bồi thường thì chủ xe phải có trách nhiệm chuyển cho
doanh nghiệp bảo hiểm hồ sơ yêu cầu bồi thường và một số các loại giấy tờ
sau
* Về con người
- Trường hợp bị thương: Các giấy tờ của cơ quan y tế có thẩm
quyền xác nhận tình trạng thương tật của nạn nhân, giấy ra viện, phiếu mổ,
các giấy tờ có liên quan đến các chi phí chăm sóc và cứu chữa
- Trong trường hợp bị chết: Ngoài các giấy tờ trên thì cần thêm giấy
chứng tử
* Về tài sản:
- Các bằng chứng chứng minh thiệt hại như hoá đơn sửa chữa,
thay thế mới tài sản bị thiệt hại
- Các giấy tờ chứng minh các chi phí cần thiết và hợp lý mà chủ xe

đã chi ra để giảm thiểu tổn thất hay để thực hiện các chỉ dẫn của doanh nghiệp
bảo hiểm
Căn cứ vào thiệt hại thực tế của người thứ 3 và lỗi của người thứ 3 thì
công ty bảo hiểm xác định số tiền bồi thường
Số tiền bồi thường = thiệt hại thực tế x lỗi của chủ xe
Nếu trong vụ tai nạn có cả lỗi của người khác gây thiệt hại cho bên
thứ 3 thì
Số tiền bồi thường =( lỗi chủ xe+ lỗi khác) x thiệt hại bên thứ 3
Nguyên tắc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm là thiệt hại thực tế
phát sinh nhưng không được vượt quá hạn mức trách nhiệm đã được quy định
trong hợp đồng.
Các công ty bảo hiểm cũng đưa ra mức trách nhiệm cao hơn theo nhu
cầu và khả năng tài chính của các chủ phương tiện, bù lại thì chủ xe cũng chịu
mức phí cao hơn. Đối với những tổn thất thực tế mà lớn hơn hạn mức trách
nhiệm thì người được bảo hiểm phải tự gánh chịu phần trách nhiệm vượt quá
này.
2222


Trong trường hợp công ty bảo hiểm từ chối bồi thường thì phải thông
báo lý do bằng văn bản. Nếu có phát sinh khiếu lại thě thời gian khiếu lại là 3
tháng kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán bồi thường hoặc từ chối
bồi thường. Quá thời hạn trên thì khiếu lại không còn giá trị.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình triển khai bảo hiểm vật chất xe
và BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1.4.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình triển khai bảo hiểm vật chất xe
1.4.1.1. Các yếu tố chủ quan
a) Sản phẩm
Một doanh nghiệp bảo hiểm có số lượng sản phẩm phong phú là một
trong những điều thuận lợi để hấp dẫn khách hàng. Khách hàng khi nhìn vào

quy mô của sản phẩm, sẽ tự thấy được đây là doanh nghiệp bảo hiểm có tiềm
lực cao hay thấp về nguồn tài lực mạnh về tài chính, nhân lực, cơ sở vật chất
và hạ tầng. Vì doanh nghiệp phải có đủ những yếu tố này mới có thể triển
khai được với số lượng sản phẩm lớn như vậy. Nó tạo nên cho khách hàng
niềm tin vào doanh nghiệp, vì doanh nghiệp sẽ đảm bảo khả năng thanh toán
cho khách hàng khi mà sự kiện bảo hiểm xảy ra, khách hàng cũng sẽ tin tưởng
khi mà số tiền của mình được đặt đúng chỗ.
Bản thân với một doanh nghiệp có nhiều sản phẩm còn có một điều hết
sức thuận lợi trong việc kết hợp giới thiệu sản phẩm với nhau. Ví dụ như, một
doanh nghiệp nào đó mua gói bảo hiểm cháy nổ của MIC Hà Nội, bên cạnh
đó trong quá trình giới thiệu về sản phẩm này, chúng ta có thể kết hợp giới
thiệu về gói sản phẩm bảo hiểm vật chất xe cơ giới một cách khéo léo trong
quá trình tư vấn, giới thiệu về doanh nghiệp mình. Vì thế, nếu doanh nghiệp
có nhu cầu thì họ sẽ đến mua sản phẩm này. Nhất là khi họ đã dùng sản phẩm
khác một lần có uy tín, tạo đà thuận lợi để họ tiếp tục dùng sản phẩm khác của
MIC Hà Nội
b) Kênh phân phối
Sản phẩm bảo hiểm tuy là sản phẩm vô hình nhưng nó luôn được các
doanh nghiệp phân phối rộng rãi giống như các sản phẩm hữu hình khác. Rủi
ro không chỉ tồn tài ở một nơi, nó luôn tiềm ẩn ở mọi nơi. Bảo hiểm là sản
phẩm kinh doanh dựa trên việc nhận rủi ro về mình. Việc phân bố hệ thống
các chi nhánh và mạng lưới các đại lí với số lượng tăng và được phân bố hợp
lí ở từng khu dân cư, từng vùng trong cả nước sẽ thu hút số lượng người mua
có nhu cầu nhiều hơn, thuận lợi hơn khi giải quyết bồi thường và giám định.
Vì một chiếc xe không chỉ đi quanh quẩn xung quanh nơi mình kí hợp đồng
mà còn đi đến nhiều vùng khác trong cả nước nhất là đối với những xe dùng
2323


để kinh doanh. Nếu như tổn thất xảy ra thì sẽ có bộ phận giám định kịp thời

đến giám định đến làm việc.
c) Chất lượng dịch vụ
Chất lượng dịch vụ là một trong những yếu tố tiên quyết mà khách
hàng lựa chọn để mua sản phẩm. Dù sản phẩm đó có đắt nhưng chất lượng tốt
thì khách hàng vẫn mua sản phẩm đó. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp cùng kinh doanh một sản phẩm vô cùng gay gắt. Để
hấp dẫn khách hàng, các doanh nghiệp luôn phải nâng cao chất lượng sản
phẩm của mình. Với sản phẩm bảo hiểm, chất lượng được thể hiện qua thái độ
phục vụ của các nhân viên khai thác, giám định, hiệu quả của giám định, bồi
thường có nhanh có chuẩn xác không, các hoạt động chăm sóc khách hàng.
Giả sử, nhân viên khai thác có thái độ không hay, thường xuyên quên chăm
sóc khách hàng của mình trong các ngày lễ, việc tái tục hợp đồng sẽ khó
khăn, tạo cho khách hàng những hình ảnh xấu về doanh nghiệp mình. Bản
thân sản phẩm bảo hiểm vật chất xe cơ giới nếu có thêm các điều khoản bổ
sung, như các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận chi trả thêm chi phí cho việc
cẩu kéo xe bị thiệt hại đến nơi sửa chữa, khách hàng không phải thanh toán
tiền mặt cho các gara mà các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trực tiếp thanh toán.
Đây là điều tạo nên sự hấp dẫn cho khách hàng. Vì cùng một sản phẩm, với số
tiền đó nhưng họ lại được hưởng nhiều quyền lợi hơn. Chất lượng tốt sẽ khiến
khách hàng tìm đến sản phẩm của doanh nghiệp mình, chính họ còn là người
giới thiệu thêm khách hàng đến với doanh nghiệp.
1.4.1.2 Các yếu tố khách quan
a) Sự phát triển của nền kinh tế
Kinh tế phát triển là cơ hội kinh doanh tuyệt vời cho các doanh nghiệp
nói chung, các doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng. Kinh tế phát triển tức là các
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, lợi nhuận cao, họ sẽ có thêm nhiều vốn
để mở rộng qui mô sản xuất. Nhu các doanh nghiệp kinh doanh vận tải chỏ
người, chở hàng sẽ tăng số lượng xe của mình để đáp ứng nhu cầu đi lại của
người dân ngày càng cao vì thu nhập cao nên họ đi du lịch nhiều hơn. Khi thu
nhập người dân tăng vì kinh tế phát triển, loại hình xe taxi cũng được sử dụng

nhiều và phổ biến hơn. Các doanh nghiệp kinh doanh loại hình này cũng
không ngần ngại bỏ thêm chi phí để mua xe để phục vụ khách hàng. Khi
người dân có thu nhập thì số lượng xe máy, xe ô tô tăng theo. Như vậy, nguồn
khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp sẽ tăng cao hơn, nhất là trong điều
kiện giao thông và khí hậu ở nước ta lại vô cùng phức tạp.
2424


b) Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm
Cạnh tranh luôn là một đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, và là
yếu tố giúp đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Trên thị trường bảo hiểm
nước ta có rất nhiều doanh nghiệp bảo hiểm, cùng kinh doanh một nghiệp vụ
bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Vậy phải làm gì để thu hút khách hàng sử dụng
sản phẩm của doanh nghiệp mình chứ không phải của doanh nghiệp bảo hiểm
khác ? Cạnh tranh đã khiến cho các doanh nghiệp trong quá trình triển khai
nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới phải nâng cao chất lượng dịch vụ sản
phẩm của mình như việc có thêm những chi phí phát sinh sẽ trả khi xe bị tổn
thất, nếu tái tục sẽ được giảm phí, điều chỉnh phí bảo hiểm cho phải chăng,
điều chỉnh hoa hồng chi cho các đại lí, tăng các hoạt động chăm sóc khách
hàng như tặng quà, bảo dưỡng xe định kì...
c) Nhận thức của người dân
Bảo hiểm là sản phẩm không phải ai cũng hiểu được hình thức kinh
doanh của nó, nhất là việc bán hàng qua các đại lí trung gian. Bảo hiểm là sản
phẩm vô hình nên không ai có thể cảm nhận ngay được chất lượng, công năng
của nó như thế nào. Vì thế, khách hàng không thấy ngay được lợi ích của sản
phẩm này. Rất nhiều người đã có những quan niệm không đúng đắn, có cái
nhìn không mấy thiện cảm về về việc kinh doanh này. Vì thế, đây là một yếu
tố hạn chế gặp nhiều khó khăn khi mà các doanh nghiệp triển khai các loại
hình bảo hiểm ở nước ta. Nhưng, trong vài năm gần đây, dân trí tăng cao, kết
hợp với việc nhiều người đã tự mua cho mình được những chiếc ô tô. Họ thấy

được lợi ích từ sản phẩm vật chất xe cơ giới, trong khi chiếc xe của mình lại
là sản phẩm đắt tiền, nên họ đã không ngần ngại chi một số tiền không nhỏ để
đổi lấy sự an tâm về tinh thần, giảm bớt phần nào chi phí sửa chữa tốn kém
cho chiếc xe

2525


×