Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM – đà NẴNG (1802 1945) (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.66 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN MINH PHƯƠNG

THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
(1802 - 1945)

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13

HUẾ, 2017


Công trình được hoàn thành tại khoa Lịch sử,
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Người hướng dẫn khoa học :
PGS.TS. Bùi Thị Tân
PGS.TS. Trương Công Huỳnh Kỳ
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Ngọc Cơ,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS. Đinh Quang Hải, Viện
Sử học
Phản biện 3: PGS.TS. Trần Thuận, Trường ĐH
KHXH&NV – ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận
án cấp Đại học Huế họp tại:..........................................
Vào hồi…….ngày….. tháng…… năm 2018
Có thể tìm hiểu luận án tại:


1. Thư viện Quốc gia.
2. Thư viện Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế.



MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Quảng Nam - Đà Nẵng là vùng đất chiến lược của nước ta kể từ
khi sáp nhập vào lãnh thổ quốc gia Đại Việt (1306). Các nghề và làng
nghề truyền thống sớm ra đời và phát triển trên vùng đất Quảng Nam –
Đà Nẵng.
Các vua Nguyễn đã chọn Đà Nẵng làm nơi đón tiếp các sứ thần,
quan hệ ngoại giao, thương mại, Quảng Nam là đất “tả trực” của kinh
đô Huế tạo điều kiện cho kinh tế trong đó có thủ công nghiệp tiếp tục
tạo nên những bước tiến mới.
Thời thuộc Pháp, thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng có
những bước phát triển nhất định với nhiều sự biến chuyển đặt trong
mối quan hệ chung của thủ công nghiệp cả nước.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đang tiếp tục đặt ra vấn đề là phải
nghiên cứu và đề ra phương án tốt cho sự phát triển thủ công nghiệp,
thủ công nghiệp vẫn có vai trò khá quan trọng trong việc tạo ra nguồn
hàng xuất khẩu, phục vụ đời sống và giữ gìn bản sắc dân tộc.
Việc tái hiện lại một cách có hệ thống thủ công nghiệp Quảng
Nam - Đà Nẵng (1802-1945) sẽ giúp chúng ta hiểu rõ về quá trình ra
đời phát triển của thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng trong mối
tương quan với nền thủ công nghiệp của cả nước trong thời kì này. Mặt
khác, sẽ giúp chúng ta thấy được những đặc trưng cơ bản của thủ công
nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng và tác động của nó đối với đời sống
kinh tế, văn hoá, chính trị và xã hội cùng những phong tục, tập quán

của cư dân trên mảnh đất này.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
1


Thông qua việc làm rõ chính sách đối với thủ công nghiệp của
nhà Nguyễn và Pháp, so sánh tình hình thủ công nghiệp Quảng Nam –
Đà Nẵng giữa hai thời kỳ trước thời thuộc Pháp và thời thuộc Pháp,
luận án nhằm khôi phục bức tranh thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà
Nẵng (1802-1945), khẳng định những nét đặc trưng thông qua việc
nghiên cứu một số nghề và làng nghề tiêu biểu, làm rõ đóng góp của
thủ công nghiệp đối với tình hình kinh tế, xã hội và văn hóa trong tiến
trình lịch sử của vùng đất này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích các yếu tố tác động đến sự phát triển của thủ công
nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng qua các thời kỳ lịch sử.
Nghiên cứu tình hình thủ công nghiệp ở Quảng Nam – Đà Nẵng
từ 1802 - 1945, trong đó có nghiên cứu cụ thể một số nghề, làng nghề
thủ công tiêu biểu
Rút ra những đặc điểm, đóng góp của thủ công nghiệp đối với
địa phương Quảng Nam – Đà Nẵng. Đưa ra những giải pháp nhằm bảo
tồn và phát triển các nghề, làng nghề tiêu biểu ở Quảng Nam – Đà
Nẵng.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà
Nẵng từ năm 1802 đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 trên các
phương diện:
- Thủ công nghiệp nhà nước.

- Thủ công nghiệp dân gian.
- Quan hệ sản xuất.
- Kỹ thuật và bước tiến về kỹ thuật.
- Nguồn nguyên liệu, thị trường, nhân công, đời sống người thợ.
- Các tác động bên ngoài có ảnh hưởng đến thủ công nghiệp.
2


- Tác động của thủ công nghiệp đối với địa phương trên các khía
cạnh: kinh tế và đời sống, chính trị và xã hội, văn hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Khảo sát và nghiên cứu tình hình phát triển thủ
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
Về thời gian: Từ năm 1802 đến trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945. Trong đó chia thành hai thời kỳ là trước thời Pháp thuộc (từ
1802 – 1885, trước tháng 7/1885) và thời Pháp thuộc (1885 - 1945, sau
khi ký Hiệp ước Patenôtre đến trước Cách mạng tháng Tám).
Về nội dung: Những yếu tố tác động đến thủ công nghiệp Quảng
Nam – Đà Nẵng. Cơ cấu ngành nghề, tổ chức sản xuất, sản phẩm và
tiêu thụ sản phẩm tiêu biểu qua các thời kỳ lịch sử. Đặc điểm, vai trò,
tác động của thủ công nghiệp đối với tình hình kinh tế, xã hội và văn
hóa địa phương.
4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tư liệu
- Nguồn tư liệu lưu trữ: chủ yếu là Châu bản triều Nguyễn, văn
bản của chính quyền thuộc địa...
- Các công trình của các nhà nghiên cứu, các tác giả đã được
xuất bản trong và ngoài nước.
- Nguồn tư liệu điền dã tại địa phương:
Tư liệu thư tịch tại các làng nghề

Tư liệu truyền miệng
Nguồn tư liệu thu thập được thông qua việc phỏng vấn các
nghệ nhân, những người lớn tuổi tại các làng nghề.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp
lịch sử kết hợp với phương pháp logic là chủ yếu. Bên cạnh đó, chúng
tôi còn sử dụng các phương pháp so sánh, thống kê, đối chiếu, phân
3


tích, tổng hợp trên cơ sở khảo cứu các nguồn tài liệu văn bản, thực địa
và tiếp xúc nhân chứng. Đồng thời cũng vận dụng phương pháp so
sánh đồng đại, lịch đại để làm nổi bật các vấn đề cần thiết.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
* Về mặt khoa học:
- Bổ sung và hệ thống tư liệu về thủ công nghiệp Quảng NamĐà Nẵng từ 1802 đến 1945.
- Tái hiện lại bức tranh thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng
từ 1802 đến 1945, thông qua đó làm rõ quá trình phát triển, một số đặc
điểm cơ bản, tác động của nó đối với tình hình phát triển kinh tế, xã
hội và văn hóa của địa phương.
- Góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử nghề thủ công Việt Nam.
* Về mặt thực tiễn:
- Góp phần nghiên cứu lịch sử kinh tế địa phương tỉnh Quảng
Nam, thành phố Đà Nẵng và cả nước.
- Đề tài là cơ sở khoa học đề xuất những biện pháp nhằm bảo
tồn, khôi phục phát triển kinh tế thủ công nghiệp trong quá trình đô thị
hóa của Quảng Nam - Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay cho phù hợp
với tiềm năng của nó. Bên cạnh đó, chúng tôi đề xuất một số nội dung
liên quan đến vấn đề bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống của địa phương trong thời kỳ hội nhập.

6. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án bao gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Chương 2. Thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng từ năm
1802 đến năm 1885.
Chương 3. Thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng từ năm
1885 đến năm 1945.
4


Chương 4. Đặc điểm, vai trò của thủ công nghiệp Quảng Nam Đà Nẵng (1802-1945).

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về thủ công nghiệp Việt Nam đã được tiến hành từ
thời Pháp thuộc qua một số bài viết trên báo chí, một số công trình
được xuất bản. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, bắt đầu nghiên
cứu có tính hệ thống.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỦ CÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM
Nghiên cứu về thủ công nghiệp Việt Nam đã được tiến hành
từ thời Pháp thuộc qua một số bài viết trên báo chí, một số công trình
được xuất bản. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, bắt đầu nghiên
cứu có tính hệ thống.
Việt Hồng (1946), Tư bản Pháp với nền kinh tế Việt Nam,
NXB Xã hội, HN. Phan Gia Bền (1957), Sơ thảo lịch sử phát triển
thủ công nghiệp Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, HN. Nguyễn Thế Anh
(1971), Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, NXB

Lửa Thiêng, SG. Nghiêm Phú Ninh (1986), Con đường phát triển
tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Việt Nam, NXB Thông tin lý luận,
HN. Vũ Huy Phúc (1996), Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam 1858 – 1945,
NXB KHXH, HN. Bùi Thị Tân, Vũ Huy Phúc (1998), Kinh tế thủ
công nghiệp và phát triển công nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn,
NXB Thuận Hóa, H. Nguyễn Văn Khánh (2000), Cơ cấu Kinh tế Xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945), NXB ĐHQG HN...

5


1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢNG NAM –
ĐÀ NẴNG CÓ ĐỀ CẬP ĐẾN THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG
NAM – ĐÀ NẴNG
A.J. Gouin (1883), Tourane et le centre de l’ Annam,
Imprimerie Rouillé Ladevère. Marcel Monnier (1899) Le tour d’
Asie, Eplon, Nourrit et Cie, Imprimeurs – E’diteurs. G.H. Monod
(1900), Les montagnes de marbre à Tourane. Năm 1905,
Ricquebourg (1905), La légende de la montagne de marbre
(Tourane). A. Sallet (1924), La légende de la montagne de marbre
(Tourane), Les montagnes de marbre, Atlas de L’Indochine. J.L.
Fontana (1925), L’Annam: Ses provinces, ses ressources
Phan Du (1974), Quảng Nam qua các thời đại, quyển thượng,
Khảo cổ tùng thư, Sài Gòn. Huỳnh Công Bá (1991), “Bài Văn bia
chùa Phổ Khánh”, Tạp chí Hán Nôm, (11). Nguyễn Văn Xuân
(1995), Phong trào Duy Tân, NXB Đà Nẵng. Dương Trung Quốc
(1997), “Đà Nẵng trong mối tương quan với đô thị cổ Hội An”, Tạp
chí Non Nước, (1). Nguyễn Đình Đầu (1998), “Đà Nẵng qua các thời
đại”, Tạp chí Xưa và Nay, (54B). Nguyễn Thừa Hỷ, Đỗ Bang,
Nguyễn Văn Đăng (2000), Đô thị Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB
Thuận Hóa, H…

1.4. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỦ CÔNG
NGHIỆP QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
Phạm Hữu Đăng Đạt (2003, 2013) Chuyện kể làng nghề đất
Quảng và Chuyện xưa đất Quảng, NXB Đà Nẵng. Nguyễn Phước
Tương (2003), Bà chúa Tàm Tang xứ Quảng, NXB Đà Nẵng. Hồ Vũ
Thị Minh Châu (2004), “Nghề ươm tơ dệt lụa làng Thi Lai (xã Duy
Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) từ thế kỷ XVII đến năm
2002”, luận văn Thạc sĩ sử học, Trường Đại học Khoa học – Đại học
Huế. Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An (2008), Nghề truyền
6


thống Hội An, Quảng Nam. Hội văn nghệ dân gian thành phố Đà
Nẵng (2009), Nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng, NXB Đà
Nẵng. Huỳnh Ngọc (2012), “Nghề đá mỹ nghệ Non Nước (Đà
Nẵng)”, luận văn Thạc sĩ sử học, Trường Đại học Khoa học – Đại
học Huế. Dương Thị Ngọc Bích (2014), “Làng nghề điêu khắc đá
Non Nước tại Phường Hòa Hải, Quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà
Nẵng (truyền thống và biến đổi)”, luận án Tiến sĩ Nhân học Văn hóa,
Viện KHXH, HN.
1.5. NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐƯỢC LUẬN ÁN KẾ
THỪA
Các công trình nghiên cứu liên quan đến thủ công nghiệp
Quảng Nam - Đà Nẵng từ năm 1802 đến 1945 đã tập trung nghiên
cứu về nghề và làng nghề thủ công trên vùng đất Quảng Nam – Đà
Nẵng là những tư liệu làm nền tảng để chúng tôi đi sâu vào nghiên
cứu, chọn lọc, tổng hợp, phân tích, đánh giá dưới góc độ sử học làm
tiền đề giải quyết mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
1.6. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Sự tác động của tình hình chính trị, xã hội, kinh tế đến thủ

công nghiệp, sự phát triển của thủ công nghiệp, các nghề thủ công
tiêu biểu (nhu cầu và sự phát triển, sự phân bố của nghề, nguyên liệu,
công cụ sản xuất, kỹ thuật, tổ chức sản xuất, sản phẩm, sản lượng, thị
trường và tiêu thụ, vai trò kinh tế), các làng nghề thủ công tiêu biểu
(điều kiện tự nhiên và sự ra đời của làng, nguồn gốc nghề, quá trình
phát triển, bí quyết làng nghề thành tựu tiêu biểu...), sự biến đổi trong
cơ cấu ngành nghề, một số nét mới trong sự phát triển thủ công
nghiệp...
Sự phát triển của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng qua
các thời kỳ lịch sử từ 1802 đến 1945.
Các nghề, làng nghề thủ công tiêu biểu từ 1802 đến 1945.
7


Làm rõ đóng góp của thủ công nghiệp đối với tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội và văn hóa vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng.
Những nét đặc trưng của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà
Nẵng từ 1802 đến 1945.

Chương 2
THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1885
2.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỦ CÔNG
NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM
1885
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí
Quảng Nam - Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của đất nước và từ
thế kỷ XV xem là "yết hầu của miền Thuận - Quảng", là giao điểm nối
liền ba miền Bắc - Trung - Nam với các nước trong khu vực Đông Nam

Á và các nước lân cận. Nơi đây sớm phát triển giao thương trong và
ngoài nước. Điều này đã góp phần thúc đẩy sản xuất, trong đó có thủ
công nghiệp phát triển, nhằm cung ứng nguồn hàng cho hoạt động
thương nghiệp.
2.1.1.2. Địa hình
Quảng Nam - Đà Nẵng có đầy đủ các dạng địa hình từ núi,
đồi, sông, biển, vịnh đến đồng bằng, hải đảo và vùng cồn bãi cát ven
biển. Với đầy đủ các dạng địa hình: núi đồi, sông, biển, vịnh hồ, đồng
bằng, hải đảo, Quảng Nam - Đà Nẵng có điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế. Trên nền tảng ấy, thủ công nghiệp sớm ra đời và phát
triển, tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu ngành nghề của địa phương.
2.1.1.3. Khí hậu
Quảng Nam - Đà Nẵng nằm trong phạm vi của đới rừng á xích
8


đạo, được điều tiết bởi biển nên hai mùa mưa - nắng khí hậu đều hiền
hòa, dễ chịu, thuận lợi cho trồng trọt, chăn nuôi, cũng như hoạt động
của một số ngành thủ công.
2.1.1.4. Nguồn tài nguyên
Quảng Nam – Đà Nẵng có diện tích rừng rộng lớn và là rừng
nhiệt đới giàu nguyên liệu quý cung cấp cho các ngành sản xuất mà
chủ yếu là các ngành nghề thủ công.
Quảng Nam – Đà Nẵng có nhiều loại khoáng sản: sắt, chì,
kẽm, vàng, thiết, than đá, mica, đá cẩm thạch, đá vôi... nhưng trữ
lượng không lớn.
Hệ thống sông biển cung cấp nguồn lợi thủy hải sản đa dạng,
phong phú và trữ lượng lớn đã sớm phát triển việc đánh bắt nuôi
trồng thủy hải sản. Cùng với đó, nghề làm muối, chế biến thủy hải
sản, làm mắm đã sớm hình thành và phát triển.

2.1.2. Các nhân tố lịch sử - xã hội
2.1.2.1. Về lịch sử vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng
Quảng Nam là đất đế đô của nhiều vương triều Champa trong
nhiều thế kỷ: Gangajaya, Indrapura.
Từ một “vùng đất sính lễ”, Đà Nẵng đã sáp nhập vào lãnh thổ
quốc gia Đại Việt. Các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn sau này luôn chọn
xứ Quảng làm hậu dinh. Thời Pháp thuộc, Quảng Nam - Đà Nẵng chịu
ảnh hưởng của hai cuộc khai thác thuộc địa kéo dài đến tận năm 1945.
2.1.2.2. Con người và truyền thống xứ Quảng
Cốt cách của con người trên vùng đất này tính ham học hỏi,
tính tìm tòi, rộng mở. Cùng với đó, khí hậu khắc nghiệt đã thôi thúc
hình thành bản lĩnh chế ngự thiên nhiên, tính cần cù, chịu thương,
chịu khó.
Bên cạnh đó, con người xứ Quảng có tình hài hòa, hiếu
khách, thích giao thiệp, khéo léo trong ứng xử, nhạy bén trong buôn

9


bán. Cùng với đó, vun đắp thêm truyền thống hiếu học, thích khám
phá, tìm tòi.
2.1.3. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng trước năm 1802
và di sản để lại
Những lớp cư dân đầu tiên đến khai phá vùng Thuận
Quảng có nguồn gốc từ Thanh, Nghệ, Tĩnh. Từ thế kỷ XVII trở về
sau, cư dân từ đồng bằng sông Hồng, sông Thái Bình đến tụ cư
trên vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng rất đông. Họ đã mang theo
những nghề thủ công từ đồng bằng Bắc Bộ, làm đa dạng các nghề
thủ công tại xứ Quảng.
2.1.4. Tình hình chính trị, xã hội và kinh tế Quảng Nam-Đà Nẵng

(1802-1885)
2.1.4.1. Tình hình chính trị
Quảng Nam – Đà Nẵng - vùng đất “tả trực” của đế kinh nên
Nhà Nguyễn rất chú trọng với nhiều lần thay đổi. Quảng Nam tiếp
tục đóng vai trò là dinh trấn bên cạnh kinh đô Huế và Đà Nẵng
được chọn làm nơi đón tiếp các sứ thần đến quan hệ ngoại giao,
thương mại…
Từ ngày 01/9/1858 đến ngày 23/3/1860, nhân dân Quảng Nam
– Đà Nẵng đã sát cánh cùng quân đội triều đình ngăn chặn âm mưu
xâm lược của Pháp tại Đà Nẵng.
Ngày 5/6/1862, triều đình Huế đã ký với Pháp Hiệp ước
Nhâm Tuất bao gồm 12 điều, trong đó điều 5, điều 6, người Pháp
được tự do buôn bán, tự do đậu thuyền và tự do đi lại trên con đường
bộ từ cửa biển đến kinh đô. Với hai hiệp ước Quý Mùi (1883), Giáp
Thân (1884), về danh nghĩa, Đà Nẵng vẫn thuộc chủ quyền của triều
Nguyễn nhưng Pháp đã từng bước làm chủ dần mọi hoạt động ở hải
cảng này: tổ chức quan thuế, tự do lập phố, kiểm soát cửa khẩu...
2.1.4.2. Tình hình xã hội
10


Đầu thế kỷ XIX, về cơ bản, các giai cấp và tầng lớp xã hội ở
nước ta vẫn giữ nguyên như trước: địa chủ và nông dân, thợ thủ công
và thương nhân, cùng các tầng lớp sĩ phu, văn thân và quan lại.
Đời sống của nhân dân Quảng Nam – Đà Nẵng phần lớn
“khốn khổ, bần cùng, thực trạng xã hội có những diễn biến phức
tạp”.
2.1.4.3. Tình hình kinh tế
Đất nước được thống nhất nên các ngành nghề và giao lưu
hàng hóa có điều kiện phát triển và mở rộng khắp đất nước, đáp ứng

nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và nhà nước. Việc mở rộng các cơ
sở và phương tiện đường thủy như đào nối các con sông trong nội
địa. Tại Quảng Nam – Đà Nẵng các con kênh được đào để tưới tiêu
đồng thời thuận lợi trong giao thông như: Kênh Thanh Hà, kênh
Minh Châu, kênh Phú Xuân, kênh Thanh Khê, kênh Địch Thái,
kênh Đức An, kênh Bạch Câu.
2.1.5. Chính sách của triều Nguyễn đối với thủ công nghiệp
Về chính sách đối với thủ công nghiệp của triều Nguyễn có
thể quy lại trong chế độ công tượng và chế độ biệt nạp.
Chế độ công tượng của triều Nguyễn đã trói chân những
người thợ vào hoạt động của công trường hay các xưởng thủ công
tại chốn kinh thành, gây ảnh hưởng đến đời sống gia đình và
tương lai con cái họ. Lính thợ phải làm việc lâu dài, có khi đến già
mới cho nghỉ.
Ngoài chế độ công tượng, nhà nước còn gián tiếp khai thác
sức lao động của thợ thủ công tự do và nửa tự do (làm việc ở các
tượng cục địa phương) ở các tỉnh thành, làng xã bằng chế độ thuế sản
phẩm (biệt nạp).
2.2. THỦ CÔNG NGHIỆP NHÀ NƯỚC
11


Dưới triều Nguyễn nhất là thời Minh Mạng, triều đình đứng
ra khai thác hàng chục mỏ quý như mỏ vàng, mỏ than, mỏ kẽm, mỏ
bạc... Bên cạnh các xưởng chế tạo vũ khí đóng ở kinh đô Huế, tại
nhiều tỉnh thành, nhà Nguyễn cũng đặt các công xưởng, tập trung
thợ thuyền sản xuất vũ khí cung cấp cho quân lính đóng trên địa
bàn.
Bên cạnh đó, dấu ấn thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng
đối với thủ công nghiệp nhà nước thể hiện qua các sản phẩm được

dâng tiến triều đình, những thợ giỏi tham gia các công xưởng nhà
nước hay nhân lực, vật lực thực hiện theo chế độ công tượng và biệt
nạp.
2.3. THỦ CÔNG NGHIỆP DÂN GIAN
2.3.1. Các nghề thủ công tiêu biểu
Theo Nghề và làng nghề thủ công truyền thống đất Quảng,
Quảng Nam – Đà Nẵng có khoảng 100 nghề thủ công và có thể chia
thành khoảng 10 nhóm ngành nghề:
- Nghề dệt vải
- Nghề dệt chiếu
- Nghề may
- Nghề đan lát
- Nghề chế biến nông sản, lương thực, thực phẩm
- Nghề chế tạo công cụ lao động, phương tiện sinh hoạt
Nghề mộc
Nghề đóng cối xay lúa
Nghề đóng ghe thuyền
Nghề kim khí
- Nghề chế biến vật liệu, hương liệu
Nghề gốm
Nghề làm giấy
12


Nghề làm hương (nhang)
Các nghề được trình bày: nhu cầu, sự ra đời và phát triển, địa
phương hình thành nghề và có nghề phát triển, nguồn nguyên liệu,
cách thức sản xuất, kỹ thuật, thị trường và tiêu thụ, vai trò kinh tế.
2.3.2. Các làng nghề thủ công tiêu biểu
- Làng điêu khắc đá Non Nước

- Làng làm mắm Nam Ô
- Làng đúc đồng Phước Kiều
- Làng dệt chiếu Cẩm Nê
- Làng gốm Thanh Hà
- Làng mộc Kim Bồng
- Làng dệt vải Mã Châu
Các làng nghề được trình bày: địa phương hình thành nghề
(tương ứng với địa phương ngày nay), nguồn gốc của nghề, nghệ
nhân truyền nghề, nguồn nguyên liệu, công cụ sản xuất, kỹ thuật, bí
quyết nghề nghiệp, sản phẩm, thị trường tiêu thụ, vai trò kinh tế.
2.3.3. Những nét mới trong thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng
thười Nguyễn so với trước
Thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp và đóng vai trò
tương xứng trong cơ cấu ngành nghề của địa phương.
Việc tổ chức sản xuất đã mang một số đặc điểm của phương
thức “công nghiệp”.
Với việc Đà Nẵng là hải cảng chính thức và duy nhất là nơi
giao thương với nước ngoài đã giúp cho hàng hóa trong đó có mặt
hàng thủ công nghiệp theo chân thương lái nước ngoài xuất khẩu
sang các nước tạo nên thị trường ngoài nước bên cạnh nội thương
truyền thống.

13


Triều đình phong kiến cũng đã chú trọng đến việc đầu tư theo
kiểu công xưởng như trường hợp khai thác vàng Bồng Miêu cho thấy
được lối tư duy mới trong đầu tư khai thác nhằm mang lại lợi nhuận.

Chương 3

THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
TỪ NĂM 1885 ĐẾN NĂM 1945
3.1. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH LỊCH
SỬ MỚI
3.1.1. Tình hình chính trị
Sau khi ký Hiệp ước Harmand và Hiệp ước Patenotre, về mặt
đối ngoại, nước ta đặt dưới sự “bảo hộ” của nước Pháp.
Thời Pháp thuộc, Quảng Nam – Đà Nẵng có hai chế độ chính
trị khác nhau: Đà Nẵng là thành phố nhượng địa của Pháp, Quảng
Nam là phần đất giao cho triều đình nhà Nguyễn cai trị nhưng lại có
chính phủ Pháp bảo hộ.
3.1.2. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp
Hiệp ước Harmand (1883) và Hiệp ước Patenôtre (1884)
được ký kết, nước Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Thực dân
Pháp đã tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa: lần thứ nhất (1897 1914), lần thứ hai (1919-1929). Qua hai lần khai thác thuộc địa của
Pháp, tình hình kinh tế - xã hội Quảng Nam – Đà Nẵng có nhiều
chuyển biến.
Pháp cũng tập trung khai thác khoáng sản. Các công ty của
Pháp thu lãi cao bằng con đường biến tư sản người Việt và người
Hoa thành đại lý tiêu thụ của Pháp và chèn ép, thu mua nông thổ sản,
các sản phẩm thủ công với giá rẻ rồi đem bán trong nước hoặc xuất
khẩu với giá cao.
14


3.1.3. Sự chuyển biến về xã hội
Nhìn chung từ khi Pháp biến Quảng Nam - Đà Nẵng thành
nhượng địa, và xứ bảo hộ, kinh tế hoàng hóa tư bản chủ nghĩa đã làm
chuyển biến mạnh xã hội phong kiến đương thời và dẫn đến sự biến động
mới về cơ cấu giai cấp xã hội tại mảnh đất này.

Là thành phố nhượng địa, Đà Nẵng được Pháp tập trung xây
dựng, đẩy mạnh quá trình đô thị hóa. Trong giai đoạn đầu, Pháp chủ
yếu xây dựng cơ sở hạ tầng, một số kiến trúc kiên cố được xây dựng
làm công sở, hệ thống cầu đường, giao thông vận tải và cung ứng điện
nước được xây dựng. Việc thiết kế và quy hoạch thành phố theo mô
thức phương Tây đã làm diện mạo phố phường Đà Nẵng khác hẳn với
đô thị cổ và làm biến đổi to lớn bộ mặt nông thôn truyền thống. Đà
Nẵng trở thành nơi thu hút đông đảo nhân lực ở miền Trung, nhưng
do chính sách thuộc địa, thực dân Pháp chú trọng phát triển thương
mại, ít mở mang công nghiệp nên số công nhân chính ngạch không
nhiều, tập trung chưa cao.
Giới tư sản, trước hết là tư sản Hoa Kiều, nhờ biết tổ chức
mạng lưới thương mại rộng lớn, vốn liếng dồi dào, làm đại lý tiêu thụ
và thu mua hàng của các công ty Pháp rất đắc lực. Tư sản người Việt
ở Quảng Nam - Đà Nẵng cũng ngày càng phát triển. Nhu cầu nhập
cảng và tiêu thụ hàng hóa của Pháp ngày càng tăng làm cho việc
buôn bán trở nên tập trung và có quy mô rộng lớn hơn nên các công
ty và hiệu buôn của người Việt đã ra đời. Thế lực tư sản người Việt ở
Quảng Nam - Đà Nẵng nhỏ bé, không thể cạnh tranh nổi với tư bản
Pháp và tư sản người Hoa. Là tư sản ở một nước thuộc địa, họ bị
chèn ép, lép vế.
Cùng với sự phát triển đô thị, tầng lớp tiểu thị dân tập hợp
khá đông: tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, những người làm nghề
tự do, những viên chức công tư sở, giáo viên, học sinh... Sự xâm
15


nhập của sách báo tiến bộ, sách báo cách mạng đã thức tỉnh một bộ
phận trí thức học sinh có hoài bão giải phóng dân tộc cũng như có tư
tưởng canh tân.

Giai cấp công nhân có nguồn gốc từ nông dân lao động, thợ
thủ công bị bần cùng hóa, học sinh ra trường không kiếm được công
ăn việc làm. Số lượng công nhân ăn lương chính ngạch rất ít, chủ yếu
hưởng lương công nhật, thợ học việc và “cu li”. Phần lớn gia đình công
nhân vẫn gắn bó với nông thôn, hoặc có người ra làm công nhân theo
thời vụ rồi trở về làm nông.
3.1.4. Sự biến đổi trong kinh tế
Với mục tiêu tối thượng là vơ vét, thu về lợi nhuận, Pháp
cũng tập trung khai thác khoáng sản.
Về tổng thể thì cơ cấu ngành nghề vẫn giống so với thời kỳ
trước song một số ngành nghề giảm suốt, khó khăn, trong đó phải kể
đến nghề nung vôi hàu, nghề làm muối, nghề nấu rượu, nghề ươm tơ
dệt lụa... các nghề và làng nghề khác vẫn duy trì và phát triển.
Ngoài những nghề thủ công đã có từ trước tiếp tục tồn tại và
phát triển, trong giai đoạn này xuất hiện một số nghề mới như nghề
làm guốc mộc Xuân Dương, nghề khảm xà cừ, nghề làm kính thủy
tinh, nghề nhôm, nghề đăng ten, nghề thuộc da, nghề làm mũ cối,
nghề chế biến chè, chế biến cafe, chế biến cao su, làm pháo, làm đèn
dầu hỏa.
3.2. THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG TỪ 1885
ĐẾN 1945
3.2.1. Khái quát tình hình sản xuất thủ công nghiệp ở Quảng
Nam – Đà Nẵng thời thuộc địa
3.2.1.1. Khái quát
Các nghề thủ công như làm đường, ươm tơ, dệt lụa lĩnh, tuýt
xo, dệt chiếu, làm hàng mỹ nghệ phát triển như lưu thông thuận lợi,
16


nhanh chóng. Một số tư sản người Việt đầu tư kinh doanh một số mặt

hàng thủ công nghiệp như Lý Quý chuyên kinh doanh về bông vải
sợi nội địa lưu thông cả ba kỳ. Một số thương nhân người Hoa và
người Ấn Độ kinh doanh vải lụa.
Một số ngành nghề mới như may máy, làm đăng – ten, thủy
tinh, đóng dày dép, làm pháo, cắt tóc, làm đèn dầu hỏa. Việc nhập
khẩu những nguyên liệu, hóa chất mới đã góp phần làm cho sản xuất
thủ công đạt chất lượng tốt hơn, đẹp hơn. Việc xuất khẩu hàng hóa
qua cảng Đà Nẵng thuận lợi đã thu hút các nguồn hàng lâm thổ sản
như gỗ quý, vỏ quế, cau khô, dầu rái.
3.2.1.2. Các nghề mới
Ngoài những nghề thủ công đã có từ trước tiếp tục tồn tại và
phát triển, trong giai đoạn này xuất hiện một số nghề mới như nghề
làm guốc mộc Xuân Dương, nghề khảm xà cừ, nghề nhôm, nghề làm
kính thủy tinh, nghề đăng ten, nghề thuộc da, nghề làm mũ, nghề chế
biến trà, chế biến cafe, chế biến cao su...
3.2.1.3. Các làng nghề mới
Các làng nghề thủ công trước đây tiếp tục tục tồn tại, một số
làng nghề mới ra đời:
- Nghề đẽo guốc mộc Xuân Dương
- Các làng đan lát
- Làng đẽo cối xay đá Xuân Tây
- Làng kẹp quế Tích Phước
3.2.2. Các nghề thủ công tiêu biểu
Về cơ bản vẫn là các nghề thủ công thời kỳ trước, song các
nghề thủ công trong thời kỳ này mang những nét mới. Các nghề
thủ công tiêu biểu bao gồm:
- Nghề đan lát
- Nghề mộc
17



- Nghề rèn
- Nghề đóng ghe thuyền
- Nghề xay xát lúa gạo
- Nghề nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa
- Nghề nhuộm vải
- Nghề may
- Nghề nấu rượu
- Nghề ép dầu phụng
- Nghề làm đường
- Nghề làm bún
- Nghề chế biến thủy hải sản
- Nghề gốm
- Nghề làm hương
3.2.3. Các làng nghề thủ công tiêu biểu
Các làng nghề thủ công tiêu biểu với những điểm mới, sự
phát triển so với thời kỳ trước.
- Làng thủ công mỹ nghệ Non Nước
- Làng nghề làm mắm Nam Ô
- Làng nghề đúc đồng Phước Kiều
- Làng nghề Dệt chiếu Cẩm Nê
- Làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch
- Làng nghề gốm Thanh Hà
- Làng nghề Mộc Kim Bồng
- Làng nghề dệt vải Mã Châu
- Nghề làm lồng đèn Hội An

Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT THỦ CÔNG NGHIỆP
QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG (1802 - 1945)

18


4.1. MỘT SỐ ĐIỂM NỔI BẬT
4.1.1. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng phát triển trên
vùng đất có điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa và đô thị
Nằm ở vị trí trung độ của đất nước, nằm trên tuyến đường
thiên lý Bắc - Nam, nằm ở vị trí cửa ngõ của kinh đô Huế, với hai
cảng biển Hội An và Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng là giao điểm
nối liền ba miền Bắc - Trung - Nam với các nước trong khu vực
Đông Nam Á và các nước lân cận. Nơi đây sớm phát triển giao
thương trong và ngoài nước.
Quảng Nam – Đà Nẵng có đến hai thương cảng lớn có mối
quan hệ mật thiết với nhau là Hội An và Đà Nẵng. Sau khi Hội An
suy thoái, Đà Nẵng vươn lên trở thành phố cảng, cửa ngõ thông
thương với thế giới bên ngoài.
Nhà Nguyễn đặt trị sở tại dinh trấn Thanh Chiêm, từ sự kích
thích của trị sở Quảng Nam với vai trò là một trung tâm kinh tế, các
ngành nghề thủ công cổ truyền khá phong phú, đa dạng và gắn liền
với chiều hướng phục vụ giai cấp phong kiến và tự cung cấp.
4.1.2. Các nghề và làng nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà Nẵng
phong phú, đa dạng hơn các tỉnh Nam Trung Bộ
Sự đa dạng của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng thể
hiện qua sự đa dạng về số lượng các nghề, làng nghề, sự phân bố các
nghề, làng nghề, nguồn gốc các làng nghề.
Vùng Đất Quảng Nam – Đà Nẵng có đến trên dưới 100 nghề
thủ công. Công trình Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều
Nguyễn thời Tự Đức và thời Duy Tân thống kê số lượng nghề thủ
công ở Quảng Nam đa dạng nhất so với các tỉnh Nam Trung kỳ.
Sự phát triển theo hướng chuyên nghiệp dẫn đến sự hình

thành các làng nghề thủ công. Ở Quảng Nam – Đà Nẵng có trên dưới

19


40 làng nghề thủ công. Mỗi làng nghề có một sản phẩm đặc trưng tạo
nên thương hiệu của làng nghề.
Các nghề và làng nghề có sự phân bố rộng khắp các vùng
miền từ các đô thị (Đà Nẵng, Hội An, Thanh Chiêm), các nơi tập
trung đông dân cư như các chợ, các thị trấn, thị tứ (Phong Thử, Vĩnh
Điện, Tân An, Ái Nghĩa, Hà Lam, Hương An), từ các vùng nông thôn,
các vùng sông biển, vùng đồng bằng, miền núi...
Về nguồn gốc, đa số các nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà
Nẵng có nguồn gốc truyền vào từ đất Bắc, các nghề tiếp biến văn hóa
Việt – Chăm, một vài nghề do người dân đi làm ăn xa học nghề
truyền lại và một số nghề do thực dân Pháp du nhập, phát triển trong
công cuộc khai thác thuộc địa, phục vụ nhu cầu xuất cảng tư bản.
Sự đa dạng phong phú còn thể hiện ở số lượng mặt hàng thủ
công buôn bán và xuất khẩu. Tại Hội An, các mặt hàng thủ công xuất
khẩu nổi tiếng là tơ, lụa, đường. Ngoài ra, còn có các sản phẩm mộc
Kim Bồng (bàn ghế, trường kỷ, giường, tủ), gốm sứ Thanh Hà (gạch
lát, ngói âm dương, ngói ấm, bộ ấm, chén trà, lục bình, chén đĩa sứ),
giấy quyến, gương đồng, cá chuồng khô…
4.1.3. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng từng bước phát
triển theo kinh tế thị trường ở giai đoạn đầu của kinh tế tư bản
chủ nghĩa
Thủ công nghiệp với các nghề và làng nghề chủ yếu gắn với
làng xã, thể hiện tính tự cung tự cấp, đáp ứng nhu cầu của một vùng
đất với cư dân đông. Một số cơ sở sản xuất thủ công nghiệp thể hiện
sản xuất theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Điều này được thể hiện:

Thứ nhất, một số cơ sở sản xuất thủ công lớn đã vượt ra khỏi
giới hạn tự cung tự cấp, sản xuất khép kín trong phạm vi gia đình.
Nhiều người chủ, thương nhân, người giàu có đã xuất vốn, sắm máy
móc, thuê thợ để sản xuất trên một quy mô rộng lớn hơn là sản xuất
20


thủ công nghiệp cá thể. Điều này được thể hiện rõ qua các làng nghề
nổi tiếng như mắm Nam Ô, điêu khắc đá Non Nước, mộc Kim Bồng,
đúc đồng Phước Kiều, gốm Thanh Hà...
Thứ hai, trong sản xuất có sự phân công lao động theo hướng
mới. Đầu thế kỷ XX, trong sản xuất thủ công nghiệp, sự phân công
lao động thể hiện rất rõ rệt. Trong sản xuất là sự phân công giữa
“chủ” và “thợ”, trong thợ phân thành thợ cả, thợ bạn, thợ học việc,
thợ chính, thợ phụ...
Sự phân công còn thể hiện theo công đoạn của quá trình sản
xuất: người chuyên cung cấp nguyên liệu, người chuyên sản xuất ra
sản phẩm, người chuyên tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, hoạt động tiêu thụ sản phẩm tiến hành theo phương
thức mới. Cuối thế kỷ XIX, nhất là đầu thế kỷ XX, hoạt động trao đổi
buôn bán thực sự gọi là “kinh doanh”. Người làm kinh doanh mà dân
gian vẫn thường gọi là “con buôn”, “mối lái” ngày càng nhiều với
phương thức buôn bán đa dạng hơn, chú trọng đến thị hiếu của từng
thị trường trong từng vùng miền của đất nước hay của nước ngoài.
Không chỉ chú trọng về tiêu thụ sản phẩm, người kinh doanh còn có
cả trong việc thu mua, bao tiêu nguyên liệu để cung cấp cho các cơ
sở sản xuất.
4.2. TÁC ĐỘNG CỦA THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM –
ĐÀ NẴNG (1802-1945)
4.2.1. Đối với kinh tế và đời sống

Với bàn tay tài hoa, những nghệ nhân đã tạo ra công cụ sản
xuất: nông cụ, ngư cụ và ngay cả công cụ cho các nghề thủ công. Thủ
công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp và ngư nghiệp phát triển, tạo ra
một thị trường trao đổi, buôn bán.
4.2.2. Đối với chính trị và xã hội
Sự phát triển của thủ công nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển
21


của các ngành kinh tế khác mà trực tiếp là nông nghiệp và thương
nghiệp, giúp cho kinh tế của địa phương phát triển, cùng với đó là
quá trình tụ cư, sinh sống, tìm đến của các luồng dân cư ngày càng
đông.
Sự phát triển của nền thủ công nghiệp hàng hóa cùng với nền
thương mại phát triển, với vai trò của cảng biển, đô thị Hội An và Đà
Nẵng đã khiến cho vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng có điều kiện tiếp
thu sớm tư tưởng tư sản phương Tây và hình thành tư tưởng duy tân.
Thủ công nghiệp cũng là một cơ sở kinh tế để đánh giá một
nền chính trị có còn tiến bộ, còn có vai trò đối với lịch sử hay không.
Khi nhà nước chăm lo khuyến khích, các nghề và làng nghề phát
triển là biểu hiện nền chính trị ổn định, phát triển. Khi thủ công
nghiệp bị đình đốn, người thợ thủ công phải phá bỏ công cụ sản
xuất... là biểu hiện nguy cơ đối với nền chính trị, và thực tế chế độ
phong kiến, chế độ thực dân đều đã trải qua những thời kỳ như vậy.
Thủ công nghiệp hấp dẫn các nhà tư bản Pháp, nhưng thủ
công nghiệp cũng góp phần tạo ra những phong trào đấu tranh để
chôn vùi nền thống trị của Pháp. Nhân dân Quảng Nam – Đà Nẵng
trong đó có đông đảo những người thợ thủ công đã tham gia công
cuộc chống thực dân Pháp xâm lược, cùng với nhân dân cả nước đập
tan xiềng xích nô lệ, giành lấy độc lập tự do.

4.2.3. Đối với văn hóa
4.2.3.1. Góp phần bảo tồn những giá trị tri thức bản địa
Những tri thức bản địa được hình thành trong quá trình học
hỏi từ truyền thống, sáng tạo những cái mới, vận dụng và kết hợp cả
hai yếu tố truyền thống và hiện đại nhưng vẫn giữ được bản chất,
những nét tinh anh mang tính đặc trưng của vùng đất này.
4.2.3.2. Góp phần làm phong phú lễ hội địa phương
Các làng nghề đều lưu giữ gốc tích, xuất xứ của nghề, ông tổ
22


×