Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với tăng trưởng kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.89 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
----------------

NGUYỄN BÁ TÙNG

ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐỐI VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Năm 2000


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
Đối với các nước đang phát triển thì một trong những mục tiêu quan trọng
mà Chính phủ mong muốn là tăng trưởng kinh tế cao và ổn đònh, bởi lẽ nó tạo
điều kiện cho việc tích lũy vốn để phát triển kinh tế – xã hội. Để đạt được mục
tiêu này, ngoài những chính sách kinh tế đối nội hợp lý còn phải có những chính
sách kinh tế đối ngoại linh hoạt phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Một trong những công cụ kinh tế hữu hiệu và nhạy bén để đạt hiệu quả cao
trong chính sách kinh tế đối ngoại là chính sách ngoại hối mà vấn đề trọng tâm
của nó là tỷ giá hối đoái.
Do vậy, xem xét “sự ảnh hưởng và tác động của tỷ giá hối đoái đến sự
tăng trưởng kinh tế” của quốc gia là hết sức cần thiết, để trên cơ sở đó mà chính
phủ có những chính sách điều chỉnh thích hợp nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh
tế cao và ổn đònh, cũng như đạt được những mục tiêu kinh tế – xã hội khác.
Cũng chính vì nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên mà nó đã
được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu trong luận văn này.


Bên cạnh vai trò quan trọng của tỷ giá hối đoái và chính sách điều hành
tỷ giá như đã nêu trên, việc nghiên cứu về vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
trong thực tế những năm gần đây còn mang những ý nghóa to lớn hơn bởi lẽ:
1/ Những lý do lựa chọn đề tài:
Thứ nhất, kể từ khi Liên Xô và khối các nước Đông Âu củ tan rã, Việt
Nam đã lựa chọn một hướng đi mới cho mình đó là chuyển từ nến kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thò trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Với những nội dung và hình thức mới, giờ đây để đạt được mục tiêu phát triển
kinh tế – xã hội đòi hỏi Chính phủ phải điều hành nền kinh tế quốc dân bằng
những công cụ kinh tế theo những qui luật của kinh tế thò trường mà một trong
những công cụ quan trọng để quản lý và ổn đònh nền kinh tế là vấn đề tỷ giá hối
đoái và chính sách điều hành tỷ giá hối đoái.

-1-


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Lý do thứ hai là trong giai đoạn hiện nay khi mà các nền kinh tế ngày
càng xích lại gần nhau hơn do xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa thì các hàng
rào bảo hộ mậu dòch trong nước như quota, thuế quan,… cũng phải dần được nới
rộng và bãi bỏ. Do đó, việc tìm tòi nghiên cứu những công cụ thay thế, hỗ trợ
cho chính sách ngoại thương và bảo hộ nền sản xuất trong nùc của quốc gia
mang một ý nghóa hết sức quan trọng, mà một trong những công cụ hữu hiệu
mang tính chất quyết đònh là chính sách điều hành tỷ giá hối đoái của quốc gia.
Lý do thứ ba là cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ vừa qua ở các nước
châu Mỹ la tinh và gần đây nhất là ở các nước trong khu vực Đông Á có nền
kinh tế thò trường khá phát triển đã gây ra những hậu quả nặng nề và ảnh hưởng
rất lớn đến sự phát triển chung của toàn thế giới cũng như của Việt Nam, đó là
một bài học để chúng ta xem xét và nghiên cứu sâu sắc hơn về vấn đề tỷ giá hối

đoái và việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái đối với sự phát triển của quốc
gia nhằm có thể tránh được những cuộc khủng hoảng tương tự và hạn chế ở mức
thấp nhất các tác động do chúng gây ra, đồng thời làm nền tảng cho sự nghiệp
công nghiệp hóa – hiện đại hóa và sự phát triển của đất nước Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
2/ Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Tỷ giá hối đoái được cho là có lợi nhất cho quốc gia khi việc xác đònh tỷ
giá hối đoái mang lại những tác động tích cực cho cán cân thương mại, cán cân
thanh toán và sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia ở mức lạm phát chấp nhận
được và một mức lãi suất khuyến khích sự đầu tư trong nền kinh tế. Chính vì
vậy, để xác đònh được biên độ dao động của tỷ giá hối đoái có lợi nhất cho quốc
gia chúng ta phải xem xét tác động của nó đối với sự tăng trưởng kinh tế và trên
cơ sở đó ước lượng một biên độ dao động cho tỷ giá hối đoái.
Đề tài này được tập trung nghiên cứu vào thực tế điều hành tỷ giá hối
đoái của Chính phủ trong hơn mười năm qua kể từ khi Việt nam chuyển sang
nền kinh tế vận hành theo cơ chế kinh tế thò trường có sự điều tiết của Nhà nước,
đồng thời đánh giá tác động của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở

-2-


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở này, nhằm đưa ra những kiến nghò cho
việc hoàn thiện hơn nữa công tác điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.
3/ Lãnh vực nghiên cứu:
Dù rằng sự tăng trưởng kinh tế liên quan đến nhiều yếu tố như vốn, lao
động, đất đai, nguyên vật liệu, khoa học kỹ thuật, … song trong luận văn này, các
nhân tố trên chỉ được đề cập đến như là một phần trong cơ sở lý luận. Trong
phạm vi của luận văn, nền tảng lý thuyết về mối liên hệ giữa tỷ giá hối đoái và

tổng sản phẩm quốc dân (GDP) được sử dụng như là một công cụ lý thuyết hổ
trợ cho việc phân tích quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dưới sự tác động
của nhân tố tỷ giá hối đoái thông qua việc xem xét quá trình điều hành chính
sách về tỷ giá hối đoái trong bối cảnh thực tế ở Việt Nam suốt thời kỳ đổi mới
của hơn mười năm qua. Trong điều kiện của một nền kinh tế thò trường chưa
phát triển đầy đủ về nhiều mặt, sự luân chuyển vốn của quốc gia còn thấp, tâm
lý thích tồn trữ tiền mặt, … sự tác động của tỷ giá hối đoái sẽ chỉ được xem xét
chủ yếu trong mối liên hệ với cán cân thương mại của quốc gia.
4/ Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng cho đề tài này là phương
pháp thống kê. Trên cơ sở của những số liệu thu thập từ các niên giám thống kê,
các tạp chí Kinh tế phát triển, tạp chí Ngân hàng, tạp chí Tài chính, … những
phân tích sẽ được tập trung vào mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái với sự tăng
trưởng của nền kinh tế. Ngoài ra, một mô hình về mối liên hệ giữa hai giữa hai
đại lượng này cũng sẽ được thiết lập nhằm đánh giá sự tác động của tỷ giá đối
với sự tăng trưởng kinh tế. Một số kỹ thuật của môn kinh tế lượng cũng được áp
dụng nhằm làm chuẩn hoá các dữ liệu phục vụ cho việc xây dựng mô hình.

-3-


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Chương I: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ SỰ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I.

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

1/


Khái quát về tỷ giá hối đoái:

Vì sao chúng ta lại cần tỷ giá hối đoái?
Nếu một người dân ở Việt Nam muốn mua một xe gắn máy hiệu Angel thì
tất nhiên anh ta muốn trả bằng đồng Việt Nam. Mọi người sản xuất và buôn bán
đều mong muốn được trả bằng đồng Việt Nam (VND) vì dù sao những chi phí và
chi tiêu hàng ngày của họ đều phải thanh toán bằng VND. Tuy nhiên, nếu anh ta
muốn mua trực tiếp một chiếc xe Honda WAVE của Nhật Bản thì cuối cùng và
bằng cách nào đó anh ta phải trả bằng đồng yên Nhật chứ không phải bằng
VND. Tương tự như vậy, người Nhật bằng cách nào đó phải trả VND cho người
Việt Nam nếu anh ta muốn mua hàng của chúng ta. Cho nên rõ ràng là việc xuất
nhập khẩu giữa các nước với những đơn vò tiền tệ khác nhau làm nảy sinh một
yếu tố mới đó chính là tỷ giá hối đoái.
1.1

Các khái niệm về tỷ giá hối đoái:

Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền được tính bằng đồng tiền của
một nước khác. Ví dụ: 14.000 VND = 1 USD hay tỷ giá hối đoái của VND/USD
là 14.000
Trên thực tế, trong giao dòch hàng ngày người ta phân chia thành rất nhiều
loại tỷ giá hối đoái khác nhau căn cứ vào chức năng của nó. Tuy nhiên trong
phạm vi nghiên cứu của luận văn này chúng tôi chỉ xin trình bày hai khái niệm
chính của tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái danh nghiã: là giá cả tương đối của hai đồng tiền như trình
bày trong khái niệm trên được gọi là tỷ giá hối đoái danh nghóa.

-4-



Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Tỷ giá hối đoái thực: tỷ giá hối đoái thực giữa các đồng tiền của hai quốc
gia là một thước đo giản lược tổng quát giá cả hàng hoá và dòch vụ của nước này
so với nước kia.
Trên cơ sở của quy luật một giá, tỷ giá hối đoái thực được xác đònh như
sau:
e = E*PF /P
Trong đó: - e, E là tỷ giá hối đoái thực và tỷ giá hối đoái danh nghóa.
- PF, P là giá của nhóm hàng hóa nước ngoài và nhóm hàng hoá trong
nước.
1.2

Cân bằng của tỷ giá hối đoái trên thò trường ngoại hối:

Các quốc gia khác nhau sử dụng những đồng tiền khác nhau, nên để mua
được những hàng hoá và dòch vụ của các quốc gia khác họ phải đổi đồng tiền
của mình sang các đồng tiền của các nước khác và ngược lại các quốc gia khác
muốn nhận được hàng hóa và dòch vụ của họ cũng phải mua đồng tiền của quốc
gia này để thanh toán. Chính điều này đã tạo ra nhu cầu trao đổi mua bán giữa
các đồng tiền và cũng như những hàng hóa khác nó diễn ra trên một thò trường
được gọi là thò trường ngoại hối.
Như vậy, thò trường ngoại hối là một thò trường quốc tế trong đó một đồng
tiền của quốc gia này có thể đổi lấy đồng tiền của quốc gia khác. Mức giá tại đó
hai đồng tiền được chuyển đổi cho nhau gọi là tỷ giá hối đoái.
Như mọi thò trường, giá cân bằng tức tỷ giá hối đoái cân bằng phụ thuộc
vào cung–cầu ngoại tệ. Cầu về ngoại tệ xuất hiện do:
-


Nhu cầu của chính phủ, các công ty và các cá nhân về nhập khẩu

hàng hoá và dòch vụ từ các nước khác.
-

Nhu cầu về du lòch, tham quan nước ngoài của các cá nhân.

-5-


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

-

Nhu cầu về đầu tư ra nước ngoài.

Ngoài ra còn những nhu cầu khác như: trả lãi tiền vay cho nước ngoài, gởi
tiền cho thân nhân ở nước ngoài, …
Nguồn cung về ngoại tệ là do:
-

Thu từ xuất khẩu hàng hóa và dòch vụ ra nước ngoài.

-

Tiếp nhận đầu từ nước ngoài.

-

Nhu cầu chi tiêu của khách du lòch, tham quan.


-

Tiếp nhận viện trợ, nhận tiền gởi của thân nhân ở nước ngoài, …

Tuy nhiên, sự cân bằng của tỷ giá hối đoái trong thò trường ngoại hối với
mối quan hệ cung cầu như vừa nêu trên được giả đònh trong điều kiện có sự
ngang bằng về tiền lãi giữa các loại tiền. Theo Paul R.Krugman và Maurice
Obstfeld thì sự ngang bằng tiền lãi là điều kiện cân bằng cơ bản của thò trường
ngoại hối: "thò trường ngoại hối sẽ cân bằng khi các khoản tiền gởi của mọi loại
tiền đều có một tỷ suất lợi tức dự kiến như nhau.".
Dó nhiên thò trường ngoại hối không giống như những thò trường khác vì
trên thò trường này hàng hóa được mua bán là những đồng tiền. Chính đặc trưng
này của thò trường ngoại hối mà phạm vi hoạt động của nó dường như trải rộng
trên phạm vi toàn cầu và hoạt động liên tục suốt ngày đêm.
Những chủ thể chính tham gia trong thò trường này bao gồm:
-

Các nhà xuất nhập khẩu.

-

Các ngân hàng.

-

Những người chuyên môi

E


Biểu đồ 1

S

giới mua bán ngoại tệ, …
Sự can thiệp liên tục của các chủ

E*

thể này làm cho thò trường ngoại hối hoạt

D

Q*
-6-

Khối lượng ngoại tệ Q


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

động rất hiệu quả và tỷ giá hối đoái gần như là giống nhau trên khắp thế giới.

2/

Các nhân tố tác động đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái:
2.1 Xuất - nhập khẩu: với các điều kiện khác không đổi, khi có sự thay

đổi trong lượng xuất khẩu hoặc nhập khẩu sẽ làm thay đổi lượng cung ứng
hoặc lượng cầu về ngoại tệ của quốc gia và kết quả là đường cung hoặc

đường cầu về ngoại tệ sẽ bò dòch chuyển. Kết quả tất yếu của sự thay đổi này
là tạo lập một tỷ giá hối đoái cân bằng mới trên thò trường ngoại hối.
Một trong những nhân tố nằm phía sau xuất nhập khẩu chính là thuế
quan. Khi chính phủ đánh thuế hoặc gia tăng thuế đối với hàng nhập khẩu sẽ
làm cho giá hàng nhập khẩu gia tăng và kết quả là nhu cầu về các hàng hóa
này sẽ bò giảm (trong điều kiện hàng hóa nhập khẩu co giãn theo giá). Việc
giảm cầu về hàng nhập khẩu cũng đồng nghóa với việc giảm nhu cầu về
ngoại tệ làm giá của đồng ngoại tệ giảm hay nói các khác là đồng nội tệ
tăng giá.
2.2 Nguồn vốn: nguồn vốn ở đây bao hàm nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoài và các nguồn chuyển nhượng. Giả đònh rằng ban đầu tỷ giá hối đoái là
cân bằng, vì một số những lý do như tỷ suất hoàn vốn cao hơn, lợi nhuận
mong đợi trong tương lai cao hơn hoặc đơn giản chỉ là sự gia tăng mức độ r
ro ở những quốc gia khác, … mà một quốc gia có thể sẽ thu hút được nhiều
hơn đầu tư của nước ngoài và các nguồn vốn khác. Điều này làm gia tăng
mức cầu về đồng nội tệ và vì vậy giá của đồng nội tệ sẽ gia tăng, nghóa là
giờ đây để có cùng số lượng đồng nội tệ thì người ta phải bỏ ra số lượng
ngoại tệ nhiều hơn. Ngược lại, nếu nguồn vốn từ quốc gia này đổ ra bên
ngoài (vì những lý do nào đó như: việc chuyển lợi nhuận về nước của các
nhà đầu tư nước ngoài, hoặc phải trả nợ nước ngoài, hoặc việc đầu tư của

-7-


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

quốc gia ra nước ngoài, …) thì đồng nội tệ của quốc gia sẽ bò giảm giá.
2.3 Lãi suất: giả đònh rằng tỷ giá hối đoái được dự kiến trong tương lai
là có thể biết được, thì một điều kiện cân bằng cơ bản của tỷ giá hối đoái
trên thò trường ngoại hối là sự ngang bằng tiền lãi. Giả sử rằng lãi suất của

VND hiện tại là 12% /năm và lãi suất tiền gởi của đồng USD là 7% /năm.
Tuy nhiên, người ta dự tính là đồng VND sẽ giảm giá với tỷ lệ 8% trong
vòng một năm so với đồng USD. Trong trường hợp này tỷ suất lợi tức đối với
các khoản tiền gởi bằng đồng USD sẽ cao hơn 3% /năm so với các tiền gởi
bằng đồng VND. Điều này có nghóa là không ai muốn nắm giữ các khoản
tiền gởi bằng đồng VND và những người có các khoản tiền gởi bằng đồng
VND sẽ tìm cách bán chúng đi để đổi lấy tiền gởi bằng đồng USD. Do vậy,
giờ đây có tình trạng cung quá mức về tiền gởi bằng đồng VND và cầu quá
mức về tiền gởi đồng USD trên thò trường ngoại hối. Trường hợp ngược lại sẽ
cho ta một kết quả cũng hoàn toàn ngược lại.
2.4 Lạm phát: Lạm phát ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái
thông qua hiệu quả tiền tệ trong nền kinh tế. Với một sự gia tăng trong tỷ lệ
lạm phát sẽ làm cho tỷ suất lợi tức trên tài sản nội đòa bò giảm so với các tài
sản nước ngoài. Phản ứng lại với điều này, các nhà đầu tư sẽ cơ cấu lại
nguồn tài sản của họ sao cho việc nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn
và các tài sản nội đòa ít hơn. Điều này sẽ làm gia tăng mức cầu về đồng
ngoại tệ và vì vậy làm giảm giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ.
Ngoài các nhân tố tác động đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái như nêu
trên, thì một số các nhân tố khác như: tiến bộ công nghệ, thành phần chi tiêu của
Chính phủ, tín dụng nội đòa, … cũng tác động đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái.
II.

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1/

Khái quát về tăng trưởng kinh tế:

-8-



Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

1.1 Đònh nghóa tăng trưởng kinh tế:
Từ lâu các nước vẫn coi tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu
kinh tế trung tâm bởi lẽ, suy cho cùng, sự phát triển của xã hội nói chung được
quyết đònh bởi sự phát triển về kinh tế.
Theo cách nói hiện đại thì tăng trưởng kinh tế chính là việc mở rộng tổng
sản lượng quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một quốc gia
hay nói theo cách khác đó chính là việc mở rộng khả năng sản xuất của nền kinh
tế.
Chúng ta biết rằng, với những điều kiện nhất đònh của một quốc gia trong
một giai đoạn nhất đònh chỉ có thể tạo ra được một số lượng nhất đònh về hàng
hóa và dòch vụ nghóa là có một giới hạn về khả năng sản xuất, do vậy chúng ta
có thể coi tăng trưởng kinh tế là dòch chuyển giới hạn đó ra phiá ngoài qua thời
gian. Tốc độ tăng trưởng của một biến số là mức tăng phần trăm hàng năm của
nó, và cũng bằng cách này người ta đánh giá sự tăng trưởng của một nền kinh tế
thông qua phần trăm tăng trưởng của GDP thực hoặc GNP thực. Sở dó người ta
đánh giá tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thông qua tốc độ tăng của GDP thực
hoặc GNP thực là nhằm để loại bỏ tác động của sự biến động về giá cả.
GDP danh nghóa là giá trò bằng tiền của sản phẩm và dòch vụ cuối cùng
theo giá hiện hành trên thò trường.
GDP thực là giá trò bằng tiền của sản phẩm và dòch vụ cuối cùng được tính
theo giá của thời kỳ gốc (gọi là giá cố đònh).
1.2 Hàm sản xuất:
Hàm sản xuất của một quốc gia nếu được biểu diển dưới dạng hàm số thì
ta có thể viết như sau:
Sản lượng = f (vốn, lao động, đất đai, nguyên vật liệu, kiến thức kỹ thuật)

-9-



Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Hàm sản xuất biểu thò sản lượng tối đa có thể được sản xuất ra khi sử
dụng những lượng đầu vào nhất đònh trong điều kiện trình độ kỹ thuật hiện có.
Đẳng thức trên tóm tắt lại dưới dạng tiện dụng những yếu tố mà có thể
làm thay đổi mức sản lượng. Giả đònh rằng nền kinh tế luôn ở mức sản lượng
tiềm năng, tức mức sản lượng được sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân
công và tất cả các thò trường đều cân bằng, thì những gia tăng trong sản lượng
tiềm năng có thể bắt nguồn từ những gia tăng trong đầu vào của các yếu tố sản
xuất như: đất đai, lao động, nguyên liệu hay những tiến bộ kỹ thuật tạo điều
kiện cho các yếu tố hiện có sản xuất ra một mức sản lượng cao hơn.
2/

Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế:

2.1 Vốn: vốn sản xuất là khối lượng máy móc, nhà cửa và hàng dự trữ
được kết hợp với các yếu tố sản xuất khác để sản xuất ra hàng hoá. Với một lực
lượng lao động nhất đònh, khi tăng tổng số vốn và số vốn theo đầu người lao
động thì sản lượng sẽ tăng. Tuy nhiên vốn bò tổn hao theo thời gian và cần phải
có một lượng đầu tư mới nhất đònh để duy trì nguyên vẹn quỹ vốn hiện có. Khi
lực lượng lao động tăng, cần có một khối lượng đầu tư lớn hơn nữa nếu muốn giữ
lượng vốn trên từng công nhân không thay đổi. Khi đầu tư tăng nhanh hơn nữa,
lượng vốn trên từng công nhân sẽ tăng theo thời gian, do đó làm tăng sản lượng
mà mỗi công nhân có thể sản xuất ra. Như vậy tăng lượng vốn trên từng công
nhân là một trong những phương pháp chủ yếu làm tăng sản lượng và thu nhập
trên từng công nhân.
2.2 Lao động: Số người có việc làm có thể tăng vì hai lý do: thứ nhất có
thể do tăng dân số, thứ hai là một bộ phận lớn hơn trong số dân nhất đònh có thể

đang có việc làm. Tuy nhiên, đầu vào về lao động phụ thuộc vào số giờ làm việc
cũng như số người đang làm việc. Thậm chí với một mức có việc làm nhất đònh,
số giờ làm việc tăng sẽ làm tăng đầu vào lao động có hiệu quả trong hàm sản

- 10 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

xuất và do vậy làm tăng sản lượng.
2.3 Đất đai: Đất đai có vai trò quan trọng đặc biệt trong một nền kinh tế
nông nghiệp. Nếu mỗi người lao động có thêm ruộng đất, sản lượng nông nghiệp
có thể tăng. Trong các nền kinh tế công nghiệp hóa cao, đất đai kém phần quan
trọng hơn. Tăng cung ứng đất đai với vai trò là nguồn lực để tăng trưởng kinh tế
hiện đại tỏ ra không quan trọng lắm bởi lẽ chúng ta thường cho rằng đất đai là
yếu tố sản xuất có tổng cung không đổi trong nền kinh tế. Nhưng trên thực tế,
khi tăng lượng phân bón cho từng sào ruộng thì khối lượng đất canh tác có hiệu
quả có thể tăng. Hoặc đầu tư vào hệ thống tưới tiêu có thể biến đầm lầy và
hoang mạc thành đất canh tác.
2.4 Nguyên vật liệu: Với khối lượng nhất đònh của các đầu vào khác, tăng
đầu vào nguyên liệu sẽ làm tăng sản lượng. Khi nguyên liệu trở nên đắt đỏ,
công nhân sẽ phải cân nhắc để không lãng phí chúng. Khi cung ứng nguyên liệu
dồi dào hơn, công nhân có thể làm việc nhanh hơn.
2.5 Kiến thức kỹ thuật: ở một thời điểm nhất đònh xã hội thường có một
kho kiến thức về các phương pháp sản xuất hàng hoá. Một phần kiến thức này
được ghi vào sách vở nhưng phần lớn được phản ánh trong cách thức làm việc
mà người ta học được qua bề dày kinh nghiệm. Các tiến bộ kỹ thuật nảy sinh từ
sự phát minh, tức là việc phát hiện ra tri thức mới, và từ sự cải tiến, tức là sự áp
dụng tri thức mới vào các qui trình sản xuất hiện có.
III.


MỐI LIÊN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ GDP

TRONG NỀN KINH TẾ
1/

Tỷ giá hối đoái và GDP trong thò trường sản phẩm:

Như chúng ta đã biết, thò trường sản phẩm ở vào trạng thái cân bằng khi
sản lượng thực tế Y bằng với tổng cầu về các sản phẩm nội đòa:

- 11 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Y = D(E*PF /P, Y-T, I, G)
Sự cân bằng của tổng cung và tổng cầu như vậy quyết đònh mức sản lượng
Y cân bằng ngắn hạn. Trong dài hạn, các yếu tố sản xuất được sử dụng đầy đủ,
mức sản lượng thực tế hoàn toàn được quyết đònh bởi việc cung cấp các yếu tố
sản xuất, và tỷ giá hối đoái thực tế sẽ điều chỉnh để làm cân bằng mức sản
lượng thực tế dài hạn với tổng cầu.
Biểu đồ 2 minh hoạ mối quan hệ thứ

Tổng
cầu

nhất giữa tỷ giá hối đoái và sản lượng
(hay GDP), quan hệ được hàm ý bởi sự
*


D2(E2P /P,Y-T,I,G)

D1(E1P*/P,Y-T,I,G)

cân bằng của thò trường sản phẩm. Đặc
biệt, biểu đồ này minh hoạ tác động của
sự giảm giá đồng tiền trong nước so với
đồøng ngoại tệ (tức là sự gia tăng trong E
từ E1 tới E2) với các giá trò cố đònh của

Tỷ giá hối đoái E

Y1

Y2

Sản lượng Y
GDP

mức giá trong nước P và nước ngoài P*.
Với các mức giá trong nước và nước
ngoài cố đònh, một sự gia tăng trong tỷ

E2

giá hối đoái danh nghóa làm cho hàng
hoá và dòch vụ nước ngoài trở nên đắt

E1


hơn tương đối so với hàng hoá và dòch vụ
trong nước. Sự thay đổi giá cả tương đối
Y1

Y2

Biểu đồ 2

Sản lượng Y
GDP

này làm cho đường tổng cầu dòch chuyển
theo hướng đi lên. Điều này được giải

thích là do: tại mỗi mức sản lượng trong nước, cầu đối với sản phẩm trong nước
giờ đây trở nên cao hơn. Sản lượng tăng từ Y1 tới Y2 khi các hãng thấy mình vấp
- 12 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

phải tình trạng dư cầu tại các mức sản xuất ban đầu.
Việc cố đònh các mức giá trong nước và nước ngoài chỉ nhằm mục đích
làm cho mô hình đơn giản và dể hiểu hơn, thực chất bất kỳ một sự gia tăng nào
trong tỷ giá hối đoái thực EP*/P cũng gây ra một sự dòch chuyển theo hướng đi
lên của hàm tổng cầu nếu tất cả các điều kiện khác đều như nhau. Tương tự, bất
kỳ một sự suy giảm nào trong EP*/P cũng sẽ làm cho sản lượng giảm xuống với
các điều kiện khác không đổi.
Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và GDP trong phần trên của biểu đồ 2

được biểu diển bằng đường DD trong phần dưới của biểu đồ.
Giả đònh với một mức Eo cố đònh, vò trí của đường DD chòu sự tác động
làm dòch chuyển của các nhân tố như sau:
- Chi tiêu của chính phủ G: Một sự gia tăng trong G làm cho tổng cầu dòch
chuyển lên trên. Nếu tất cả những nhân tố khác không đổi, sản lượng Y sẽ tăng
lên. Với một mức tỷ giá hối đoái nào đấy, mức sản lượng làm cân bằng tổng
cung và tổng cầu cũng sẽ cao hơn khi G tăng, nghóa là một sự gia tăng trong G
làm đường DD dòch chuyển sang phải. Một sự suy giảm trong G sẽ cho ta kết
quả ngược lại.
- Thuế T: các loại thuế tác động tới tổng cầu bằng việc thay đổi thu nhập
khả dụng và như vậy làm thay đổi chi tiêu với mọi mứcY. Do đó, một sự gia
tăng trong thuế làm cho hàm tổng cầu dòch chuyển đi xuống nên kết quả là
đường DD dòch chuyển sang trái, tương tự một sự suy giảm trong T tạo ra một sự
dòch chuyển sang phải của đường DD.
- Đầu tư I: mức đầu tư I có cùng sự tác động như mức chi tiêu G của chính
phủ đối với đường DD.
- Các mức giá trong nước P và nước ngoài P*: với E và P* đã cho, sự gia
tăng giá cả của các hàng hóa trong nước P sẽ làm giảm cầu xuất khẩu ròng, tổng

- 13 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

cầu suy giảm làm đường DD dòch chuyển sang trái. Ngược lại, sự giảm giá của
các hàng hóa và dòch vụ trong nước sẽ làm đường DD dòch chuyển sang phải.
Tương tự với một mức E và P cố đònh, sự gia tăng của P* làm các hàng hóa và
dòch vụ nước ngoài trở nên đắt hơn tương đối các hàng hoá trong nước làm tổng
cầu các hàng hóa trong nước tăng và kết quả là đường DD dòch chuyển sang
phải. Ngược lại, P* giảm sẽ làm cho đường DD dòch chuyển sang trái.

- Những thay đổi trong hàm tiêu dùng: giả sử rằng dân chúng đột nhiên
quyết đònh chi tiêu nhiều hơn là tiết kiệm với mọi mức thu nhập khả dụng. Nếu
sự gia tăng trong chi tiêu không dành cho các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài
sẽ làm cho đường DD dòch chuyển sang phải. Ngược lại, một sự suy giảm tự đònh
trong tiêu dùng (nếu nó không phải do một sự suy giảm trong cầu nhập khẩu) sẽ
làm cho đường DD dòch chuyển sang trái.
- Một sự thay đổi trong nhu cầu giữa hàng hóa nước ngoài và trong nước:
giả sử rằng không có bất kỳ sự thay đổi nào trong hàm tiêu dùng nhưng dân
chúng trong nước và nước ngoài giờ đây quyết đònh chi tiêu nhiều hơn cho các
hàng hóa sản xuất trong nước, nếu thu nhập khả dụng của nước nhà vẫn giữ
nguyên, sự thay đổi trong cầu sẽ cải thiện tài khỏan vãng lai bằng việc tăng xuất
khẩu và giảm bớt nhập khẩu. Đường tổng cầu dòch chuyển lên trên và đường DD
dòch chuyển sang phải. Cũng cách lập luận tương tự cho thấy rằng một sự thay
đổi trong cầu của thế giới chuyển tứ các sản phẩm trong nước sang các sản phẩm
nước ngoài làm cho DD dòch chuyển sang trái.
2/

Tỷ giá hối đoái và GDP trong thò trường tài sản:

Với một tỷ giá hối đoái tương lai được dự kiến đã đònh Ee, điều kiện
ngang bằng mức lãi miêu tả sự cân bằng thò trường ngoại hối là:
i = i* + (Ee – E)/ E

- 14 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Trong đó: - i là lãi suất trên các khoản tiền gửi nội tệ
- i* là lãi suất trên các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ.

Lãi suất trong nước thỏa mãn điều kiện ngang bằng mức lãi cũng làm cho
cung tiền trong nước thực (Ms/P) bằng tổng cầu tiền thực: Ms/P = L(i,Y).
Tổng cầu tiền thực L(i,Y) tăng khi lãi suất giảm bởi vì một sự suy giảm
trong E làm người ta ít muốn giữ các tài sản sinh lãi phi tiền tệ. (Ngược lại, một
sự gia tăng trong lãi suất làm giảm cầu tiền thực). Một sự gia tăng trong sản
lượng thực làm tăng cầu tiền thựcá bằng cách làm tăng khối lượng các giao dòch
tiền tệ mà mọi người cần phải thực hiện (và một sự suy giảm trong sản lượng
thực làm giảm cầu tiền bằng việc làm giảm nhu cầu giao dòch)
Biểu đồ 3 cho thấy lãi suất trong nước và

Tỷ giá hối đoái E

tỷ giá hối đoái cân bằng gắn liền với
1’

E1

Lợi tức đo bằng nội tệ
trên các khoản tiền
gởi bằng ngoại tệ

mức sản lượng Y1 trong điều kiện cung

2’

trong nước đã cho, P, lãi suất của nước

E2

tiền danh nghóa đã cho, Ms, mức giá


ngoài đã cho, i*, và một giá trò đã cho
của tỷ giá hối đoái tương lai được dự
i1

i2

Lãi suất i

kiến, Ee. Trong phần dưới của biểu đồ
chúng ta thấy rằng với sản lượng thực tại
Y1 và mức cung tiền thực tế tại Ms/P lãi
suất i1 làm cân bằng thò trường tiền tệ

Ms
P

1

2

Cung tiền thực

trong nước (điểm 1) trong khi tỷ giá E1
làm cân bằng thò trường ngoại hối (điểm

L(i,Y1)

L(i,Y2)


Biểu đồ 3

1’). Tỷ giá hối đoái E1 làm cân bằng thò
trường ngoại hối bởi vì nó làm cho tỷ

- 15 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

suất lợi tức dự kiến trên các khoản tiền gửi ngoại tệ được đo bằng đồng nội tệ,
bằng với i1.
Một sự gia tăng trong sản lượng từ Y1 lên Y2 làm tăng tổng cầu tiền thực
từ L(i,Y1) lên L(i,Y2). Điều này đến lượt nó lại làm tăng lãi suất cân bằng trong
nước lên i2 (điểm 2) với Ee và i* được cố đònh, đồng nội tệ phải tăng giá từ E1
lên E2 để đưa thò trường ngoại hối trở lại cân bằng tại điểm 2’. Đồng nội tệ tăng
giá đúng đủ để cho sự gia tăng trong tỷ giá mà tại đó người ta dự đoán đồng nội
tệ sẽ giảm giá trong tương lai bù đắp được lợi thế về lãi suất được gia tăng của
Tỷ giá hối đoái E

các khoản tiền gửi bằng nội tệ. Để các thò trường tài sản duy trì được sự cân
bằng, một sự gia tăng trong sản lượng nội đòa phải đi liền với sự tăng giá đồng
nội tệ, nếu tất cả các điều kiện khác đều như nhau, và một suy giảm trong sản
lượng nội đòa phải đi liền với một sự giảm giá nội tệ.
Trong khi đường DD vạch ra các tỷ giá

Biểu đồ 4

A


hối đoái và các mức sản lượng mà ở đó
thò trường sản phẩm cân bằng, đường

E1

AA gắn kết các tỷ giá hối đoái và các
mức sản lượng duy trì các thò trường tiền

E2

A

tệ và ngoại hối ở thế cân bằng.
Y1

Một số nhân tố tác động tới vò trí của đường AA bao gồm:

Y2

Sản lượng Y
GDP

- Sự thay đổi trong cung tiền Ms: với một mức sản lượng được ấn đònh,
khi các điều kiện khác đều như nhau, một sự gia tăng trong cung tiền làm cho
đồng nội tệ giảm giá trên thò trường ngoại hối. Do với mỗi mức sản lượng, tỷ
giá hối đoái E đều cao hơn sau khi cung tiền tăng, sự gia tăng trong cung tiền
sẽ làm cho đường AA dòch chuyển sang phải. Tương tự, một suy giảm trong
cung tiền làm cho AA dòch chuyển sang trái.

- 16 -



Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

- Sự thay đổi giá cả trong nước P: khi P tăng sẽ làm giảm cung tiền thực
tế và làm lãi suất tăng. Khi các điều kiện khác đều như nhau, sự gia tăng này
trong lãi suất làm cho E suy giảm. Tác động của một sự gia tăng trong P do đó
là một sự dòch chuyển sang trái của AA. Một suy giảm trong P đưa đến một sự
dòch chuyển sang phải của AA.
- Sự thay đổi trong mức tỷ giá dự kiến tương lai Ee: Khi các điều kiện
khác đều như nhau sự gia tăng trong Ee làm cho đồng nội tệ giảm giá hay E
tăng, kết quả là AA sẽ dòch chuyển sang phải. Đường AA sẽ dòch chuyển sang
trái khi tỷ giá hối đoái dự kiến trong tương lai giảm.
- Một sự thay đổi trong mức lãi suất trên các khoản tiền gửi bằng ngoại
tệ i*: khi i* tăng và với mức sản lượng đã cho, E phải tăng để tái lập sự ngang
bằng tiền lãi. Như vậy, tác động của sự thay đổi trong i* giống như sự tác động
của Ee đối với đường AA.
- Một sự thay đổi trong mức cầu tiền thực tế: một sự cắt giảm trong cầu
tiền tệ hàm ý một dòch chuyển vào phía trong của cầu tiền thực tế L(i,Y) cho
mọi mức Y được ấn đònh, và như vậy nó đưa lại một mức lãi suất thấp hơn và
một sự gia tăng trong E. Do đó, một sự cắt giảm trong cầu tiền thực tế có tác
động giống hệt với một sự gia tăng trong cung tiền ở chổ nó làm cho AA dòch
chuyển sang phải. Trường hợp ngược lại sẽ làm cho AA dòch chuyển sang trái.
Tóm lại trong cả hai trường hợp, tỷ giá hối

Tỷ giá hối đoái E

A

đoái duy trì sự cân bằng ngắn hạn ở mức


D

tỷ giá E0 ứng với mức sản lượng Y0 trong
cả hai thò trường và nó được trình bày qua
biểu đồ bên:

E0

A

Biểu đồ 5
D
Y0

3/ Điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với GDP:

- 17 -

Sản lượng Y
GDP


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Giờ đây, chúng ta đã thấy sự cân bằng ngắn hạn của nền kinh tế được xác
đònh như thế nào, chúng ta có thể nghiên cứu xem những thay đổi trong những
chính sách kinh tế vó mô của chính phủ tác động ra sao tới sản lượng và tỷ giá
hối đoái, điều này giúp cho chúng ta có được những phương pháp khoa học cho
việc điều chỉnh tỷ giá. Dó nhiên, với bất kỳ một thay đổi nào trong các nhân tố

ảnh hưởng đến vò trí của đường AA và DD (như trình bày ở trên) cũng làm thay
đổi tỷ giá và sản lượng. Tuy nhiên, điều chúng ta quan tâm ở đây là các chính
sách tài chính, tiền tệ của Chính phủ. Cũng như những phần trên, chúng ta giả
thiết rằng các dữ kiện trong nền kinh tế mà chúng ta đang nghiên cứu không gây
ảnh hưởng tới lãi suất trên các khoản tiền gửi ngoại tệ R* hay mức giá P* và
rằng mức giá trò nước P được cố đònh trong ngắn hạn.
3.1 Chính sách tiền tệ:

Tỷ giá hối đoái E

A2

Tác động ngắn hạn của một sự

D
A1

gia tăng nhất thời trong cung tiền trong
nước được trình bày trong biểu đồ 6.

2

E2

Một mức cung tiền được gia tăng

1

E1


A2

làm A1A1 chuyển dòch lên trên tới A2A2
nhưng không tác động tới vò trí của DD.
Chuyển dòch lên trên của đường cân
bằng thò trường tài sản đưa nền kinh tế

D

A1
Y1

Biểu đồ 6

Y2

Sản lượng Y
GDP

chuyển từ điểm 1, với tỷ giá hối đoái E1 và sản lượng Y1, tới điểm 2, với tỷ giá
hối đoái E2 và sản lượng Y2 . Một sự gia tăng trong cung tiền làm đồng nội tệ
giảm giá, sản lượng tăng và do đó, công ăn việc làm gia tăng.
Tại mức sản lượng ban đầu Y1 và với mức giá cố đònh đã cho, một sự gia
tăng trong cung tiền phải đẩy lãi suất trong nước R xuống thấp (giả thiết rằng sự
thay đổi tiền tệ mang tính chất tạm thời và không tác động tới tỷ giá hối đoái

- 18 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam


tương lai được dự kiến Ee). Do đó, để duy trì sự ngang bằng tiền lãi trước một sự
suy giảm trong R (cho rằng R* không thay đổi), tỷ giá hối đoái phải giảm ngay
lập tức, từ E1 tới E2 để tạo ra dự tính rằng đồng tiền trong nước sẽ tăng giá trong
tương lai với một tốc độ nhanh hơn so với dự đoán trước khi R suy giảm. Tuy
nhiên sự giảm giá tức thời của đồng nội tệ làm cho các sản phẩm nước nhà trở
nên rẻ hơn tương đối so với các sản phẩm nước ngoài. Do đó, một sự gia tăng
trong tổng cầu phải được cân xứng bằng một sự gia tăng trong sản lượng.
3.2 Chính sách tài khóa:
Một chính sách tài khoá mở rộng có thể mang hình thức của một gia tăng
trong cầu của chính phủ, một sự cắt giảm thuế hay một sự kết hợp nào đó của
hai nhân tố làm tăng tổng cầu này. Do đó, một chính sách tài khoá mở rộng nhất
thời (cái không tác động tới tỷ giá hối đoái tương lai được dự kiến) làm đường
DD chuyển dòch sang phải nhưng không làm AA chuyển động.
Tỷ giá hối đoái E

Khởi đầu, nền kinh tế ở điểm 1 với tỷ

A

D1

giá hối đoái E1 và sản lượng Y1. Sự mở
rộng tài chính của chính phủ này làm
DD chuyển động tới điểm 2, làm đồng
tiền tăng tỷ giá tới E2 và sản lượng tăng
tới Y2. Nền kinh tế sẽ phản ứng một

D2
1


E1

2

E2
D1
D2

A

cách tương tự trước một sự cắt giảm
thuế nhất thời.

Y1

Sự gia tăng trong sản lượng được gây

Y2

Sản lượng Y
GDP

Biểu đồ 7

nên bởi chính sách mở rộng tài khoá làm tăng nhu cầu giao dòch đối với các tài
sản nắm giữ bằng tiền thực tế. Với mức giá cố đònh, sự gia tăng trong cầu tiền
làm lãi suất R tăng theo. Vì R* và Ee không đổi, đồng nội tệ phải tăng giá để
hình thành một dự tính về một sự giảm giá sau đó đủ lớn để bù đắp sự chênh


- 19 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

lệch lãi suất quốc tế lớn hơn có lợi cho các khoản tiền gởi bằng nội tệ.
Nói tóm lại, trên đây là hai cách cơ bản nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong
ngắn hạn. Dó nhiên, trong thực tế việc kết hợp sử dụng hai công cụ này như thế
nào để đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải căn cứ vào tình hình cụ thể của nền kinh tế,
mục tiêu kinh tế của Chính phủ, ...

- 20 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Chương II: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1/

Khái quát về hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam:

Quá trình phát triển của hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam tạm thời có
thể chia thành các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1 từ năm 1955-1989: mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp
dụng cơ chế tỷ giá thả nổi và thả nổi có quản lý, nhưng các nước trong hệ thống
XHCN, với cơ chế kế hoạch tập trung, Nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi
hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn tại và phát
huy tác dụng, thay vào đó là chế độ tỷ giá cố đònh. Việt Nam cũng không nằm

ngoài khuôn khổ ấy.
Tỷ giá chính thức của Việt Nam lần đầu tiên được công bố ở miền Bắc
vào ngày 25/11/1955, là tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng Nhân dân tệ Trung
quốc: 1VND = 1.470 NDT. Tỷ giá này được xác đònh bằng cách so sánh tỷ giá
bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô Hà Nội và một số tỉnh biên giới
giữa hai nước, nhằm giải quyết nhu cầu thanh toán giữa hai nước trong những
năm kháng chiến chống Pháp.
Trong quan hệ với các nước thuộc khối XHCN trước đây, tỷ giá của Việt
Nam được tính theo đồng Rúp clearing (sau này đổi là rúp chuyển khoản –
transferable ruble) đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dòch giữa các
nước thuộc khối XHCN tự qui đònh với nhau để làm sao cho tài khoản giữa các
bên sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã được qui đònh trong Hiệp
đònh ký kết vào đầu năm thì cuối năm không còn số dư. Sau đó các tỷ giá giữa
đồng tiền Việt Nam và các đồng tiền khác được thiết lập.
Nói cách khác, tỷ giá trong giai đoạn này được xác đònh trên cơ sở lý
- 21 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

thuyết về “ngang bằng sức mua” giữa nhóm hàng hóa chính của Việt Nam và
nhóm hàng hóa chính của các nước trong phe XHCN - (lý thuyết về ngang bằng
sức mua được David Ricardo nêu ra vào khoảng đầu thế kỷ XIX và được Gustav
Cassel phát triển thêm vào đầu thế kỷ XX). Dó nhiên, việc xây dựng tỷ giá bằng
phương pháp này thiếu chính xác và không phản ánh đúng mức tình hình của thò
trường.
Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dòch) Nhà nước còn đưa ra 2 loại
tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dòch và tỷ giá kết toán nội bộ. Như vậy chế độ tỷ
giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá. Hệ thống tỷ giá này đã
gây không ít khó khăn cho việc quản lý điều hành của Nhà nước trong lónh vực

tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời đã bộc lộ nhiều mặt bất hợp lý, nó
không những không thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá hối đoái trong việc cân bằng
cán cân thanh toán, điều tiết tái sản xuất mà còn kìm hãm các hoạt động kinh tế
đối ngoại của nước ta, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế trong
một thời gian dài. Chính vì vậy nhu cầu đổi mới cơ chế nói riêng, đổi mới lónh
vực tài chính tiền tệ nói chung trở thành vấn đề cấp bách.
- Giai đoạn 2 từ 1989 - nay: sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, Nhà
nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, từng bước xóa bỏ cơ chế
kế hoạch hoá tập trung, chuyển dần sang cơ chế thò trường có sự quản lý của
Nhà nước. Đây là thời kỳ có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy quản lý
và điều hành kinh tế của Nhà nước, nhất là trong lónh vực tài chính tiền tệ. Tỷ
giá hối đoái, khâu đột phá có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải cách
được đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989 Nhà nước chính thức xóa bỏ tỷ giá kết
toán nội bộ, xóa bỏ mọi chế độ trợ giá cho hoạt động ngoại thương. Tỷ giá chính
thức được ngân hàng Nhà nước công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất, cán
cân thanh toán, tham khảo diễn biến tỷ giá trên thò trường tự do và giá vàng trên
thò trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở tỷ giá này, các ngân hàng thương

- 22 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

mại xây dựng một tỷ giá riêng cho mình trong giao dòch hàng ngày với biên dộ
dao động cho phép.
Trong giai đoạn này, tỷ giá được sử dụng chủ yếu là tỷ giá của đồng Việt
Nam so với đồng USD và hệ thống tỷ giá hối đoái bao gồm hai loại là: tỷ giá
chính thức do Ngân hàng Nhà nước qui đònh và tỷ giá ở thò trường tự do. Tuy
rằng trên thực tế tỷ giá ở thò trường tự do không được công nhận nhưng nó vẫn
tồn tại do nhu cầu khách quan và chi phối rất lớn đến các hoạt động của nền

kinh tế. Chúng ta có thể chia giai đoạn này thành các thời kỳ như sau:
+ Thời kỳ thả nổi tỷ giá từ 1989 – 1993:
Trong thời kỳ này, tỷ giá hối đoái VND/USD biến động mạnh mẽ theo
khuynh hướng gia tăng và được điều chỉnh sát với giá của thò trường tự do, mỗi
một tín hiệu về biến động tỷ giá trên thò trường tự do đều được thể hiện bằng sự
điều chỉnh tương ứng trong tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước. Có thể nói, tỷ giá
trong thời kỳ này của Ngân hàng Nhà nước là cái bóng của tỷ giá ở thò trường tự
do.
Diễn biến tỷ giá hối đoái USD và VND 1989-1993
Năm
1988
1989
1990
1991
1992
1993
Nguồn:

Ngân hàng
Tư nhân
Ngân hàng
Tư nhân
Ngân hàng
Tư nhân
Ngân hàng
Tư nhân
Ngân hàng
Tư nhân
Ngân hàng
Tư nhân


Tháng 1

Tháng 3

Tháng 6

Tháng 9

3.500
5.200
4.300
4.650
7.000
7.400
11.880
12.200
10.400
10.550

4.200
5.350
4.300
4.450
7.400
7.900
11.580
11.550
10.670
10.650


4.350
4.400
4.800
5.600
8.300
8.830
11.285
11.290
10.760
10.850

4.100
4.225
5.750
6.300
10.700
11.050
10.950
10.980
10.860
10.810

Tháng 12
2.600
5.000
4.200
4.575
6.650
7.050

12.900
12.550
10.720
10.650
10.850
10.750

+ Số liệu tỷ giá ngân hàng từ Ngân hàng nhà nước.
+ Số liệu tỷ giá TTTD từ Tạp chí kinh tế phát triển 06/1999 và từ các Tạp chí tài chính
1994-1999.

- 23 -


Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

+ Thời kỳ thả cố đònh tỷ giá từ 1993 – 1996:
Với mục tiêu điều chỉnh những lệch lạc và các hệ quả xấu do thả nổi tỷ
giá không kiểm soát gây ra, tỷ giá trong thời kỳ này đã được quản lý một cách
“chặt chẽ” và hầu như cố đònh ở mức 11.000 VND/USD trong suốt thời kỳ. Lẽ
đương nhiên, khi chuyển từ một thái cực quản lý này sang một thái cực quản lý
khác sẽ hạn chế được một số những tác động và hệ quả xấu trong thái cực cũ,
tuy nhiên nó cũng làm xuất hiện những hệ quả tiêu cực khác. Vì vậy, đến cuối
năm 1996 Nhà nước đã có những điều chỉnh thích hợp hơn trong chính sách quản
lý tỷ giá.
+ Thời kỳ tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ 10/1996 – nay:
Cùng với những tác động từ bên trong, nền kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn này còn chòu ảnh hưởng của những cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ
trong khu vực và trên thế giới, điều này đòi hỏi Nhà nước phải có những chính
sách tỷ giá linh hoạt hơn, nhạy bén hơn mới có thể quản lý được thò trường phức

tạp này.
Nhìn chung, trong giai đoạn này tỷ giá hối đoái của đồng tiền Việt Nam
đã phản ảnh khá chính xác những quan hệ thò trường. Nó đã và đang là một công
cụ hữu hiệu để chính phủ Việt Nam điều tiết các hoạt động kinh tế nhằm phục
vụ các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
2/ Phân tích việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái trong thời gian
qua từ 1989 đến nay:
Sau khi bắt tay thực hiện chính sách đổi mới toàn diện và sâu sắc năm
1986, tình hình kinh tế - tài chính trong và ngoài nước có những biến đổi quan
trọng, buộc chúng ta phải điều chỉnh lại chính sách tỷ giá hối đoái một cách căn
bản. Một mặt với phương châm mở cửa hội nhập và làm bạn với các nước, thò
trường ngoại thương nói riêng và đối tác kinh tế đoái ngoại nói chung đã thay

- 24 -


×