Đề án môn học
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư là một hoạt động kinh tế, là bộ phận không thể thiếu trong họat
động sản xuất kinh doanh ở mọi lĩnh vực. Đầu tư phát triển là một hình
thức đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp tới tăng tiềm lực kinh tế nói chung và
tiềm lực sản xuất kinh doanh của từng cơ sở nói riêng, nó là điều kiện chủ
đạo để tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta, khi cơ sở vật chất hạ
tầng còn thiếu thốn, chưa đảm bảo, nhu cầu vốn sản xuất của các ngành rất
lớn thì đầu tư là điều kiện bắt buộc phải có trong chiến lược phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước, đặc biệt đầu tư càng cần thiết hơn trong xu hướng
toàn cầu hóa hiện nay. Đầu tư bao gồm rất nhiều bộ phận: đầu tư trong
nước, đầu tư nước ngoài. Trong đầu tư nội địa bao gồm: đầu tư từ NSNN,
đầu tư từ vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,
… Đầu tư nước ngoài như là ODA,FDI,…
Trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dựa nhiều vào
đầu tư, và qua số liệu thống kê, Việt Nam đang dựa ngày càng nhiều vào
đầu tư nước ngoài để chi trả cho đầu tư trong nước. Mô hình tăng trưởng
dựa trên đầu tư, nhất là dựa trên FDI tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là khi FDI
sụt giảm. Vì thế cần nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước, bên
cạnh việc khuyến khích luồng vốn đầu tư tư nhân để đảm bảo tính bền
vững của tăng trưởng.
Đầu tư nhà nước có vai trò quan trọng trong thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là các lĩnh vực cần cho quốc tế, dân sinh mà
cơ chế thị trường ít phát huy tác dụng hoặc tư nhân không đủ sức, ít quan
tâm vì rủi ro và lợi nhuận thấp. Nhưng nếu nguồn tài lực không được quản
lý, sử dụng hiệu quả thì không đạt được mục đích mong muốn, còn có thể
là nguyên nhân làm đất nước lâm cảnh nợ nần. Trước tầm quan trọng của
đầu tư từ NSNN, em xin được nghiên cứu và phân tích những tác động của
vốn đầu tư từ NSNN tới tăng trưởng.
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
1
Đề án môn học
CHƯƠNG I- VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN
I- CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN:
1- Vốn sản xuất:
Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương
tiện trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố
định và vốn lưu động.
Ở giác độ vĩ mô, vốn sản xuất luôn được biểu hiện dưới dạng hiện vật,
phản ánh năng lực sản xuất của một nền kinh tế. Khi đánh giá tài sản được
tích lũy lại và chỉ tính đối với các loại tài sản có liên quan trực tiếp đến sản
xúât và dịch vụ.
2- Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc
gia tăng mức vốn sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư
vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Vốn đầu tư vào tài
sản cố định lại chia thành vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sữa chữa lớn.
Vốn đầu tư cơ bản làm tăng khối lượng thực thể của tài sản cố định, bảo
đảm bù đắp số tài sản cố định bị hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở
dang. Còn vốn sữa chữa lớn không làm tăng khối lượng thực thể của tài
sản, do đó nó không có trong thành phần của vốn đầu tư cơ bản. Nhưng vai
trò kinh tế của vốn sữa chữa lớn tài sản cố định cũng giống như vai trò kinh
tế của vốn đâù tư cơ bản là nhằm đảm bảo thay thế tài sản bị hư hỏng.
II- NGUỒN HÌNH THÀNH VỐN ĐẦU TƯ:
Vốn đầu tư được hình thành từ tiết kiệm của dân cư, chính phủ, và tiết
kiệm của các công ty. Ngoài ra, vốn đầu tư cũng được huy động từ các
khoản viện trợ, các khoản đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Như vậy có thể
chia nguồn hình thành vốn đầu tư thành nguồn vốn nội địa và nguồn vốn
nước ngoài.
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
2
Đề án môn học
1- Nguồn vốn đầu tư trong nước:
a- Tiết kiệm của chính phủ (Sg):
Tiết kiệm của chính phủ, theo tính chất sở hữu bao gồm tiết kiệm từ
NSNN (Sg.h) và tiết kiệm của các công ty Nhà nước (Sg.c). Theo tổ chức
kinh tế thì tiết kiệm của các công ty Nhà nước và tiết kiệm của các công ty
tư nhân được kết hợp chung là tiết kiệm của các công ty. Do vậy trong
phạm vi xem xét ở đây, tiết kiệm cuả chính phủ được giới hạn trong phạm
vi tiết kiệm của Ngân sách Nhà nước. Về nguyên tắc, tiết kiệm được tính
bằng cách lấy tổng số thu nhập trừ đi các khoản chi tiêu.
Tức là: Sg = = ∑thu Ngân sách - ∑ chi Ngân sách
Nhưng đối với chính phủ, đặc biệt là chính phủ của các nước đang
phát triển, chi cho đầu tư phát triển là một nhiệm vụ chi quan trọng, do vậy
tình trạng phổ biến là bội chi Ngân sách, nhưng đầu tư vẫn được coi là một
nội dung chi tiêu quan trọng. Các khoản chi của chính phủ qua NSNN bao
gồm:
- Chi mua hang hóa và dịch vụ
- Chi các khoản trợ cấp
- Chi trả lãi suất và các khoản vay
Thu Ngân sách chủ yếu là thuế và một phần các khoản lệ phí.
b- Tiết kiệm của các công ty (Sc):
Tiết kiệm của các công ty được xác định trên cơ sở doanh thu của
công ty và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Doanh thu của công ty là các khoản thu nhập của công ty do tiêu thụ
hang hóa hoặc các dịch vụ sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian trong quá
trình sản xuất. Tổng doanh thu được kí hiệu là TR.
- Tổng chi phí (TC) thường bao gồm các khoản: trả tiền công, trả tiền
thuê đất đai, trả lãi suất tiền vay và thuế kinh doanh.
Khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí được gọi là lợi
nhuận của công ty trước thuế:
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
3
Đề án môn học
TR – TC = Pr trước thuế
Lợi nhuận trước thuế sau khi đóng thuế lợi tức sẽ còn lại lợi
nhuận sau thuế :
Pr trước thuế - Td.e = Pr sau thuế
Đối với các công ty cổ phần thì Pr sau thuế còn phải chia cho
các cổ đông:
Pr sau thuế - Pr cổ đông = Prđể lại công ty (Pr không chia)
Lợi nhuận để lại công ty (hay còn gọi là lợi nhuận không chia)
chính là tiết kiệm của công ty, nhưng vốn đầu tư của công ty còn sử
dụng cả quỹ khấu hao nên:
Ic = Dp + Prkhông chia
Trong đó: Ic là đầu tư của công ty
Dp là khấu hao
c- Tiết kiệm của dân cư (Sh):
Tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ
gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng (ID) và các khoản thu khác.
Thu nhập có thể sử dụng được tính bằng công thức:
DI = NI – Td + Su
Trong đó : NI là thu nhập quốc dân sản xuất
Td là thuế thu nhập (bao gồm cả thuế thu nhập của
công ty và thuế thu nhập của dân cư: Td = Td.e + Td.h)
Su là các khoản trợ cấp của chính phủ
Các khoản thu nhập khác có thể từ rất nhiều nguồn như được
viện trợ, thừa kế, bán tài sản, trúng xổ số, thậm chí là các khoản đi vay…
Các khoản chi tiêu của hộ gia đình gồm có:
- Các khoản chi mua hang hóa và dịch vụ
- Chi trả lãi suất các khoản tiền vay
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
4
Đề án môn học
2- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
a- Viện trợ phát triển chính thức (ODA)
ODA ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II cùng với kế hoạch Marshall
để giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh
tàn phá. ODA được gọi là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính
quyền Nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế
viện trợ cho các nứơc đang phát triển nhằm thúc đâỷ sự phát triển kinh tế
và phúc lợi xã hội của các nước này.
Ngày nay nguồn vốn ODA không chỉ từ các nước OECD mặc dù các
nước này vẫn chiếm đại bộ phận (85%), ngoài ra còn từ Nga và các nước
Đông Âu (10%) và các nước Ả rập có dầu mỏ (5%), ODA được thực hiện
trên cơ sở song phương hoặc đa phương. Viện trợ đa phương thông qua các
tổ chức quốc tế. Ví dụ như: Các tổ chức Liên hợp quốc (UNDP, UNICFF,
UNESCO,…); IMF, WB, ADB, OPEC. Viện trợ đa phương thường chiếm
20% trong tổng nguồn vốn ODA, còn lại là viện trợ song phương. Nội
dung viện trợ ODA bao gồm:
- Viện trợ không hoàn lại thường chiếm 25% tổng vốn ODA
- Hợp tác kĩ thuật
- Cho vay ưu đãi
b- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nứơc ngoài đối với các nước đang
phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế.
FDI không chỉ cung cấp nguồn vốn mà nó còn thực hiện quá trình chuyển
giao công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật và tìm thị trường tiêu thụ ổn định.
Mặt khác vốn FDI còn gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Do
đó thu hút được nguồn vốn này sẽ giảm được gánh nợ nước ngoài đối với
các nước đang phát triển.
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
5
Đề án môn học
III- VAI TRÒ CỦA VỐN VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ:
Mô hình Harrod – Domar:
Mô hình được xuất phát từ tư tưởng của Keynes ở trên, nó được áp
dụng khá phổ biến và rộng rãi ở các nước đang phát triển, hiện tại vẫn là
một mô hình được các nhà kinh tế đương đại dùng để xem xét mối quan hệ
giữa nhu cầu về vốn và tăng trưởng.
Nếu gọi đầu ra trong một đơn vị thời gian là GDPt, tỷ lệ tăng
trưởng của đầu ra là g thì:
g =
t
t
GDP
GDP
∆
Nếu gọi s là tỷ lệ tích lũy GDP và mức tích lũy St thì:
t
t
GDP
S
s
=
Do tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết đầu tư
luôn bằng tiết kiệm (St = It), nên : s =
t
t
GDP
I
Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất do đó I
t
=
∆
K
t+n
.
Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn và đầu ra ta có:
GDP
K
k
nt
∆
=
+
hay
GDP
I
k
t
∆
=
Vì :
t
GDP
GDP∆
=
tt
t
GDPI
GDPI
.
.∆
=
GDP
I
GDP
I
t
t
t
∆
=
k
s
Vậy g =
k
s
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
6
Đề án môn học
Hệ số k được gọi là hệ số ICOR. Đó là hệ số gia tăng vốn/đầu ra, tức là
vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, tiết kiệm của
dân cư và các công ty là nguồn gốc của đầu tư. Hệ số này còn phản ánh
trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư. Mô
hình cho phép các nhà hoạch định đưa ra các kế hoạch tăng trưởng phù hợp
với mục tiêu phát triển kinh tế.
Tóm lại mô hình chỉ ra sự tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa tiết
kiệm và đầu tư, đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế, là tiền
đề của sự phát sinh lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.
IV- VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
Đầu tư phát triển từ NSNN tác động tới tăng trưởng kinh tế, điều chỉnh
và chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư theo định hướng của chính phủ. Đối với
nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa như nước ta nói riêng thì đầu tư từ NSNN có tác dụng kích thích các
thành phần kinh tế phát triển có hiệu quả hơn và đồng đều hơn. Trong điều
kiện hiện nay thì đầu tư của tư nhân và nước ngoài chỉ chủ yếu tập trung
vào các ngành nghề, khu vực có khả năng sinh lời cao, mức độ an toàn lớn,
vốn nhỏ, dẫn đến mất cân đối trong các ngành kinh tế và vùng kinh tế. Để
nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ thì chính phủ sẽ dùng vốn đầu tư
phát triển từ Ngân sách để đầu tư vào một số lĩnh vực mà có vốn đầu tư
lớn, khả năng thu hồi vốn chậm như các công trình phúc lợi, mặt bằng cơ
sở hạ tầng, chi cho đầu tư phát triển giáo dục…
1- Vai trò của vốn đầu tư từ NSNN tới cơ sở hạ tầng:
Vốn đầu tư từ NSNN là nguồn vốn đầu tư cơ bản và quan trọng nhất
để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như: hệ thống giao thông, bưu điện,
thông tin liên lạc, giao thông, bưu điện, thông tin liên lạc…Các công trình
này là những công trình công cộng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn nhưng
thời gian thu hồi vốn dài, lợi nhuận thấp. Do đó, các nhà đầu tư thường
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
7
Đề án môn học
không muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Hiện nay việc tham gia đầu tư từ các
nguồn vốn ngoài NSNN là quá ít, để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu
phát triển đất nước, Nhà nước phải sử dụng vốn đầu tư từ NSNN đầu tư
cho phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Từ khó khăn về huy động vốn
dẫn đến tiến độ thi công các công trình đầu tư phát triển các lĩnh vực kết
cấu hạ tầng cũng rất chậm chạp, trì trệ, một số công trình có tên trong danh
mục đầu tư đã được phê duyệt cứ phải xếp hang mãi mới đến lượt, nhiều
công trình không thể thực hiện được vì không đảm bảo vốn đầu tư. Ngoài
ra, vấn đề sử dụng vốn cho phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng cũng
đang là vấn đề nhức nhối mà các ngành đang phải tìm cách giải quýêt. Đó
là tình trạng thất thoát vốn do tệ tham ô, tham nhũng, do việc thực hiện
không đúng tiến độ kỹ thuật. Mà thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng thì rất lớn, gây lãng phí vốn,…
2- Vai trò của vốn đầu tư từ NSNN tới nông nghiệp nông thôn:
Để phát triển kinh tế với tốc độ cao và có hiệu qủa ở một số nước
trên thế giới chủ yếu nhằm vào đầu tư phát triển các ngành công nghiệp, họ
coi đó là cách đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Sở dĩ họ có
lựa chọn như vậy vì đất nước họ có nền công nghiệp rất phát triển và có
thành tựu đạt được từ các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trước đó.
Thực tế Việt Nam, trong giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, nền
kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với cơ sở vật chất
thấp kém. Khi đó chúng ta chỉ tập trung vào đầu tư các ngành công nghiệp
nặng và các ngành công nghiệp nhẹ, cuối cùng chúng ta đã không thành
công mà còn kéo theo sự trì trệ, chậm phát triển của các ngành kinh tế
khác. Ở giai đoạn sau, khi chúng ta nhìn nhận lại kết quả đạt được thì thấy
rằng sở dĩ chúng ta không thành công là do cơ cấu đầu tư cho các ngành là
không hợp lí. Không chú trọng đầu tư vào những ngành có lợi thế để tận
dụng được những lợi thế này, ví dụ như ngành nông nghiệp có lợi thế rất
lớn về đất đai, điều kiện khí hậu, kĩ thuật canh tác lâu đời thì lại không
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
8
Đề án môn học
được quan tâm đầu tư đúng mức, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng
thấp kém và chưa phát triển đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoảng cách về thu nhập giữa nông dân giàu và
nghèo, giữa nông thôn và thành thị ngày càng tăng. Nguyên nhân của tình
trạng này một phần do thiếu những điều kiện và tiền đề cần thiết để phát
triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó quan trọng nhất là lực lượng sản
xuất, một phần do việc đầu tư của Nhà nước chưa thỏa đáng. Vốn tích lũy
của khu vực này rất thấp vì vậy việc tăng cường đầu tư vào phát triển nông
nghiệp nông thôn từ NSNN và các nguồn khác trong điều kiện hiện nay là
hết sức cần thiết nhằm khắc phục những tồn tại nêu trên, điều đó sẽ thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
9
Đề án môn học
CHƯƠNG II- PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ
NSNN TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM.
I- THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM:
1- Tình hình kinh tế Việt Nam:
Nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2008 với nhiều yếu tố không
thuận lợi. Về bối cảnh kinh tế thế giới, kể từ cuối năm 2007, giá dầu thô và
nhiều loại vật tư, lương thực trên thị trường thế giới tăng đột biến, kinh tế
tăng trưởng châm lại trên phạm vi toàn cầu, tình hình lạm phát trên phạm vi
toàn cầu có dấu hiệu tăng lên. Những diễn biến trên đã tác động không nhỏ
đến kinh tế của hầu hết các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Về
bối cảnh trong nước, xu hướng gia tăng mạnh của giá cả, nhập siêu, thiên
tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng xấu đến sản xuât và đời sống
nhân dân. Bên cạnh những hạn chế, bất cập và thách thức không nhỏ đó, thì
đầu tư nước ngoài (FDI) lại là điểm sáng nhất. Tính riêng tháng 5/2008 đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã đạt 7,5 tỉ USD, đưa tổng số 5 tháng lên 14,7 tỉ
USD, cao gấp trên 2,6 lần cùng kỳ năm trước. Nếu kể cả 0,6 tỉ USD của
các dự án tăng vốn thì tổng lượng vốn đang ký mới và bổ sung đạt trên 15,3
tỉ USD, cao gấp 2,3 lần cùng kỳ năm trước, không những lớn nhất so với
cùng kỳ từ trước tới nay mà còn lớn hơn mức cả năm từ năm 2006 trở về
trước, bằng trên hai phần ba lượng vốn của cả năm 2007. Điều đó chứng tỏ
bất chấp những khó khăn của nền kinh tế, Việt Nam vẫn là điểm thu hút
FDI hấp dẫn.
Mức nhập siêu 5 tháng đầu năm là 14,4 tỷ USD, chiếm 61,6% kim
ngạch xuất khẩu. Nhập siêu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không
kể dầu thô là 2,5 tỷ USD, chiếm 17,6% tổng kim ngạch nhập siêu; nhập
siêu của khu vực kinh tế trong nước là 11,9 tỷ USD, chiếm 82,4%. Bên
cạnh yếu tố về tăng số lượng hàng nhập khẩu, thì sự tăng giá của một số
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
10
Đề án môn học
mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong thời gian gần đây cũng góp phần không
nhỏ gây nên tình trạng nhập siêu.
Kim ngạch xuất khẩu 5 tháng đạt 23,4 tỷ USD, tăng 27% so với cùng
kỳ, trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tăng 24% so với cùng kỳ năm trước. Tính từ đầu năm đã có 8 nhóm
hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD gồm dầu thô, than đá, hàng dệt
may, giày dép, gỗ, thủy sản, gạo và cà phê.
Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của giá cả nguyên liệu trên thế giới tăng
đã khiến chi phí sản xuất cũng như giá thành các dịch vụ tăng lên, nhưng
hoạt động thương mại cũng diễn ra khá sôi động trên hầu khắp các địa bàn
trong cả nước. Tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
xã hội 5 tháng đầu năm đạt 370.000 tỷ đồng, tăng tới 29,5% so với cùng kỳ
năm trước.
2- Cơ cấu vốn đầu tư ở Việt Nam và tình hình sử dụng:
a- Cơ cấu vốn:
* Về cơ cấu ngành, vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực
công nghiệp và xây dựng, với 512 dự án, thông qua tổng vốn đăng ký 32,5
tỷ USD, chiếm 53,7% về số dự án và 55,7% về vốn đăng ký. Lĩnh vực dịch
vụ có 400 dự án với tổng vốn đăng ký 25,5 tỷ USD, chiếm 42% về số dự án
và 44% về vốn đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp.
* Xét về cơ cấu nhà đầu tư, Malaysia nổi lên dẫn đầu trong số 44
quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam về vốn đăng ký trong 10
tháng với 40 dự án được cấp phép, tổng vốn đăng ký 14,8 tỷ USD, chiếm
25,5% về vốn tổng đầu tư đăng ký của cả nước. Đài Loan đứng vị trí thứ
hai với 122 dự án, vốn đầu tư 8,6 tỷ USD, chiếm 14,8% về vốn đăng ký.
Nhật Bản đứng thứ ba với 90 dự án, vốn đầu tư 7,2 tỷ USD, chiếm gần
13% của tổng vốn đăng ký.
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
11
Đề án môn học
" Tính đến tháng 9-2008, Hà Nội đã thu hút tổng cộng 1.400 dự án đầu
tư trực tiếp nước ngoài, với tổng vốn đăng ký đạt hơn 18 tỷ USD. Cơ cấu
vốn đầu tư vào Hà Nội có sự chuyển biến mạnh mẽ từ lĩnh vực công nghiệp
sản xuất và kinh doanh sang lĩnh vực dịch vụ, tài chính ngân hàng và đặc
biệt là các dự án bất động sản lớn.
b- Tình hình sử dụng:
Tồn tại quá nhiều vấn đề trong sử dụng vốn, xảy ra tình trạng lãng phí
kép, và “bệnh hình thức”
“Lãng phí kép” trong sử dụng vốn: với một nước đang phát triển như
Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên, thực tế hiệu quả sử dụng vốn
gây lãng phí, tiền tiêu không hợp lý. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ về
việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn vốn
đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA.
Việc thất thoát ngân sách đã được Chính phủ thừa nhận, tiền ngân
sách là gì khác ngoài tiền thuế của dân đóng góp. Đầu tư trong nước là một
nguồn lực tốt, thậm chí, trong năm 2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn
FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các doanh nghiệp tư nhân, các cá nhân,
do đó, họ có lợi ích thực, thúc đảy hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy nhiên,
hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các
nguồn lực khác: cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu
đãi lớn dành cho doanh nghiệp nhà nước. Đáng lẽ ra, tư nhân có thể sử
dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên, không phủ nhận sự yếu
kém của doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhưng một yếu tố quan trọng
chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn ,do chính nhà
nước tạo ra.
Về vốn bên ngoài, chúng ta nhận được nhiều cam kết, nhưng tốc độ
giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI Cam kết FDI 10-16 tỷ USD nhưng
thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà
đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào. Nếu để tình trạng này lâu, nguy
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
12
Đề án môn học
cơ rõ ràng có thể xảy đến chính là việc các nhà đầu tư ngần ngại trong việc
đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí
họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm để
khôi phục đà đầu tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam
kết đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 8 tỷ USD.
Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản
thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật
hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách
đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ
tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp
điện nhưng không có kết quả. Nước này đã rút dự án khỏi Việt Nam. Bài
học Phần Lan cần phải tránh
Chúng ta không thể chỉ dựa riêng vào ngân sách, vào ODA để làm hạ
tầng. Phải tin mình và tin các nhà đầu tư để mạnh dạn mở cửa. Không thể
quay lưng lại với cơ hội, nhất là khi chúng ta đã có hệ thống pháp lí quốc tế
để soi chiếu, có kinh nghiệm hợp tác nhiều năm. Tâm lí e ngại đáng ra
không được duy trì lâu như vậy. Giá của sự chờ đợi ấy không đáng.
Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc
cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do
quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống
nhất.
Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam
khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn
vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã
làm chậm quá trình giải ngân.
Ngay cả một nơi được đánh giá là phát triển năng động như thành phố
Hồ Chí Minh cũng có tình trạng đó. Một số nhà cung cấp ODA đã thực
hiện biện pháp mang tính trừng phạt nhưng cũng không thúc đẩy được bao
nhiêu.
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
13
Đề án môn học
Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu
không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ, một
dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không
phải trả lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử
dụng chỉ còn 2-3 năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái
giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của
khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào.
Đây là lãng phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. Đặc
biệt, mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội.
3- Vốn đầu tư từ NSNN ở Việt Nam:
Như đã nói ở trên, tiền ngân sách chính là tiền thuế của dân đóng
góp. Thế nhưng một thực trạng đáng lo ngại là đầu tư từ ngân sách lại chưa
hiệu quả, và nâng cao hiều quả từ vốn đầu tư ngân sách nhà nước là một
trong những vấn đề cần giải quyết.
Một số câu trả lời cho câu hỏi đó là:
- Đầu tư quá nhiều vào cơ sở hạ tầng
- Quá chú trọng tới chỉ tiêu tăng trưởng
- Chưa sẵn sàng cho hình thức đầu tư ngoài nhà nước
Đầu tư quá nhiều vào cơ sở hạ tầng, chiếm 50% ngân sách, như vậy sẽ
khiến cho an sinh xã hội, giáo dục bị ảnh hưởng. Đầu tư khu vực nhà nước
tuy đã có xu hướng giảm nhưng vẫn còn cao. Từ mức bình quân 51% thời
kỳ 1991 – 2005, đến nay tỷ lệ này còn là 43%. Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch
chuyển theo hướng tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng về phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời quan tâm đầu tư hơn cho vùng nghèo, xã
nghèo vùng đồng bào dân tộc.
Tuy nhiên, công tác quản lý đầu tư còn yếu kém, chất lượng quy hoạch
chưa cao, chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho họach định các kế hoạch
phát triển. Việc quản lý vừa rườm rà, vừa lỏng lẻo trong đầu tư thể hiện ở
tất cả các khâu từ xác định chủ trương lập, thẩm định dự án, ra quyết định
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
14
Đề án môn học
đầu tư, thiết bị kỹ thuất, lập tổng dự toán,… đến khâu triển khai thực hiện,
theo dõi cấp phép và thanh toán gây ra tình trạng thất thoát không nhỏ cho
vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, hiện nay vẫn còn có tình trạng số lượng dự án duyệt chờ
ngân sách cấp vốn ngày càng tăng, vượt quá khả năng cân đối của ngân
sách.
Tất cả những yếu kém trên đã khiến cho đầu tư kém hiệu quả. Điều
này được thể hiện qua chỉ số ICOR ngày càng lớn. Thời kỳ 1991-1995 chỉ
số này là 3, nhưng thời kỳ 1996-2000 lên tới 4,3; thời kỳ 2001-2005
khoảng 4,7 đến là trên 5,0.
Ngoài ra, nguyên nhân sâu xa là do đã đầu tư từ ngân sách nhà nước
tập trung quá nhiều vào lĩnh vực hạ tầng cơ sở, chưa đầu tư thoả đáng cho
các dự án có khả năng thu hồi vốn, trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá có
giá trị làm tăng GDP.
Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển đời sống, kinh tế
nhân dân, nhưng đây cũng không phải là cách ứng xử duy nhất, vì chúng ta
có thể vận dụng những hình thức như BOT, BTO, PPP.
Hiện đầu tư công của chúng ta đã vượt xa so với khả năng của ngân
sách nhà nước. Trong khi đó, đầu tư cho cơ sở hạ tầng đã chiếm tới 50%
ngân sách. Điều này sẽ khiến đầu tư cho an sinh xã hội, giáo dục bị ảnh
hưởng.
Quá chú trọng tới chỉ tiêu tăng trưởng. Những năm gần đây,
chúng ta đã quá chú ý tới tốc độ tăng trưởng và quyết tâm đạt tốc độ tăng
trưởng cao nên đã dẫn tới tình trạng đầu tư năm sau cao hơn năm trước.
Bên cạnh đó, cách làm phổ biến hiện nay vẫn là chọn việc dễ để thực hiện.
Cộng thêm với tâm lý quá trông chờ vào vốn ngân sách nhà nước và khai
thác tận thu nguồn tài nguyên sẵn có của đội ngũ lãnh đạo đã tạo nên lối
“ứng xử” địa phương cát cứ, đầu tư theo kiểu “chộp giật”.
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
15
Đề án môn học
Hình thức phân bổ các dự án vẫn mang tính bình quân, theo kiểu ban phát
lợi ích chứ chưa theo quy hoạch phát triển tổng thể.
Tất cả đã khiến cho những dự án quy hoạch thường có tính địa
phương, ít tạo được tính kết nối thị trường. Vì vậy, cùng một khoản tiền
đầu tư nhưng hiệu quả mang lại chưa có tính lan tỏa mạnh.
Ngoài ra, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước lẽ ra cần đầu tư cho bộ
máy công chức thông qua tiền lương lại chưa được quan tâm thích đáng.
Thiếu sự quan tâm đúng mức cũng đã làm giảm hiệu quả của đội ngũ này
gây ảnh hưởng trực tiếp tới việc thẩm định, giám sát việc thực hiện các dự
án.
Chưa sẵn sàng cho hình thức đầu tư ngoài nhà nước. Hiện nay,
chúng ta vẫn còn quan niệm kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong sự
phát triển. Chưa sẵn sàng cho sự chuyển đổi mô hình từ đầu tư của nhà
nước sang hình thức đầu tư ngoài nhà nước.
Thêm vào đó là sự lạm dụng đầu tư công cho xây dựng cơ bản, tập
trung phát triển theo chiều rộng không chú trọng tới chiều sâu. Lối tư duy
nhiệm kỳ đã tạo ra tâm lý là lãnh đạo ai cũng muốn xây dựng hình ảnh đẹp
trong thời gian đương nhiệm.
Ngoài ra, tư tưởng cục bộ dựa trên lợi ích của nhóm nhỏ trong xã hội
cũng đã làm nảy sinh tham nhũng. Dự toán, quyết toán công trình lỏng lẻo
khiến cho chất lượng của các công trình đầu tư cơ bản thường thấp.
Chi phí bảo trì, duy tu công trình thường không được tính tới trong dự án
càng khiến cho nhưng các công trình càng mau xuống cấp. Để các công
trình này hoạt động theo đúng yêu cầu chi phí vận hành là rất lớn.
Vì vậy, để các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng thực sự mang lại hiệu quả về
mặt nhận thức cần có sự chuyển trọng tâm đầu tư phát triển ra ngoài khu
vực nhà nước. Vận dụng hình thức chìa khoá trao tay cũng sẽ tránh được
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
16
Đề án môn học
việc phải điều chỉnh khi có sự biến động về giá cả. Công trình sẽ được đảm
bảo tiến độ hoàn thiện và vốn đầu tư cũng không bị đội lên.
Cơ chế xin cho cũng cần phải được xóa bỏ thay vào đó là hình thức
đầu thầu công khai, minh bạch và có sự tham gia của các nhà thầu nước
ngoài. Nếu chưa tìm được đối tác thích hợp sẽ tổ chức đấu thầu lại.
II - PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN TỚI
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM:
1- Phân tích tác động của vốn đầu tư tới tăng trưởng kinh tế Việt
Nam:
Trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dựa nhiều vào
đầu tư, và nhiều chính sách vĩ mô được thiết kế cho mục tiêu này. Vậy làm
thế nào để tăng trưởng thật sự bền vững. Theo Bộ Kế hoạch đầu tư, tổng
vốn đầu tư toàn xã hội đã lên mức gần 44% GDP năm 2007, và 42% GDP
trong nửa đầu năm 2008. Tỷ trọng này, theo các nhà kinh tế là rất cao xét
trên phạm vi khu vực và toàn cầu.
Đầu tư nhà nước ồ ạt. Trong cơ cấu này, điều đáng chú ý, là đầu tư từ
ngân sách nhà nước đang có xu hướng giảm mạnh từ mức 45,3% năm
2006, và dự báo 41,9% năm 2008. Tỷ lệ đầu tư từ ngân sách giảm dần là
dấu hiệu đáng mừng, nhưng vẫn còn cao, chiếm phần nhiều trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội.
Tuy nhiên, hiệu quả của vốn đầu tư khu vực nhà nước đã được đặt ra
từ lâu, khi mà vẫn còn xảy ra tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí,
chậm tiến độ, nợ đọng vốn xây dựng cơ bản, đầu tư đa ngành của các
doanh nghiệp nhà nước. Rõ rang, để tạo ra cùng một năng lực sản xuất,
Nhà nước phải bỏ ra nhiều kinh phí, và nhập khẩu nhiều đầu vào cho đầu tư
hơn. Đây là lãng phí không đáng có, nhưng đến nay, vẫn chưa khắc phục
được.
Giảm vốn tư nhân. Trong tổng đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn của khu
vực này giảm từ 37.3% năm 2006, xuống 32,3% năm 2007, và ước tính
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
17
Đề án môn học
31% năm 2008, theo bộ Kế hoạch và đầu tư. Xu hướng giảm xuống trong
ba năm nay của khu vực này đã đi ngược lại với xu hướng của năm năm
trước đó. Điểm không thể chối cãi là, bất ổn trong tình hình kinh tế vĩ mô
từ cuối năm 2007 đến nay, dẫn đến giá cả đầu vào tăng cao, khó tiếp cận tín
dụng, ngoại tệ…đã gây khó khăn lớn cho sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, nhất là loại vừa và nhỏ. Câu hỏi được Quốc hội đặt ra, làm sao để
hỗ trợ khu vực kinh tế quan trọng này, dường như vẫn còn treo đó.
Trong khi đó, vốn đầu tư FDI giải ngân đang tăng cao, từ 15,9% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 2006 lên 24,8% năm 2007, và ước đạt
24,7% năm 2008, theo bộ Kế hoạch và đầu tư. Xu hướng gia tăng của
nguồn vốn này đang đặt ra không ít quan ngại.
Trước hết, luồng vốn này đang dịch chuyển từ khu vực chế biến
hướng xuất khẩu, sang bất động sản. Chỉ trong nửa đầu năm 2008, có tới
89% vốn đăng ký liên quan đến sử dụng nguồn tài nguyên khan hiếm như
căn hộ và văn phòng, dầu khí, khách sạn và du lịch, sắt thép.
Xu hướng này là đáng lo ngại, xét trên cơ sở các doanh nghiệp FDI
chiếm tới hơn 57% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm – vốn là nhân tố
giúp cân bằng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong 10 năm qua.
Hơn nữa, các dự án FDI đổ vào ngành bất động sản sẽ không tạo ra của cải,
việc làm, thu ngoại tệ và chuyển giao công nghệ, trong khi các khoản lãi
khổng lồ sẽ được chuyển ra nước ngoài.
Điều đáng lo ngại nhất là, việc giải ngân luồng vốn FDI này được dự
báo sẽ giảm đi rất nhanh, do nền kinh tế không đủ khả năng hấp thụ.
Những yếu tố nội tại như sự yếu kém về thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn
nhân lực, và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sẽ ảnh hưởng đến nguồn
vốn này.
Trong khi đó, tỷ lệ thâm hụt tiết kiệm nội địa/GDP của Việt Nam luôn
được xếp hạng xấu nhất trong khu vực, ở mức 11,7% GDP năm 2006,
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
18
Đề án môn học
16,7% năm 2007, và ước 10% cho năm 2008, theo bộ Kế hoạch và đầu tư.
Điều này là hậu quả của tiêu dùng đang có xu hướng tăng lên.
Những con số thống kê trên cho thấy, Việt Nam đang dựa ngày càng
nhiều vào đầu tư nước ngoài để chi trả cho đầu tư trong nước. Mô hình tăng
trưởng dựa trên đầu tư, nhất là dựa trên FDI tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là
khi FDI sụt giảm. Đây là điều có thể xảy ra trong bối cảnh khủng hoảng tài
chính đang lan rộng trên quy mô toàn cầu.
Rõ ràng, cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước,
bên cạnh việc khuyến khích luồng vốn đầu tư tư nhân để đảm bảo tính bền
vững của tăng trưởng. Bài học này, tiếc thay, sẽ còn mất rất nhiều thời
gian.
2 - Vốn đầu tư từ NSNN với tăng trưởng kinh tế:
2.1 - Ảnh hưởng cuả vốn đầu tư từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế:
Nước ta đang trên con đường CNH – HĐH đất nước, khởi điểm từ một
vị trí rất thấp, khi mà cơ sở hạ tầng chưa phát triển hoàn chỉnh, tiềm lực của
khu vực tư nhân chưa được tập trung và khơi dậy thì đầu tư từ NSNN có
vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động các nguồn vốn khác. Đầu tư
từ NSNN được coi như một “mồi lửa” để thổi bùng nền kinh tế bước vào
thời kỳ hoạt động sôi động, điều chỉnh nền kinh tế đi vào ổn định tăng
trưởng.
Đầu tư phát triển từ NSNN là một bộ phận của tổng đầu tư xã hội,
mỗi sự thay đổi nhỏ của Đầu tư phát triển từ NSNN đều tác động trực tiếp
tới tổng đầu tư xã hội, tác động đó thường theo tính chất cùng chiều nên ta
kỳ vọng sự thay đổi đầu tư phát triển từ NSNN tác động tới sự thay đổi của
tổng đầu tư toàn xã hội là tích cực.
Đầu tư phát triển từ NSNN tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế.
Tuy tác động trực tiếp tới nền kinh tế chưa nhiều song nó có tác dụng kích
thích tới các nhân tố khác, tạo hành lang cho các thành phần kinh tế khác
hoạt động thuận lợi hơn và hiệu quả hơn. Hơn nữa trong điều kiện hội nhập
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
19
Đề án môn học
quốc tế hện nay, yêu cầu đối với nguồn vốn NSNN rất lớn. Vốn NSNN vừa
đảm bảo được nhiều hơn cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vừa đảm bảo
nâng cao chất lượng bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh đầu
tư nghiên cứu khoa học, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hỗ trợ các
doanh nghiệp nhà nước và ngân hang thương mại quốc dân, góp phần cải
thiện môi trường đầu tư nước ngoài, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế
theo yêu cầu hội nhập quốc tế.
2.2 - Ảnh hưởng của vốn đầu tư từ NSNN tới các lĩnh vực kinh tế:
a- Đối với lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn:
Nông nghiệp là nền tảng quan trọng để góp phần ổn định kinh tế - xã
hội. Trong 5 năm (2001 - 2005) Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế chính
sách phát triển nông nghiệp nông thôn, xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm
cũng như thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia khác, xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người nông dân. Nông nghiệp tiếp tục duy
trì đà phát triển khá cao với nhịp tăng trên 5,7%, góp phần giữ vững ổn
định lương thực, cung cấp nông sản cho công nghiệp chế biến và cho xuất
khẩu, góp phần ổn định chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước.
Để đáp ứng mục tiêu phát triển ngành, nhu cầu vốn đầu tư phát triển 5
năm (2001-2005) dự kiến khoảng 133,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,9% tổng
vốn đầu tư phát triển, tăng bình quân hàng năm trên 9%, trong đó: vốn đầu
tư công cộng khoảng 97,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 80% tổng vốn đầu tư phát
triển ngành, riêng vốn Ngân sách Nhà nước khoảng 56,6 nghìn tỷ đồng,
chiếm 57% tổng vốn đầu tư công cộng của ngành. Như vậy, trong bố trí
vốn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn đã đầu tư thêm hang nghìn tỷ
vốn Ngân sách cho xóa đói giảm nghèo và các mục tiêu kinh tế - xã hội
khác và cả vốn bảo dưỡng, duy trì công trình.
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
20
Đề án môn học
Vốn đầu tư phát triển ngành nông, lâm, ngư nghiệp 2001-2005
Đơn vị : 1000 tỷ đồng, giá năm 2000
2001-
2005
2001 2002 2003 2004 2005
tổng số 133.8 20.7 23.5 25 26.3 28.1
Vốn chương trình đầu
tư công cộng
97.6 17.6 18.6 19.6 20.3 21.5
-Vốn NSNN 56.6 10.9 11 11.4 11.5 11.8
-Vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà
nước
15.4 2.9 3 3.1 3.2 3.2
-Vốn tự có của DN
Nhà nước
21 3 3.8 4.2 4.6 5.4
-Vốn duy tu, bảo
dưỡng (nguồn
NSNN)
4.6 0.8 0.8 0.9 1 1.1
Nguồn: quy hoạch, chiến lược phát triển ngành – NXB thống kê
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên nhiều vùng đã có sự chuyển dịch
theo hướng tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, đặc
biệt nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản phát trỉên khá nhanh, chiếm
khoảng 15% giá trị sản xuất toàn ngành, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng
cao. Kinh tế nông thôn phát triển đa dạng, nhiều vùng sản xuất nông sản
hang hóa với quy mô lớn, gắn liền với công nghiệp chế biến được hình
thành, các làng nghề bước đầu được khôi phục, sản xuất trang trại phát
trỉên nhanh, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo thêm việc làm ở nông
thôn.
b- Đối với lĩnh vực công nghịêp:
Do chủ trương xóa bỏ dần bao cấp trong đầu tư từ Ngân sách Nhà
nước, tăng cường tính tự chủ của các doanh nghiệp Nhà nước nên lĩnh vực
này thu hút khá nhiều vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
21
Đề án môn học
Cần phải tập trung phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, chuyển dịch cơ
cấu công nghiệp, tăng nhanh các ngành công nghiệp, các sản phẩm công
nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hang xuất khẩu, công
nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn,… Để đạt đựơc
các mục tiêu trên, trong những năm vừa qua, nhất là trong kế hoachk 5 năm
(2001-2005) Nhà nước ta đã đầu tư rất lớn cho lĩnh vực này và đã đạt được
một số kết quả đáng khích lệ,
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển ngành công nghiệp và xây dựng 2001-2005
Đơn vị: 1000 tỷ đồng, giá năm 2000
2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 369.6 62.6 71 74.9 78.05 83.05
Vốn chương trình đầu
tư công cộng
197.5 31.6 36.1 40 43.4 46.4
-Vốn NSNN 17.9 3.3 3.5 3.6 3.7 3.8
-Vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước
70 11.5 13.2 14 15.3 16
-Vốn tự có của DN Nhà
nước
108.7 16.7 19.2 22.2 24.2 26.4
-Vốn duy tu, bảo dưỡng
(nguồn NSNN)
0.9 0.1 0.2 0.2 0.2 0.2
Nguån: Quy ho¹ch, chiÕn lîc ph¸t triÓn ngµnh- ch¬ng tr×nh u tiªn-NXB
thèng kª
Nhờ có nguồn vốn trên, ngành công nghiệp Việt Nam đã có những
bước tiến hết sức quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu
sản phẩm và cơ cấu công nghệ theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng,
đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hang năm ngành công nghiệp trong 5
năm đã tăng mạnh. Đó là bước phát triển khá nhanh, góp phần làm cho nền
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
22
Đề án môn học
kinh tế tiếp tục tăng trưởng với tốc độ bình quân khoảng 7% trong điều
kiện kinh tế các nước trong khu vực đều suy giảm.
Năng lực sản xuất một số sản phẩm công nghiệp tăng khá, không
những đảm bảo nhu cầu về ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại, học hành và
nhiều loại hang tiêu dung thiết yếu khác, mà còn có khả năng xuất khẩu
ngày càng tăng. Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác
động lớn đến nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá. Cơ cấu
các ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể, hình thành một số
sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở
sản xuất có công nghệ khá hiện đại.
Tuy vậy, sản xuất công nghiệp vẫn đứng trước nhiều khó khăn, một số
ngành sản xuất còn nhiều bấp bênh, chất lượng sản phẩm còn kém, năng
suất lao động công nghiệp thấp, công nghệ chưa đáp ứng được với nhu cầu
phát triển. Tuy tốc độ phát trỉên công nghiệp đạt trên 14%/ năm nhưng do
tăng nhanh ở một số sản phẩm và phân ngành có tiêu hao vật tư lớn như
dệt, may, ô tô, xe máy nên làm cho tốc độ tăng gía trị gia tăng không tăng
tương xứng, chỉ tăng khoảng trên dưới 10%/năm. Chính vì vậy, cần phải có
những chính sách sử dụng và huy động có hiệu quả nguồn lực trong ngành
công nghiệp và những nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này.
c- Đối với lĩnh vực kết cấu cơ sở hạ tầng dịch vụ:
Kinh nghiệm những năm qua cho thấy việc đầu tư vào phát triển hạ
tầng và dịch vụ có ý nghĩa quan trọng, có tác động đến hiệu quả chung của
toàn nền kinh tế và chất lượng cuộc sống.
Trong 5 năm 2001-2005, kết cấu hạ tầng đô thị (bao gồm cả cấp thoát
nước, đường xá,…) đã được cải thiện rõ rệt, các ngành dịch vụ đô thị phát
triển khá, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và nâng cao mức
sống các tầng lớp dân cư.
Hệ thống cấp nước cho sinh hoạt dân cư và cho sản xuất đã được hoàn
thiện bước đầu. Hầu hết các thành phố, các tỉnh và phần lớn các thị trấn đều
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
23
Đề án môn học
được đầu tư nâng cấp và cải thiện hệ thống cấp nước. Năng lực cấp nước
cho khu vực đô thị tăng thêm, đường ống phân phối theo tuyến trục đã rãi
đều trong các khu vực dân cư, đạt mức tiêu dung là 70 lít nước/người -ngày
(so với mục tiêu đề ra là 80-100 lít/người- ngày).
Hệ thống trụ sở các cơ quan Nhà nước đã được chỉnh trang, mở rộng
và đầu tư xât dựng mới. Các khu dân cư đô thị đã được mở rộng, nhất là ở
các thành phố lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,…
Dich vụ đô thị phát triển mạnh, các trung tâm thương mại, hệ thống
các chợ, các siêu thị đã được hình thành trong các thành phố, thị xã, thị
trấn. Dịch vụ du lịch, nhà hang, khách sạn phát triển đáng kể, đáp ứng đựơc
nhu cầu đời sống dân cư.
Nhiệm vụ phát triển hạ tầng và dịch vụ trong 5 năm (2001-2005) là
trực tiếp góp phần xât dựng đô thị văn minh, lịch sự, cơ sở hạ tầng nông
thôn phát triển, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu, dịch vụ và hạ tầng cơ sở cho
đời sống và cho phát triển ở cả vùng nông thôn và đô thị.
Để đáp ứng mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ ở đô thị
và nông thôn, nhu cầu vốn đầu tư trong 5 năm (2001-2005) dự kiến vào
khoảng 122000 tỷ đồng, chiếm 14% tổng vốn đầu tư xã hội, trong đó riêng
chương trình đầu tư công cộng vào khoảng 44,5 nghìn tỷ đồng, bằng
khoảng 38% so với tổng vốn của ngành.
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
24
Đề án môn học
Vốn đầu tư phát triển lĩnh vực hạ tầng dịch vụ đô thị thời kỳ 2001-2005
Đơn vị : 1000 tỷ đồng, giá năm 2000
2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 121.6 21.9 24 24.6 25.2 25.9
Vốn chương trình đầu tư
công cộng
44.5 8.4 8.9 9 9 9.2
-Vốn NSNN 21.1 4.3 4.3 4.3 4.1 4.1
-Vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước
12 2.3 2.5 2.4 2.4 2.4
-Vốn tự có của DN Nhà
nước
7.4 1 1.3 1.5 1.7 1.9
-Vốn duy tu, bảo
dưỡng(nguồn NSNN)
4 0.8 0.8 0.8 0.8 0.8
Nguồn: quy hoạch, chiến lược phát triển ngành – chương trình ưu tien-
NXB thống kê.
Nhìn bảng trên cho thấy; riêng vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư cho
lĩnh vực này là rất lớn. Cụ thể: năm 2001 chiếm 51% tổng vốn chương
trình đầu tư công cộng, năm 2002 là 48,3%, năm 2003 là 47,8% và dự kiến
năm 2005 là 44,6%.
Tuy vậy, cơ sở hạ tầng đô thị và các hoạt động dịch vụ đô thị vẫn còn
nhiều bất cập. Sức vươn tới cơ sở hạ tầng và dịch vụ đô thị chưa đáp ứng
được quá trình đô thị hóa nhanh chóng trong từng vùng. Sự dồn nến về mật
độ dân cư ở các thành phố lớn như hiện nay đang là khó khăn lớn với thực
trạng về cơ sở hạ tầng còn yếu kém cần phải đựơc khắc phục trong những
năm tiếp theo.
d- Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo:
Trong giai đoạn 2002-2006, NSNN chi cho GDĐT đã tăng gấp 2,4
lần, từ hơn 22.600 tỷ đồng năm 2002 lên đến gần 55.000 tỷ đồng năm
2006. Tỷ trọng chi NSNN cho GDĐT trong GDP tăng từ 4,2%(năm 2002)
lên 5,6% (năm 2006). Theo Thứ trưởng Bộ tài chính, đây là mức chi cao so
với các nước trong khu vực và thế giới dành cho GDĐT. Trong đó, chi
Nguyễn Quỳnh Ly Lớp: Kinh tế phát triển 47A
25