A. MỞ ĐẦU
Trong thời buổi kinh tế thị trường càng ngày càng phát triển thì việc sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ trong hoạt động kinh doanh thương mại là một vấn đề vô cùng bức thiết.
Trong hoạt động thương mại, chưa bao giờ hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa
cũng như hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa trở nên quan trọng và phổ biến
như hiện nay. Pháp luật Việt Nam nói chung và Luật thương mại nói riêng, đã và
đang quan tâm đến loại hình dịch vụ trung gian thương mại này qua các chế định
cụ thể. Trong phạm vi bài tiểu luận cá nhân, em xin pháp chọn đề tài “Hợp đồng
ủy thác mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành”.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
1. Khái niệm
a. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa không được luật thương mại
2005 quy định song có thể xác định được bản chất của pháp lý của hợp đồng
mua bán hàng hóa trong thương mại trên cơ sở quy định tại quy định của Bộ luật
dân sự về hợp đồng mua bán tài sản.Thấy rằng, hợp đồng mua bán hàng hóa
trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Như vậy,
hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh
toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hóa theo thỏa thuận.
b. Khái niệm Ủy thác mua bán hàng hóa
Theo quy định tại điều 155 Luật thương mại 2005, khái niệm Ủy thác mua
bán hàng hóa là “hoạt động thương mại, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện việc
1
mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận
với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác.”
Như vậy hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại
được thực hiện theo sự ủy nhiệm và vì lợi ích của người khác để được hưởng thù
lao.
c. Khái niệm hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên nhận ủy thác thực hiện công việc mua bán hàng hóa với danh nghĩa của
mình theo những điều kiện dã thỏa thuận với bên ủy thác và được nhận thù lao
ủy thác. Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là hình thức pháp lý của hoạt động
ủy thác mua bán hàng hóa.
Về bản chất, hợp đồng uỷ thác là một hợp đồng dịch vụ mà trong đó đối
tượng của hợp đồng là công việc mua bán hàng hoá. Việc xác lập hợp đồng uỷ
thác trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận nhằm đề cao tinh thần thiện chí hợp tác
trong việc thực hiện cũng như bảo vệ quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Hợp đồng
ủy thác mua bán hàng hóa phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức
khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 159 Luật thương mại 2005).
2. Đặc điểm của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa bản chất pháp lý của nó là hợp đồng
song vụ và là hợp đồng có điều kiện.
•
Chủ thể: Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được xác lập giữa bên ủy thác và
bên nhận ủy thác. Trong đó:
− Bên ủy thác mua bán hàng hóa là thương nhân hoặc không phải thương nhân
giao cho bên nhận ủy thác thực hiện mua bán hàng hóa theo yêu cầu của mình
và phải trả thù lao ủy thác ( Điều 157 Luật thương mại 2005)
− Bên nhận ủy thác mua bán hàng hóa là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù
hợp với hàng hóa được ủy thác và thực hiện mua bán hàng hóa theo những điều
kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác (Điều 156 Luật thương mại 2005). Tất cả các
2
doanh nghiệp có giấy phép đặng kí kinh doanh trong nước hoặc giấy phép kinh
doanh xuất nhập nhập khẩu đều được phép nhận ủy thác mua bán hàng hóa.
• Hình thức: Pháp luật đã quy định rõ tại điều 159 Luật thương mại 2005 về hình
thức của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa “phải được lập thành văn bản hoặc
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.” Trong đó, hình thức có giá trị
pháp lý tương đương với văn bản gồm có điện báo, TELEX, FAX, thông điệp dữ
liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật ( khoản 15 Điều 3 Luật
thương mại 2005).
• Đối tượng: Khác với đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung là
hàng hóa thì ở đây hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có đối tượng là công
việc mua bán hàng hóa do bên nhận ủy thác tiến hành theo sự ủy quyền của bên
ủy thác.
• Nội dung: Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là các điều khoản thỏa do các
bên thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ ủy
thác. Trong thực tiễn, nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa cần đảm
bảo các điều khoản về: hàng hóa được ủy thác mua bán, thù lao, thời hạn thực
hiện hợp đồng, trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng, trường hợp miễn
trách nhiệm, thủ tục giải quyết tranh chấp... Tùy thuộc vào công việc được ủy
thác thì nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được thể hiện khác
nhau.
3. Giao kết hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa được giao kết khi một bên chủ thể đề
nghị giao kết hợp đồng được bên còn lại chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và
giao kết hợp đồng vào thời điểm hai bên đạt được thỏa thuận. Trong đó:
− Đề nghị giao kết hợp đồng: Là hành vi pháp lý đơn phương của một chủ thể, có
nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo những điều kiện
xác định. Đề nghị giao kết hợp đồng có thể do bên ủy thác hoặc bên nhận ủy
thác thực hiện
− Chấp nhận giao kết hợp đồng: Là sự trả lời của bên nhận được đề nghị giao kết
hợp đồng đối với bên đề nghị giao kết về việc chấp toàn bộ nội dung của đề
nghị.
3
− Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa: là thời điểm các bên đạt được
thỏa thuận. Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa phải được lập thành văn bản,
cho nên thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản
hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản ( khoản 4 điều
400 BLDS 2015).
4. Thực hiện hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Thực hiện hợp đồng là việc các bên tiến hành các hành vi mà mỗi bên tham
gia hợp đồng phải thực hiện trên cơ sở nghĩa vụ đã thỏa thuận nhằm đáp ứng các
quyền tương ứng của bên còn lại. Việc thực hiện hợp đồng nói chung và hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng được thực hiện dựa trên nguyên tắc:
− Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại,
thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác
− Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên
, bảo đảm tin cậy lẫn nhau
− Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi
ích hợp pháp của người khác.
a. Nghĩa vụ của các bên khi thực hiện hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa
• Nghĩa vụ của bên ủy thác
Luật thương mại 2005 quy định nghĩa vụ của bên ủy thác rõ ràng tại điều
163, trừ trường hợp có thỏa thuận khác còn lại bên ủy thác phải thực hiện các
nghĩa vụ sau:
− Cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết cho việc thực hiện hợp
đồng uỷ thác;
− Trả thù lao uỷ thác và các chi phí hợp lý khác cho bên nhận ủy thác;
− Giao tiền, giao hàng theo đúng thoả thuận;
− Liên đới chịu trách nhiệm trong trường hợp bên nhận uỷ thác vi phạm pháp luật
mà nguyên nhân do bên uỷ thác gây ra hoặc do các bên cố ý làm trái pháp luật
• Nghĩa vụ của bên nhận ủy thác: Trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác, còn
lại bên nhận ủy thác phải thực hiện các nghĩa vụ quy định tại Điều 165 Luật
thương mại 2005. Cụ thể là:
− Thực hiện mua bán hàng hoá theo thỏa thuận;
4
− Thông báo cho bên uỷ thác về các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện hợp
−
−
−
−
−
đồng uỷ thác;
Thực hiện các chỉ dẫn của bên uỷ thác phù hợp với thoả thuận;
Bảo quản tài sản, tài liệu được giao để thực hiện hợp đồng uỷ thác;
Giữ bí mật về những thông tin có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng uỷ thác;
Giao tiền, giao hàng theo đúng thoả thuận;
Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên ủy thác, nếu
nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây
ra.
b. Quyền của các bên thực hiện hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
•
Quyền của bên ủy thác: Được quy định tại điều 162 luật thương mại, cụ thể là
bên ủy thác có các quyền sau trừ trường hợp giữa các bên tham gia có thỏa
thuận khác.
− Yêu cầu bên nhận uỷ thác thông báo đầy đủ về tình hình thực hiện hợp đồng uỷ
thác;
− Không chịu trách nhiệm trong trường hợp bên nhận uỷ thác vi phạm pháp luật,
trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 163 của Luật này.
• Quyền của bên nhận ủy thác: Được luật thương mại 2005 quy định tại Điều 164
“Trừ trường hợp có thoả thuận khác, bên nhận uỷ thác có các quyền sau
đây:
1. Yêu cầu bên uỷ thác cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực
hiện hợp đồng uỷ thác;
2. Nhận thù lao uỷ thác và các chi phí hợp lý khác;
3. Không chịu trách nhiệm về hàng hoá đã bàn giao đúng thoả thuận cho
bên uỷ thác.”
5. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Thứ nhất, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là thỏa thuận quan trọng
mang tính pháp lý cho hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa
5
Thứ hai, ghi nhận sự tự do thể hiện ý chí của các bên trong quan hệ hợp
đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Thứ ba, là căn cứ pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
khi có vi phạm hợp đồng xảy ra
Thứ tư, giúp nhà nước kiểm soát hoạt động mua bán hàng hóa qua trung
gian, đồng thời sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản pháp luật phù hợp với
thực trạng kinh doanh
II. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA
BÁN HÀNG HÓA THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng (giao dịch) là là điều kiện để hợp đồng
(giao dịch) đó được pháp luật công nhận. Pháp luật thương mại Việt Nam không
có quy định cụ thể về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa. Tuy nhiên, hợp đồng là một hình thức của giao dịch dân sự cho nên điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự chính là điều kiện để hợp đồng nói chung
và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa nói riêng có hiệu lực. Vậy nên khi xác
định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa ta có thể dựa
vào quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong Bộ luật dân sự
2015 và các quy định khác của pháp luật.
Điều 117 bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội.
6
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự trong trường hợp luật có quy định.”
Như vậy khi xét điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa, ta xét đến các yếu tố: chủ thể, đối tượng, hình thức, mục đích và nội dung
của hợp đồng.
1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa thông
thường.
• Chủ thể: Các chủ thể tham gia hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa phải có năng
lực chủ thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong thực tiễn , hoạt động
mua bán hàng hóa, chủ thể chủ yếu là thương nhân. Tuy nhiên trong hoạt động
ủy thác mua bán hàng hóa, chủ thể có thể là thương nhân hoặc không là thương
nhân, gồm có: cá nhân thông thường, thương nhân, các cơ quan nhà nước, các
pháp nhân khác. Như vậy điều kiện đối với chủ thể của loại hợp đồng này cụ thể
là:
− Đối với cá nhân thông thường: Như pháp luật dân sự quy định, cá nhân phải có
năng lực pháp luật và năng lực hành vi , đảm bảo cho chủ thể được pháp luật
cho phép bằng khả năng của mình xác lập các quyền, nghĩa vụ dân sự.
− Đối với thương nhân: Luật thương mại quy định, tổ chức kinh tế được thành lập
hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh. Thương nhân tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch
thương mại theo quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của thương nhân.
− Đối với các cơ quan nhà nước, các pháp nhân khác: Năng lực hành vi dân sự
của cơ quan nhà nước, các pháp nhân khác được xác định theo quy định
pháp luật về quyền, nghĩa vụ đối với cơ quan nhà nước, pháp nhân. Ngoài ra, cơ
quan nhà nước, pháp nhân khi tham gia quan hệ pháp luật hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa với tư cách của chủ thể nhận uỷ thác, phải đáp ứng điều kiện là
thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác mua bán.
7
•
Đối tượng: Như đã biết, đối tượng của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là
công việc mua bán hàng hóa do bên nhận ủy thác thực hiện theo sự ủy quyền
của bên ủy thác. Đối với đối tượng của hợp đồng này, điều kiện là:
− Là công việc hợp pháp, có thể thực hiện được
− Hàng hóa được ủy thác mua bán trong hợp đồng không thuộc danh mục hàng
hóa cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam
• Mục đích và nội dung hợp đồng:
Nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Tức là hợp đồng đó phải hợp pháp, các
điều khoản của hợp đồng phải tuân theo các quy phạm bắt buộc của pháp luật.
Nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa phải có các điều khoản chủ
yếu của hợp đồng hay còn gọi là các điều khoản cơ bản, điều khoản luật định
nhất định phải có. Nội dung của hợp đồng gồm các điều khoản chủ yếu sau:
− Hàng hóa được ủy thác mua bán không bị cấm kinh doanh theo quy định của
−
−
−
−
−
•
pháp luật.
Số lượng, chất lượng, giá cả và quy cách của hàng hóa được ủy thác mua bán
Thời hạn thực hiện hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
Thù lao ủy thác
Trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng
Tranh chấp và thủ tục giải quyết tranh chấp
Hình thức: Như đã trình bày ở phần đặc điểm của hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa, hình thức của loại hợp đồng này phải được lập thành văn bản hoặc
hình thức pháp lý tương đương văn bản.
2. Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài
• Chủ thể:
− Đối với hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài nhưng chủ
thể của hợp đồng là cá nhân, thương nhân người Việt Nam thì vẫn phải tuân theo
quy định của pháp luật Việt Nam về năng lực chủ thể.
− Đối với hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài mà một bên
chủ thể là cá nhân, thương nhân nước ngoài:
8
Năng lực chủ thể của cá nhân người nước ngoài được xác định theo pháp luật
của nước mà người đó mang quốc tịch, pháp luật Việt Nam đã quy định tại
khoản 1 điều 673 bộ luật dân sự 2015.
Năng lực chủ thể của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của
nước nơi mà pháp nhân đó được thành lập. Tuy nhiên nếu pháp nhân nước ngoài
đó xác lập thực hiện giao dịch tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của
pháp nhân đó được xác định theo pháp luật Việt Nam (khoản 3 điều 676 Bộ luật
dân sự 2015).
Ngoài các điều kiện trên thì đối với chủ thể trong hợp đồng ủy thác mua
bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài cũng phải tuân theo các quy định khác của
pháp luật Việt Nam, ví dụ:
Luật thương mại Việt Nam năm 2005 có quy định đối với thương nhân thì
phải hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh ( khoản 1 điều 6) và thương nhân là bên nhận ủy thác thì phải kinh doanh
mặt hàng phù hợp với hàng hóa được ủy thác mua bán (Điều 156). Như vậy giao
dịch ủy thác mua bán hàng hóa cũng như hợp đồng mua bán ủy thác mua bán
hàng hóa mới có hiệu lực.
• Đối tượng:
Cũng như hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa thông thường, thì hợp đồng
ủy thác mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài cũng có đối tượng là công việc
mua bán hàng hóa. Như vậy, công việc mua bán hàng hóa đó phải là công việc
hợp pháp, có thể thực hiện được, hàng hóa được ủy thác không thuộc danh mục
hàng hóa cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp với
các quy định của pháp luật nơi xuất sứ của hàng hóa và pháp luật quốc tế.
•
Mục đích và nội dung hợp đồng:
Mục đích và nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa hóa có yếu
tố nước ngoài phải tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật
nước áp dụng và Luật quốc tế. Do sự khác nhau về tiền tệ và pháp luật giữa các
quốc gia, nên ngoài các điều khoản chủ yếu phải có giống như hợp đồng ủy thác
mua bán thông thường, thì hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có yếu tố nước
9
ngoài cần có các điều khoản khác quy định chặt chẽ về việc thanh toán, giải
quyết khi có tranh chấp xảy ra, như:
− Đồng ngoại tệ thanh toán và ngân hàng lựa chọn ủy thác thanh toán
− Cơ quan tài phán nước áp dụng giải quyết tranh chấp
• Hình thức hợp đồng
Hình thức của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài
“được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Trường hợp hình
thức của hợp đồng không phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật áp
dụng đối với hợp đồng đó, nhưng phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp
luật của nước nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì hình thức hợp
đồng đó được công nhận tại Việt Nam” - khoản 7 điều 683 Bộ luật dân sự Việt
Nam năm 2015 đã quy định rõ.
III. NHỮNG BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ GIẢI PHÁP
Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa là một trong những hoạt động
thương mại đang ngày càng phổ biến. Bởi vậy nên cần chú trọng đến việc sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện các chế định quy định về hoạt động ủy thác mua bán
hàng hóa cũng như hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, đặc biệt trong pháp luật thương mại. Luật thương mại 2005 đã có
những chế định về ủy thác mua bán hàng hóa, tuy nhiên bên cạnh những mặt nổi
trội thì vẫn còn một số bất cập cần phải khắc phục để đảm bảo quyền và lợi ích
cho các bên tham gia cũng như quyền và lợi ích của Nhà nước.
Thực tiễn cho thấy trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa còn tồn tại nhiều vấn đề. Ví dụ như trong giao kết hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa: ủy thác bán hàng với hình thức ký gửi không có văn bản mà
chỉ thỏa thuận miệng; không có điều khoản thỏa thuận về thời điểm tính lãi
chậm trả trong hợp đồng hay có quy định cho phép chậm trả nhưng không quy
định hạn mức chậm trả. Còn thực hiện hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, đó
là: không thiện chí thực hiện hợp đồng, vi phạm nghĩa vụ thanh toán... Vấn đề
phức tạp hơn đó là thực thi hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có yếu tố nước
10
ngoài, bởi nó không chỉ tuân theo một hệ thống pháp luật Việt Nam mà còn phải
tuân theo pháp luật của quốc gia khác và pháp luật quốc tế. Những vướng mắc
đó là chủ yếu gặp phải khi ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền, khởi kiện
khi có tranh chấp, vi phạm nghĩa vụ thanh toán.
Từ thực tiễn trên, ta có thể nhận thấy một số bất cập cụ thể của pháp luật
cần phải đề xuất giải pháp khắc phục kịp thời như sau:
− Thứ nhất, phân định rõ ràng giữa “ủy thác” và “ủy quyền”. Hoạt động ủy thác
mua bán hàng hóa thể hiện đầy đủ các yếu tố của một giao dịch thương mại và
là giao dịch thương mại chủ yếu, quan trọng, cơ sở pháp lý cho hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa được thực hiện, nhưng không được quy định là “giao
dịch” hay “hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa” trong Luật thương mại. Hơn
nữa, Luật thương mại sử dụng thuật ngữ “uỷ thác” trong khi Bộ luật dân sự dùng
thuật ngữ “uỷ quyền” mà không có sự phân định rõ ràng. Mặc dù bẳn chất của
“ủy quyền” trong dân sự và “ủy thác” trong thương mại khác nhau nhưng vẫn
cần phân định cụ thể. Đây không chỉ là vấn đề mang tính học thuật về một khái
niệm trong khoa học pháp lý, đó còn là yêu cầu khách quan và sự phù hợp với
tinh thần của Bộ luật dân sự.
− Thứ hai, Quy định nhận uỷ thác của nhiều bên chỉ trong trường hợp hợp đồng
không có thỏa thuận khác. Điều 161 Luật Thương mại quy định: “Bên nhận uỷ
thác có thể nhận uỷ thác mua bán hàng hoá của nhiều bên uỷ thác khác nhau”.
Trong thực tế, nếu bên nhận uỷ thác nhận uỷ thác bán hàng cho nhiều bên uỷ
thác mà hàng hoá nhận uỷ thác cùng chủng loại, cùng tính năng sử dụng thì
trong một chừng mực, đã vi phạm yêu cầu của nguyên tắc thiện chí. Mà thiện
chí là yêu cầu đòi hỏi tinh thần hợp tác giữa các bên khi tạo lập và thực hiện các
quyền, nghĩa vụ hợp đồng, theo đó, mỗi bên không chỉ quan tâm đến quyền và
lợi ích của mình, mà còn phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
thể phía bên kia. Sẽ không thể coi là thiện chí thực hiện hợp đồng khi đang trong
quá trình thực hiện hợp đồng với một bên, bên nhận uỷ thác nhận uỷ thác một
chủng loại hàng tương tự của một đơn vị khác, dẫn đến khả năng không thể thực
11
hiện đúng cam kết, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đã ký kết hoặc gây áp lực tăng
phí uỷ thác. Thấy rằng quy định này đã trở thành rào cản cho hoạt động ủy thác
mua bán hàng hóa. Từ đó điều 161 nên bổ sung “bên nhận uỷ thác có thể nhận
uỷ thác mua bán hàng hoá của nhiều bên uỷ thác khác nhau nếu hợp đồng không
có thoả thuận khác”.
− Thứ ba, quy định rõ về việc phân chia lợi nhuận chênh lệch phát sinh. Đây là
trường hợp bên nhận uỷ thác ký hợp đồng với khách hàng theo những điều kiện
thuận lợi hơn so với các điều kiện do bên uỷ thác đặt ra. Thông thường các bên
có thể thoả thuận để phân chia khoản chênh lệch đó, tuy nhiên đối với những
khoản lợi nhuận có giá trị lớn hoặc trường hợp bên nhận uỷ thác mua hàng với
giá cao hơn hoặc bán hàng với giá thấp hơn giá bên uỷ thác yêu cầu thì thoả
thuận khó có thể đạt được. Như vậy, lợi nhuận chênh lệch phát sinh không chỉ
trong trường hợp bên nhận uỷ thác ký hợp đồng với khách hàng theo những điều
kiện kém thuận lợi hơn, mà cả trong trường hợp thuận lợi hơn so với các điều
kiện do bên uỷ thác đặt ra cũng cần được dự liệu.
− Thứ tư, quy định rõ về xử lý hàng hoá uỷ thác không được tiếp nhận. Vì nhiều lý
do khác nhau mà hàng hoá được uỷ thác mua đã sẵn sàng giao nhận theo yêu
cầu của bên uỷ thác nhưng không được tiếp nhận. Mặc dù người nhận uỷ thác,
trong quá trình thực hiện hợp đồng, đã thực hiện theo các chỉ dẫn và đã nhận thù
lao uỷ thác. Điều này có thể dẫn đến nhiều rắc rối cho người nhận uỷ thác trong
việc giải phóng hàng và thanh lý hợp đồng (thời hạn cập cảng, phí thuê tàu, địa
điểm và phí lưu kho...). Đây cũng là những đòi hỏi bức thiết cần có quy định cụ
thể của pháp luật xử lý trường hợp hàng hoá uỷ thác mua không được tiếp nhận.
Như vậy Luật Thương mại Việt Nam cần có quy định cụ thể đối với hàng hoá uỷ
thác không được tiếp nhận trong trường hợp này. Hàng hoá uỷ thác không được
tiếp nhận có thể được xử lý theo hướng ký gửi tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (hải quan, kho bãi hợp pháp) hoặc bán trực tiếp hoặc đấu giá hàng hoá đó
và khoản lợi nhuận chênh lệch từ giá mua với giá đã bán trực tiếp hoặc đấu giá
thuộc về người nhận uỷ thác trong trường hợp này.
− Cuối cùng, Mở rộng phạm vi uỷ thác đối với các công việc khác ngoài mua bán
hàng hóa. Với phạm vi uỷ thác được quy định như hiện nay trong LTM sẽ là bất
12
cập khi các chủ thể, trong hoạt động thương mại muốn sử dụng uỷ thác như một
hành vi kinh doanh (uỷ thác đầu tư xây dựng, uỷ thác cho vay tín dụng, uỷ thác
cho thuê tài sản...) nhưng không có hình thức pháp lý phù hợp. Khi hoàn thiện
LTM 2005, chế định hợp đồng uỷ thác cần mở rộng phạm vi áp dụng, theo đó
các quy định về uỷ thác áp dụng với các trường hợp uỷ thác thực hiện các công
việc khác ngoài mua bán hàng hoá. Đây là hướng sửa đổi, bổ sung thực sự cần
thiết bởi thực tiễn ngày càng khẳng định vai trò của uỷ thác trong kinh doanh và
các hình thức tồn tại đa dạng, phổ biến của uỷ thác trong thương mại.
C. KẾT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu, ta thấy được tầm quan trọng của hoạt động ủy thác
mua bán hàng hóa cũng như hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại. Mặc dù pháp luật Việt Nam đã và đang ngày càng quan
tâm đến vấn đề này, tuy nhiên những yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn thay đổi mỗi
ngày một nhiều hơn. Bởi vậy Pháp luật Việt Nam cần phải có một bước tiến
mới, nhanh chóng sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy phạm pháp luật mới để
hoàn thiện hơn đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường nói chung, hoạt
động thương mại nói riêng. Trong quá trình làm bài em không tránh khỏi có
những sai sót, kính mong thầy (cô) cho ý kiến nhận xét để bài làm của em được
hoàn thiện hơn.
13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật Thương mại tập I, Trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb công an
nhân dân, năm 2014;
2. Giáo trình luật Thương mại tập II, Trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb công an
nhân dân, năm 2014;
3. Bộ luật dân sự 2015;
4. Một số trang web:
− https://
−
−
−
14
MỤC LỤC
15