Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Kinh nghiệm quốc tế về REDD+ và các quỹ lâm nghiệp quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.92 KB, 24 trang )

Kinh nghiệm quốc tế về REDD+
và các quỹ lâm nghiệp quốc gia
Việt Nam


Giảm phát thải từ rừng ở khu vực châu Á (LEAF)
Hiệp định hợp tác: AID-486-A-11-00005

Kinh nghiệm quốc tế về REDD+ và các quỹ lâm nghiệp quốc gia
Việt Nam
Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID)
Phái đoàn Phát triển Khu vực châu Á (RDMA), Bangkok, Thailand
Đệ trình bởi:
Winrock International
Ngày đệ trình:
16th July 2013


Chương trình Giảm phát thải từ rừng ở khu vực châu Á (LEAF) là một chương trình hợp tác
5 năm, do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) thông qua Phái đoàn Phát triển Khu
vực châu Á (RDMA) tài trợ. Chương trình LEAF được tổ chức Winrock International
(Winrock) thực hiện, với sự phối hợp với các đối tác chính là Tổ chức phát triển Hà Lan
(SNV), Climate Focus và Trung tâm vì Con người và Rừng (RECOFTC). Chương trình LEAF
bắt đầu triển khai từ năm 2011 và sẽ tiếp tục đến năm 2016.


Mục lục
1

Giới thiệu ......................................................................................................................1


1.1 Thông tin chung .............................................................................................................1
1.2 Vai trò và chức năng của các quỹ REDD+ quốc gia ......................................................2
2

Đánh giá kinh nghiệm và so sánh với các quỹ quốc tế ............................................4

2.1 Cấu trúc quỹ ...................................................................................................................9
2.2 Quản trị và quản lý quỹ ................................................................................................10
2.3 Đầu tư tiền quỹ.............................................................................................................13
2.4 Tính hợp thức và các tiêu chí lựa chọn ........................................................................14
2.5 Công tác đánh giá và “Theo dõi – Báo cáo – Thẩm định” (MRV) .................................16
2.6 Các biện pháp bảo đảm an toàn về xã hội và môi trường............................................18
2.7 Các yêu cầu cụ thể của nhà tài trợ ..............................................................................19


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam

1 Giới thiệu
1.1

Thông tin chung

Tại kỳ họp thứ 16 Hội nghị các bên (COP16), Công ước khung của LHQ về Biến đổi khí
hậu (UNFCCC), các bên nhất trí về việc thực hiện REDD+ thông qua một phương pháp
tiếp cận theo giai đoạn, bắt đầu với các hoạt động chuẩn bị trước khi chuyển sang các
giai đoạn trình diễn, và cuối cùng là các hoạt động định hướng dựa trên kết quả được
theo dõi, báo cáo và thẩm định (MRV) một cách đầy đủ và toàn diện. Trong khi ở quy mô
quốc tế, cho đến nay phần lớn các hoạt động REDD+ được tập trung vào các hoạt động
chuẩn bị, thì sự thay đổi gần đây của nhiều quốc gia trong việc thí điểm chi trả theo kết
quả cho thấy sự cần thiết phải xây dựng các phương pháp có hiệu quả, hiệu lực để tiếp

nhận, quản lý và giải ngân kinh phí.
Việt Nam với những bước tiến nhanh chóng trong việc thực hiện REDD+ đang kỳ vọng
sẽ là một trong những quốc gia châu Á đầu tiên nhận được khoản chi trả cho các kết quả
của mình. Trong bối cảnh này, một quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số
799/QĐ-TTg ngày 27/06/2012) quy định về việc thành lập Quỹ REDD + thuộc Quỹ bảo vệ
và phát triển rừng Việt Nam (VNFF) theo đó Tổng cục Lâm nghiệp (VNFOREST) đã chỉ
đạo các cơ quan liên quan chuẩn bị đề cương thành lập quỹ để trình Chính phủ phê
duyệt trong năm 2013.
Báo cáo này là bước đầu tiên trong số các hoạt động mà Chương trình LEAF sẽ hỗ trợ
chính phủ Việt Nam trong việc thiết lập Quỹ REDD+. Mục đích của báo cáo là đúc rút
kinh nghiệm và bài học thực tiễn từ các quỹ quốc gia hoặc khu vực với mục đích tương
tự như quỹ REDD+ của Việt Nam, trong đó bao gồm một số quỹ REDD+ mới ra đời hoặc
quỹ về khí hậu, và cả các quỹ về bảo vệ rừng hoặc môi trường đã hoạt động trong vài
thập kỷ.
Báo cáo này sẽ tập trung phân tích so sánh của các khía cạnh hoạt động của quỹ
REDD+ hoặc quỹ lâm nghiệp. Chúng tôi nhận thấy rằng các điều kiện kinh tế vĩ mô và
các ngành là rất trọng yếu đối với quyết định của các nhà tài trợ và các tổ chức khu vực
tư nhân để xử lý các khoản tiền trong quỹ quốc gia. Trong báo cáo, các điều kiện khu
vực tín dụng và tài chính có ảnh hưởng đến những cuộc đàm phán xung quanh các
khoản chi trả theo kết quả thực hiện sẽ được đề cập nhưng không đi vào chi tiết. Các
tiêu chí có liên quan sẽ được phân tích và khuyến nghị riêng.
Báo cáo này có cấu trúc như sau: Mục 1.2 trình bày tổng quan về vai trò và chức năng
của các quỹ REDD+ quốc gia, trong khi Phần 2 tiến hành phân tích so sánh các quỹ, tập
trung vào bảy khía cạnh được dự kiến sẽ là trọng tâm trong thiết kế của Quỹ REDD+ của
Việt Nam. Trong mỗi trường hợp, báo cáo sẽ trình bày các phương pháp tiếp cận chính
đã được áp dụng cho từng vấn đề cùng các hàm ý tương ứng, nhằm rút ra bài học cho
việc thiết kế thành phần tương ứng của quỹ. Phần giới thiệu chi tiết về từng quỹ được
trình bày trong Phụ lục 1.

CA No. AID-486-A-11-00005


1

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam

1.2

Vai trò và chức năng của các quỹ REDD+ quốc gia

Chi trả REDD+ theo kết quả thực hiện là cách tiếp cận tương đối mới theo hướng hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) theo kiểu "tiền mặt khi giao hàng" và "chi trả theo kết quả"
trong đó các khoản chi trả của nhà tài trợ được thực hiện dựa trên điều kiện đạt được
những kết quả cụ thể. Trong trường hợp của REDD+, kết quả hội đủ điều kiện chi trả
được đo lường theo lượng cắt giảm khí nhà kính (GHG) so với đường tham chiếu cơ sở.
Các kết quả bổ sung khác, chẳng hạn như liên quan đến xóa đói giảm nghèo, bảo tồn tài
nguyên nước và đa dạng sinh học cũng có thể được khen thưởng về tài chính theo cách
này, mặc dù các phương pháp luận thường là chưa phát triển và phổ biến.
Một trong những lợi thế của cách chi trả theo kết quả thực hiện là các nước đang phát
triển có toàn quyền sở hữu và hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc đạt được các
kết quả đã cam kết - và đổi lại sẽ được chi trả. Sự chuyển dịch mô hình tài chính từ theo
chương trình sang theo kết quả giúp trao quyền cho các tổ chức quốc gia và phân cấp
quyết định điều hành nhiều hơn cho cấp quốc gia do vậy củng cố chủ quyền của quốc
gia trong thực hiện chương trình. Một trong những đặc thù của chi trả REDD+ theo kết
quả thực hiện là quốc gia thụ hưởng có quyền tự chủ cao hơn trong việc sử dụng quỹ.
Khởi điểm của việc quản lý và điều hành các khoản thanh toán quốc tế là việc tạo lập các
quỹ REDD+ quốc gia. Các quỹ này sẽ cho phép quản lý các khoản đóng góp quốc tế một
cách minh bạch, hiệu quả và hiệu suất. Tùy thuộc vào năng lực quốc gia, các quỹ sẽ

được phân cấp nhiều hoặc ít hơn và tương tự như vậy với việc ra quyết định. Khả năng
"truy cập trực tiếp" của Quỹ Thích ứng cung cấp một số bài học bổ ích về các yêu cầu
đã được áp dụng cho các tổ chức quốc gia nhận tài trợ từ Quỹ Thích ứng và có khả năng
được áp dụng một cách tương tự như tài trợ cho REDD+. Với Quỹ thích ứng, các quốc
gia thành lập các Cơ quan thực thi quốc gia (NIEs). Các cơ quan này - khi được công
nhận bởi Hội đồng quản trị Quỹ Thích ứng (AFB) - sẽ quản lý quỹ cùng với các Cơ quan
thực thi đa phương (MIEs). Để làm như vậy NIEs phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về
tín dụng và phải được Hội đồng quản trị Quỹ chấp thuận (xem Hộp #1). Với cách quản trị
quỹ REDD+, các tổ chức tài trợ quốc gia có khả năng đảm nhận vai trò lớn hơn so với
Quỹ Thích ứng. Tuy nhiên, có khả năng là các nhà tài trợ sẽ kỳ vọng rằng các tiêu chí tín
dụng tương tự sẽ được đáp ứng cho một quỹ REDD+ quốc gia hơn là những yêu cầu để
được AFB công nhận (xem Hộp #1).

CA No. AID-486-A-11-00005

2

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam

Hộp #1 - Tiêu chuẩn về tín dụng của Quỹ Thích ứng
Tiêu chuẩn tín dụng cho Cơ quan thực thi quốc gia (NIE) thuộc Quỹ Thích ứng:
Khi nhất trí lập ra Quỹ thích ứng, các bên tham gia Nghị định thư Kyoto đã quyết định rằng quỹ phải
giúp "quản lý tài chính một cách hiệu quả, bao gồm cả việc sử dụng các tiêu chuẩn tín dụng quốc tế"
(Quyết định 5/CMP.2). Tại cuộc họp thứ 7, Hội đồng quản trị Quỹ thích ứng đã thông qua các tiêu
chuẩn tín dụng sau đây, cần được đấp ứng để trở thành một tổ chức thực thi của Quỹ:
a) Tính toàn vẹn tài chính và quản lý tài chính
• Lưu giữ chính xác và thường xuyên các giao dịch và số dư, được kiểm toán định kỳ bởi một công

ty hoặc tổ chức độc lập
• Quản lý và giải ngân quỹ một cách hiệu quả, với các biện pháp an toàn tới người nhận một cách
kịp thời
• Đưa ra được các kế hoạch và ngân sách có tầm nhìn hướng tới tương lai
• Có tư cách pháp nhân để ký hợp đồng với Quỹ Thích ứng và bên thứ ba
b) Năng lực thể chế
• Quy trình đấu thầu mua sắm đảm bảo minh bạch, bao gồm tính cạnh tranh
• Năng lực tiến hành giám sát và đánh giá
• Năng lực xác định, lập và thẩm định dự án / chương trình
• Năng lực quản lý hoặc giám sát việc thực hiện dự án / chương trình bao gồm khả năng quản lý các
nhà thầu phụ và hỗ trợ thực hiện và giao hàng
c) Tính minh bạch và Quyền hạn tự điều tra
• Năng lực để đối phó với sự quản lý yếu kém về tài chính và các hình thức sơ suất khác

Để thỏa mãn các tiêu chuẩn này, Quỹ REDD+ quốc gia cần đáp ứng được càng nhiều
càng tốt các yêu cầu sau: (i) độc lập với chính phủ; (ii) được quản lý bởi một cơ quan /
nhóm các nhà quản lý độc lập; (iii) áp dụng các chuẩn kế toán của quốc tế và đáp ứng
các tiêu chuẩn tín dụng quốc tế; (iv) được quản lý một cách minh bạch. Thiết kế của các
các quỹ REDD+ quốc gia sẽ phụ thuộc vào điều kiện cụ thể về kinh tế và pháp lý của
quốc gia đó, các ưu tiên về chính sách đối nội, các tổ chức hiện có, và tính sẵn có của
các nguồn lực. Tuy nhiên, một số khía cạnh liên quan đến việc các quỹ quốc gia tương
tác như thế nào với quỹ REDD+ quốc tế cũng cần được xem xét. Giao diện giữa tài
chính cấp quốc gia và quốc tế đòi hỏi quỹ REDD+ phải đáp ứng được các chức năng sau
đây:

CA No. AID-486-A-11-00005

3

LEAF



Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam

1. Quản lý mối quan hệ với các thực thể hoạt động theo (a) cơ chế UNFCCC REDD+; (b)
các chương trình REDD+ quốc gia hoặc khu vực; và (c) các nguồn đa phương quốc tế và
song phương tài trợ REDD+, bao gồm 1:
a. Yêu cầu và tiếp nhận tài trợ từ các nguồn quốc tế;
b. Đệ trình chiến lược REDD+ quốc gia;
c. Đệ trình báo cáo REDD+ quốc gia cùng báo cáo MRV; và
d. Báo cáo định kỳ tại COP hoặc cơ quan cấp cao về thực hiện REDD+
2. Chấp thuận và thực hiện:
a. Tài trợ quốc tế, tín dụng, và báo cáo thủ tục;
b. Các tiêu chuẩn, phương pháp MRV, và các quy trình kỹ thuật khác;
c. Tiêu chuẩn xã hội và môi trường, thủ tục khiếu nại.
d. Giám sát các mối quan hệ với các thị trường carbon quốc tế.
Năng lực của các quỹ REDD+ quốc gia sẽ xác định trách nhiệm mà các thực thể quốc tế
sẽ phân cấp cho các tổ chức quốc gia. Số lượng và quy mô tương đối nhỏ hiện tại của
các quỹ REDD+ độc lập vẫn là một rào cản đối với việc xây dựng các thể chế tài chính
REDD+ dài hạn. Các chính phủ cần đóng vai trò tiên phong trong việc xây dựng thể chế
cho các quỹ quốc gia. Với tinh thần như vậy, nghiên cứu này được đánh dấu qua việc
tham mưu cho Chính phủ Việt Nam về việc thành lập một quỹ REDD+ quốc gia.

2 Đánh giá kinh nghiệm và so sánh với các quỹ quốc tế
Việc xem xét đối sánh được thực hiện với 8 quỹ với những đặc thù riêng về mục tiêu, từ
tài trợ cho các khu bảo tồn để tiếp nhận, quản lý và giải ngân kinh phí REDD+ theo hoạt
động. Bảng 1 cung cấp một bức tranh tổng quan của từng quỹ. Việc đối sánh được thực
hiện thông qua rà soát nội nghiệp các tài liệu cơ bản của quỹ và sau đó là các tài liệu bổ
sung bao gồm cả các văn bản pháp luật, biên bản ghi nhớ, tài liệu ý tưởng, quy trình vận
hành, hướng dẫn mua sắm và các tài liệu khác hoặc các hướng dẫn khung mô tả cách

quỹ được thiết kế, thành lập, và quản lý. Phân tích tập trung vào bảy cấu phần cụ thể có
liên quan trọng yếu đến quản lý quỹ một cách hiệu quả và hiệu suất, nhằm làm nổi bật
những bài học và thực tiễn tốt nhất từ kinh nghiệm hiện có đối với mỗi cấu phần. Bảy cấu
phần bao gồm:
(i) Cơ cấu Quỹ - bao gồm thiết kế tổng thể của quỹ, trong đó có tư cách pháp nhân và
mối quan hệ với chính phủ, việc tạo ra nhiều cửa sổ giao dịch và dạng thức quỹ cùng các
các nguồn kinh phí được sử dụng;

Trang 23, Báo cáo về các phương án thể chế đối với REDD+. />1

CA No. AID-486-A-11-00005

4

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
(ii) Quản trị và quản lý quỹ - các loại hình tổ chức chịu trách nhiệm điều hành và quản lý
quỹ cùng với các thành phần, chức năng và trách nhiệm của các tổ chức này;
(iii) Các nguyên tắc và quy định đầu tư - phương pháp, quy định và hướng dẫn được đặt
ra để đầu tư các nguồn lực vào quỹ;
(iv) Tính hợp thức và các tiêu chí lựa chọn - kiểu hoạt động và các thực thể hội đủ điều
kiện để tài trợ cũng như các tiêu chí lựa chọn người nhận / thụ hưởng;
(v) Đánh giá và theo dõi, báo cáo, thẩm định (MRV) - các quy tắc và quy trình để theo dõi
và đánh giá một cách hiệu quả, minh bạch (1) tình hình hoạt động tổng thể của quỹ; và
(2) tình hình thực hiện các hoạt động tài trợ cho các cá nhân;
(vi) Các biện pháp đảm bảo an toàn về xã hội và môi trường - các quy định và hướng
dẫn đặt ra để đảm bảo việc sử dụng quỹ là tương thích với các mục tiêu xã hội và môi
trường và không gây ra những hậu quả ngoài ý muốn;

(vii) Các yêu cầu cụ thể của nhà tài trợ - các yêu cầu được đặt ra bởi các nhà tài trợ quỹ
như một điều kiện khi quyên tiền cho quỹ.

CA No. AID-486-A-11-00005

5

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
Bảng 1: Tổng quan về các đặc điểm chính của các quỹ được xem xét

GRIF

Đối
tượng tài
trợ
REDD+

CBFF

REDD+

Amazon
Fund

REDD+

Quản trị / điều

hành

Đầu tư

Tiêu chí lựa chọn

MRV

Ngân hàng Thế
giới điều hành
ủy thác, hướng
dẫn bởi hội
đồng quản trị
hỗn hợp chính
phủ và nhà tài
trợ
AfDB điều hành
ủy thác, hướng
dẫn bởi hội
đồng quản trị
nhiều bên, hỗ
trợ bởi thực thể
quản lý quỹ của
tư nhân

Vốn / danh
mục lưu
động và cố
định


Theo Chiến lược
phát triển các-bon
thấp của Guyana

Theo hiệu
quả hoạt
động quỹ;
kiểm toán tài
chính hàng
năm

Đầu tư theo
quyết định
của người
ủy thác

Theo 6 tiêu chí

Ngân hàng
Quốc gia điều
hành ủy thác,
hướng dẫn bởi
hội đồng quản trị
nhiều bên, hỗ
trợ bởi Ủy ban
kỹ thuật

Vốn lưu
động đầu tư
vào quỹ đầu

tư thu nhập
cố định

Các dự án cần
trực tiếp hoặc gián
tiếp giảm mất
rừng, đến 20%
dành cho các dự
án quốc tế hoặc
ngoài vùng
Amazon

CA No. AID-486-A-11-00005

6

Các biện
pháp an
toàn
Theo chính
sách của
Ngân hàng
Thế giới và
bên thực thi

Yêu cầu của
nhà tài trợ

Kiểm toán
tài chính

hàng năm
(cả quỹ và
dự án)

Theo chính
sách của
AfDB

Theo hiệu
quả hoạt
động quỹ;
kiểm toán tài
chính hàng
năm

REDD +
SES và
theo các
chính sách
của BNDES

Sử dụng kinh
phí quỹ để
chống mất rừng,
xây dựng cơ sở
dữ liệu quốc gia
và hệ thống
MRV, và tăng
cường quan hệ
đối tác nhà nước

- XH dân sự
Không rõ

LEAF

Các chỉ số về
trao quyền kèm
theo các chỉ số
về thực hiện


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
ICCTF

Tất cả các
ngành
giảm nhẹ
BĐKH

Cơ cấu chính
phủ chi phối với
UNDP đóng vai
trò ủy thác

Không

FMM

Các hoạt
động lâm

nghiệp đa
dạng

Ngân hàng quốc
gia điều hành,
hướng dẫn bởi
hội đồng quản trị
nhiều bên

Tối đa hóa
đầu tư dài
hạn

PROFON
ANPE

Bảo tồn
và quản lý
các khu
bảo tồn

Pháp nhân độc
lập, hướng dẫn
bởi hội đồng
quản trị nhiều
bên

Đầu tư cố
định do tư
nhân quản



Từng dự án, tùy
theo các nhà tài
trợ đơn lẻ

FONAFIF
O

Bảo tồn
bởi các
chủ rừng
nhỏ và
vừa

Thực thể bán
công, hướng
dẫn hội đồng
quản trị nhà
nước - tư nhân,
sử dụng một
quỹ ủy thác
quốc gia

Không có
thong tin

Tùy thuộc tiểu
chương trình;
đánh giá theo giá

trị sinh thái của
đất

Lao EPF

Các dự án
bảo vệ
môi

Tổ chức tự trị,
hướng dẫn bởi
hội đồng quản trị

Tài trợ vốn
ban đầu vào
quỹ cấp vốn

Thẩm định theo
trường hợp riêng
lẻ

CA No. AID-486-A-11-00005

7

Các dự án do các
bộ hỗ trợ phù hợp
với Ch.trình hành
động quốc gia về
khí nhà kính

Tùy thuộc các tiểu
chương trình

Kiểm toán
tài chính
hàng năm

Theo các
chính sách
của UNDP

Không rõ

Kiểm toán
tổng thể của
kiểm toán
viên liên
bang, ở cấp
độ người
nhận, tùy
thuộc
chương
trình
Hội đồng
quản trị
giám sát tất
cả các dự
án, kiểm
toán độc lập
hàng năm

Tổ chức tư
nhân chịu
trách nhiệm
kiểm toán
các báo cáo
tham gia;
kiểm toán
độc lập
hàng năm

Không có
dữ liệu

Chủ yếu là trong
nước tài trợ;
tương lai khi
tham gia trong
FIP sẽ đòi hỏi
đến áp dụng các
thủ tục của Ngân
hàng Thế giới

Các chính
sách của
World Bank

Tài trợ tùy thuộc
vào Hiệp định

Các chính

sách cá biệt
về xã hội và
môi trường
áp dụng
cho các quỹ
trong nước;
tiêu chuẩn
của nhà tài
trợ
Các biện
pháp bảo
vệ nội bộ

Một số dòng vốn
có yêu cầu của
nhà tài trợ cá
nhân

Cơ quan
quản trị thực
hiện đánh

LEAF

Các nhà tài trợ
cá nhân tài trợ
cho các mảng cụ


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam

trường

nhiều bên

CA No. AID-486-A-11-00005

giá tổng thể
về hoạt
động quỹ,
thủ tục đơn
giản hóa
cho các dự
án nhỏ;
kiểm toán
độc lập
hàng năm

8

LEAF

dựa trên
chính sách
của Ngân
hàng Thế
giới

thể có thể yêu
cầu áp dụng các
chính sách / tiêu

chuẩn riêng của
họ thay thế cho
các chính sách
chuẩn tắc khác


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam

2.1

Cấu trúc quỹ

Các điểm chính:




Phần lớn là quỹ độc lập, đứng riêng lẻ, mặc dù một số lớn bao gồm một vài quỹ
nhỏ hoặc cấu phần theo chủ đề
Các quỹ thành công nhất đã kêu gọi được nhiều dòng vốn
Đa dạng hóa các nguồn tài trợ và huy động sự tham gia của khu vực tư nhân
thông qua các khoản chi trả bắt buộc hoặc tự nguyện có thể giúp tăng vốn và
hạn chế tác động bởi các biến động chính trị hoặc kinh tế

Phần lớn các quỹ được khảo sát, bao gồm cả các quỹ REDD+, là các quỹ tồn tại độc
lập, đứng riêng lẻ chứ không phải là hợp phần của các quỹ khác. Tuy nhiên, nhiều quỹ
trong số này có một số quỹ con liên quan đến các chủ đề chuyên biệt (ví dụ như
FONAFIFO ở Costa Rica) hoặc với các dự án cụ thể có quy mô lớn (ví dụ như
PROFONANPE Peru). Các quỹ cũng đã vận dụng dạng thức quỹ khác nhau để đáp
ứng các mục tiêu khác nhau. Chẳng hạn như PROFONANPE là sự kết hợp giữa các quỹ

cung cấp vốn, chìm và hỗn hợp. Quỹ cấp vốn được sử dụng cho các dự án có giống vốn
ban đầu tương đối lớn và đòi hỏi sự ổn định tài chính dài hạn; quỹ chìm được sử dụng
cho các dự án đòi hỏi tính sẵn có của nguồn tài chính lưu động lớn; quỹ hỗn hợp được
sử dụng cho các dự án đòi hỏi một sự cân bằng giữa tính ổn định lâu dài và thanh khoản
ngắn hạn.
Về nguồn kinh phí, quỹ được xem là thành công nhất đã xoay xở để thu hút được một
loạt các nguồn tài trợ, giúp giảm thiểu tác động của các sự kiện chính trị hoặc kinh tế.
Các quỹ khí hậu và quỹ REDD+ quốc gia đến nay chủ yếu dựa vào các nhà tài trợ quốc
tế, đặc biệt là Na Uy, Đức và Vương quốc Anh, mặc dù Quỹ Amazon cũng đã thu hút
được một số lượng nhỏ (4,2 triệu USD) từ công ty dầu khí quốc gia Petrobras.
Mặt khác, một số quỹ lâm nghiệp có tuổi đời lâu hơn đã thu hút được nguồn tài chính
đáng kể từ khu vực tư nhân trong nước, chủ yếu thông qua các loại thuế và khoản thu
bắt buộc, và đối với FFM và FONAFIFO đây là những nguồn tài chính chủ yếu. Tuy nhiên
cần lưu ý rằng cả hai quỹ này tập trung nhiều vào chi trả dịch vụ hệ sinh thái do vậy có
mối liên hệ rõ ràng với các khoản thanh toán của khu vực tư nhân. Chi trả tự nguyện từ
khu vực tư nhân hoạt động trong cả nước cũng đã được thu hút bởi một số quỹ, và
thường dựa trên động cơ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trong khi trong tất cả
các trường hợp, nguồn này chỉ cấu thành một phần nhỏ kinh phí thì nó vẫn đóng vai trò
là 1 sự bổ sung hữu ích cho các nguồn tài chính khác. Trong trường hợp của
FONAFIFO, đóng góp đó của khu vực tư nhân đã được tạo điều kiện thông qua việc phát
hành chứng chỉ môi trường (ESCs) cũng được xem là bằng chứng về sự đóng góp vào
quỹ.

CA No. AID-486-A-11-00005

9

LEAF



Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam

2.2

Quản trị và quản lý quỹ

Các điểm chính:







Đảm bảo tính độc lập của quỹ đối với Chính phủ là một yếu tố quan trọng trong
việc thu hút các nhà tài trợ
Tất cả các quỹ đều có hình thức ban điều hành và ban quản lý, trong khi một số
quỹ dựa vào các thực thể ủy thác, ủy ban kỹ thuật hoặc các tổ chức nghiệp vụ
khu vực tư nhân để tăng hiệu quả. Cơ quan chính phủ có thể hỗ trợ nhưng
không đóng vai trò trung tâm
Bảo đảm sự cân bằng giữa đại diện của chính phủ, xã hội dân sự và khu vực tư
nhân trong thành phần hội đồng quản trị và bảo đảm quyền biểu quyết ngang
bằng của các bên sẽ làm tăng tăng tính hợp pháp và hiệu quả của quỹ
Hạn chế chi phí giao dịch sẽ giúp tăng tính hấp dẫn của quỹ với các nhà tài trợ.
Trong khi chi phí hành chính của hầu hết các tổ chức quốc tế lớn là từ 10-20%,
thì với khu vực tư nhân và các ngân hàng quốc gia tỷ lệ này có thể chỉ là 3%
Đảm bảo trách nhiệm tín dụng phù hợp là chìa khóa của thành công. Các nghĩa
vụ tín dụng sẽ áp dụng tối thiểu là với các ủy viên quản trị (người nhận ủy thác),
nhưng trong nhiều trường hợp cũng với các cơ quan quản lý hoặc những người
quản lý hoặc giải ngân kinh phí


Phần lớn các quỹ được tìm hiểu tồn tại như thực thể tự trị hoặc bán tự trị với những mức
độ độc lập đáng kể đối với chính phủ. Trong hầu hết các trường hợp, đây là các quỹ
có tư cách pháp nhân độc lập, có thể như là tổ chức tư nhân phi lợi nhuận, ủy thác, hoặc
một tổ chức phân cấp hoặc thực thể bán công. Hình thức pháp lý chính xác tùy thuộc vào
bối cảnh luật pháp quốc gia. Tuy nhiên, mức độ độc lập với chính phủ liên quan chặt chẽ
với tính hiệu quả của quỹ và đặc biệt là khả năng thu hút nhà tài trợ. Kinh nghiệm với
PROFONANPE cũng cho thấy rằng việc duy trì quỹ một cách hợp pháp tách rời với chính
phủ cũng có thể giúp đảm bảo rằng các chủ nợ của nhà nước không thể truy cập nguồn
lực của quỹ khi đất nước có biến cố (vỡ nợ, chủ quyền).
Trong khi các quỹ có sự khác nhau về một số khía cạnh liên quan đến cơ cấu quản trị nội
bộ, thì trong mọi trường hợp có hai thể chế cơ bản tồn tại: một ban điều hành hay hội
đồng quản trị (như ban chỉ đạo, ban giám đốc) và cơ quan quản lý (ví dụ như văn phòng
quỹ). Hội đồng quản trị thường được giao chức năng chỉ đạo tổng thể và giám sát quỹ,
chẳng hạn như xây dựng quy trình vận hành và đầu tư, trong khi cơ quan quản lý chịu
trách nhiệm quản lý các hoạt động thường nhật của quỹ và trong nhiều trường hợp có
trách nhiệm ở mức độ nhất định về tín dụng. Một số quỹ, chẳng hạn như Grif và ICCTF
thì trong cơ cấu tổ chức tổng thể có giao một số vai trò và trách nhiệm cụ thể cho bên
thực hiện dự án.

CA No. AID-486-A-11-00005

10

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
Trong hầu hết trường hợp, thành viên của hội đồng quản trị bao gồm đại diện cấp cao
từ khu vực công (thường từ nhiều Bộ / ngành), khu vực tư nhân và xã hội dân sự. Trong

một số quỹ REDD+, như Grif và ICCTF, đại diện của xã hội dân sự và khu vực tư nhân
chỉ được trao vai trò quan sát viên, tuy nhiên cơ cấu này đã chịu sự chỉ trích đáng kể và
được cho là yếu tố cản trở khả năng thu hút nhiều nhà tài trợ đến với Quỹ. Tương tự như
vậy, đánh giá của Quỹ môi trường toàn cầu toàn cầu về hiệu quả hoạt động của
PROFONANPE cho thấy rằng sự chi phối của chính phủ trong Hội đồng quản trị đã cản
trở sự đa dạng hóa (các nguồn vốn) và ảnh hưởng xấu đến hoạt động của quỹ, vấn đề
này sau đó đã được giải quyết. Những kết luận này là phù hợp với nghiên cứu khác về
các quỹ bảo tồn quốc tế, trong đó cũng nêu bật tầm quan trọng của việc tránh sự chi phối
của chính phủ trong các cơ quan điều hành quỹ, trong khi vẫn cần duy trì ít nhất một đại
diện của chính quyền cấp cao, như là chìa khóa cho sự thành công của các quỹ. 2
Quyết định về cơ cấu và quyền bỏ phiếu của các thực thể khác nhau trong hội đồng quản
trị có sự khác biệt lớn giữa các quỹ. Một số quỹ sử dụng quyết định đồng thuận trong khi
những quỹ khác chọn quyết định thông qua bỏ phiếu đa số. Tương tự như vậy, một số
quỹ cho mỗi thành viên của hội đồng quản trị một phiếu đơn duy nhất, trong khi Quỹ
Amazon lại cho mỗi nhóm bên liên quan (chính quyền trung ương, địa phương, các tổ
chức xã hội dân sự) một phiếu khối đơn duy nhất.
Trách nhiệm của hội đồng quản trị thường bao gồm các vấn đề điển hình như thông
qua các chính sách và chiến lược tài trợ, theo dõi và giám sát tình hình hoạt động của
Quỹ, đề ra các chủ trương đầu tư và thiết lập các quy tắc và điều kiện cho vay / viện trợ.
Trong một số trường hợp, hội đồng quản trị cũng có trách nhiệm phê duyệt ngân sách
hoặc đề cương tài trợ, đặc biệt đối với các dự án lớn. Tuy nhiên, kinh nghiệm với CBFF
cho thấy rằng khi có số lượng lớn các yêu cầu cấp vốn thì việc hạn chế sự tham gia của
các cơ quan quản trị trong quy trình ra quyết định ở một ngưỡng nhất định sẽ làm tăng
đáng kể hiệu quả điều hành.
Cơ quan quản lý thường bao gồm một đội ngũ cán bộ chuyên trách, được điều hành bởi
một Giám đốc. Chức năng của cơ quan này thường bao gồm quản lý tài chính và vận
hành quỹ, soạn thảo chiến lược và kế hoạch trình hội đồng quản trị, sàng lọc hoặc phê
duyệt sơ bộ các đề cương tài trợ và như trong trường hợp của Lào EPF là trợ giúp cho
bên nhận tài trợ trong việc chuẩn bị đề xuất dự án.
Cơ quan quản lý thường được hỗ trợ bởi các cơ quan chính phủ hay tổ chức quốc tế.

Ví dụ như PROFONANPE được hỗ trợ trong việc giám sát tài chính và kỹ thuật của nhiều
chương trình và dự án bởi 2 cơ quan là Sở Tài chính và Hành chính và Sở Phát triển và
Giám sát. Trong khi đó với GRIF, các đối tác như Ngân hàng thế giới và UNDP hỗ trợ

Barry Spergel và Philippe Taïeb, Đánh giá nhanh về các quỹ ủy thác về bảo tồn, Nhóm công tác tài chính
về bảo tồn với các quỹ môi trường (Xuất bản lần thứ 2, 5/2008), trang 27-29.
2

CA No. AID-486-A-11-00005

11

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
các đơn vị thực hiện dự án để lập tài liệu ý tưởng và đề cương dự án và chịu trách nhiệm
theo dõi và giám sát.
Ngoài các thực thể liệt kê ở trên, nhiều quỹ cũng sử dụng dịch vụ ủy thác để quản lý
quỹ. Trong trường hợp của các quỹ khí hậu và quỹ REDD+ quốc gia, dịch vụ này thường
xuyên được cung cấp bởi một tổ chức quốc tế như Ngân hàng Phát triển châu Phi (đối
với trường hợp CBFF) hoặc UNDP (với ICCTF). Với hầu hết các quỹ lâm nghiệp quốc
gia, cũng như Quỹ Amazon, có một ngân hàng quốc gia thực hiện vai trò quản lý ủy thác.
Người được ủy thác thông thường chịu trách nhiệm về quản lý tín dụng và đầu tư các
nguồn kinh phí theo chính sách hoặc chỉ đạo của các cơ quan quản lý. Người ủy thác là
không thay đổi đối với những trách nhiệm tín dụng ủy thác. Trong nhiều trường hợp,
một số khía cạnh của trách nhiệm tín dụng uỷ thác cũng được trao cho các cơ quan khác
– ví dụ như thành viên của hội đồng quản trị thường phải giải quyết những xung đột về
quy định lãi suất, như các giám đốc điều hành, trong khi nhân viên phải tuân thủ bộ quy
tắc ứng xử. Trong trường hợp của ICCTF, cơ quan thực hiện cũng phải chịu trách nhiệm

tín dụng ủy thác.
Trong một số ít trường hợp, các thực thể khu vực tư nhân đã được lồng ghép trong cơ
cấu quản trị. Trong trường hợp của CBFF, một hãng quản lý tư nhân (liên doanh giữa
SNV và Công ty PricewaterhouseCoopers) được mời giám sát các dự án nhỏ trong khi
với FONAFIFO một “nhiếp chính” của khu vực tư nhân đã được sử dụng để giám sát
hoạt động của một số lượng lớn người nhận tài trợ. Trong các trường hợp trên, việc sử
dụng các thực thể này cho thấy là đã tạo điều kiện nâng cao rõ rệt hiệu quả hoạt động,
mặc dù kinh nghiệm với FONAFIFO cũng cho thấy sự cần thiết kiểm tra thường xuyên và
toàn diện với các thực thể này để đảm bảo giải quyết những xung đột lợi ích.
Bằng chứng từ các quỹ khí hậu và quỹ REDD+ quốc gia cho thấy rằng tổ chức tư nhân
hoặc ngân hàng nhà nước có khả năng quản lý quỹ hiệu quả hơn các tổ chức quốc tế
lớn như UNDP hoặc Ngân hàng Thế giới. Trong trường hợp của ICTFF, chi phí hành
chính của UNDP là khoảng 12%, trong khi Ngân hàng Thế giới thường có mức chi từ 1015% cho quản lý quỹ. 3 Ngược lại dịch vụ ủy thác của Quỹ Amazon là một ngân hàng
quốc gia mà chi phí hành chính chỉ có 3%.
Kinh nghiệm với Quỹ rừng lưu vực sông Congo cho thấy rằng việc sử dụng một đại lý
quản lý quỹ FMA (một liên doanh giữa PricewaterhouseCoopers và SNV) đã giúp tăng
hiệu quả phân tán dự án với chi phí thấp hơn nhiều so với Ban thư ký do Ngân hàng
Phát triển châu Phi (AfDB) lập ra. FMA được lập năm 2011 và trong năm này trị giá của
các đề cương dự án được phê duyệt tăng 923%. Hiện nay, FMA giám sát gần 80% số
dự án đã phê duyệt trong khi chi phí ngân sách 2011-2014 là thấp hơn so với chi phí
hành chính của AfDB cho riêng năm 2010 khoảng 35%.

3

trang 11

CA No. AID-486-A-11-00005

12


LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
Quỹ Amazon và ICCTF cũng đã kết hợp các ủy ban kỹ thuật trong cơ cấu quản lý quỹ
của mình, mặc dù 2 quỹ này có chức năng khác biệt rõ rệt. Với Quỹ Amazon ủy ban kỹ
thuật mang tính độc quyền chịu trách nhiệm phát triển các phương pháp để phát hiện sự
thay đổi lượng trữ carbon rừng và ước tính lượng giảm phát thải cho các thanh khoản.
Trong khi đó ủy ban kỹ thuật của ICCTF được tạo ra để thực hiện đánh giá kỹ thuật các
đề xuất dự án và khuyến nghị phê duyệt tài trợ theo các chỉ tiêu kỹ thuật.
2.3

Đầu tư tiền quỹ

Các điểm chính:





Đầu tư vào tài sản cố hữu trong đó cung cấp truy cập vào vốn lưu động để giữ
nguồn kinh phí sẵn có cho giải ngân là cách thức được ưa thích bởi hầu hết
các quỹ
Quỹ phải có đủ lượng vốn để có thể đảm bảo tính bền vững lâu dài thông qua
việc tạo ra các quỹ cấp vốn mang lại lợi ích hàng năm đủ để tài trợ một phần
hoạt động của quỹ
Kinh nghiệm với Quỹ Amazon cho thấy rằng quỹ có thể kiếm được khoản lợi
nhuận đáng kể từ đầu tư bằng cách sử dụng đội ngũ quản lý chuyên nghiệp
Một thực tiễn chuẩn mực cần thông qua các chủ trương, hướng dẫn đầu tư
trong đó bao gồm các biện pháp an toàn để ngăn chặn đầu tư vào các hoạt

động phá hoại môi trường

Tất cả các quỹ được xem xét, ngoại trừ ICCTF, đều đã tìm cách đầu tư ít nhất là một
phần quỹ của họ theo cách này hay cách khác. Trong hầu hết các trường hợp trách
nhiệm về đầu tư vốn này được thực hiện bởi người được ủy thác theo như chính sách
hoặc hướng dẫn được quy định bởi cơ quan điều hành quỹ, mặc dù các cố vấn đầu tư
cũng có thể được mời để cung cấp những tư vấn mang tính chiến lược. Những chính
sách này thường hướng tới các chiến lược đầu tư cố hữu liên quan đến tài các sản thu
nhập cố định để đảm bảo an ninh và khả năng dự báo trong khi vẫn cho phép truy cập
các thanh khoản để cung cấp kinh phí cho các dự án sau khi phê duyệt. Mặc dù với bản
chất cố hữu như vậy, một số quỹ vẫn thành công trong việc thu về khoản lợi nhuận đáng
kể: Quỹ Amazon đã thu được 5-20% lợi nhuận trong vài năm bằng cách tạo ra một quỹ
riêng được quản lý bởi một công ty đầu tư tư nhân.
Các chính sách và hướng dẫn có thể phân biệt giữa một vài hạng mục của quỹ hoặc
giữa các quỹ / tài khoản con, thường nhằm đảm bảo khung thời gian phù hợp cho các
khoản đầu tư. Ví dụ Quỹ cấp vốn thường được đặt trong các khoản đầu tư dài hạn và
thường đem lại lợi nhuận cao hơn, có thể duy trì ổn định trong khi vẫn là một nguồn thu
nhập đối với hoạt động quỹ. Ngược lại, quỹ chìm nếu có thì thường được đặt trong các
khoản đầu tư ngắn hạn có tính thanh khoản cao. Tầm quan trọng của vấn đề này đã

CA No. AID-486-A-11-00005

13

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
được nhấn mạnh trong kết quả kiểm toán của FFM trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc đánh giá một cách cẩn trọng lượng vốn khả dụng quỹ cần để giữ đảm bảo tính

sẵn có trong khi vẫn đảm bảo rằng lượng vốn không cần thiết trong một thời gian nhất
định được đầu tư vượt ngoài khoảng thời gian đó để có được lợi nhuận lớn hơn.
Mặc dù nghiên cứu hiện tại không đánh giá các tiêu chí xã hội và môi trường áp dụng
cho các khoản đầu tư, nhưng một đánh giá riêng biệt với các quỹ bảo tồn cho thấy rằng
hầu hết các quỹ bảo tồn hiện đang áp dụng các biện pháp sàng lọc về môi trường đối với
các khoản đầu tư của họ, kể cả việc phối hợp với các công ty để cải thiện thực tiễn môi
trường. Tuy nhiên, sàng lọc về yếu tố trách nhiệm xã hội là ít phổ biến hơn vì tiêu tốn
nhiều thời gian và kinh phí hơn. 4
2.4

Tính hợp thức và các tiêu chí lựa chọn

Các điểm chính:





Cho phép một loạt các đối tượng đa dạng nhận tài trợ từ quỹ, bao gồm chính
phủ, khu vực tư nhân, phi chính phủ, các tổ chức giáo dục; có thể mở rộng diện
bao phủ của quỹ cũng như cải thiện hiệu suất và tính năng động quỹ
Trong xác định các quy trình sử dụng quỹ điều quan trọng là hướng tới sự cân
bằng giữa việc đảm bảo các mục tiêu sử dụng được xem xét một cách kỹ
lưỡng, chặt chẽ và những hạn chế về năng lực của ứng viên, chẳng hạn như
thông qua việc áp dụng các quy trình khác nhau với những quy mô tài trợ khác
nhau và hỗ trợ ứng viên trong quá trình xin tài trợ
Các tổ chức quốc tế có thể được sử dụng như các đối tác để hỗ trợ thực hiện
dự án

Tình hợp thức và các tiêu chí lựa chọn thường được đặt ra bởi cơ quan điều hành quỹ

để phản ánh các mục tiêu chiến lược và nhiệm vụ của các quỹ. Các quỹ REDD+ được
xem xét qua nghiên cứu này đã cho thấy có một loạt các phương pháp để xác định các
hoạt động hội đủ điều kiện tài trợ. Ví dụ như GRIF hiện tập trung vào mục tiêu xây
dựng năng lực và phát triển nền kinh tế các-bon thấp hơn là các dự án cắt giảm khí thải
bởi vì rừng Guyana không phải là nguồn phát thải khí nhà kính lớn. Trong khi đó CBFF
lại có xu hướng chỉ tài trợ cho các dự án trực tiếp giúp giảm phát thải, còn Quỹ Amazon
dành kinh phí của mình cho cả các dự án trực tiếp giúp giảm mất rừng và những hoạt
động xây dựng năng lực. Một số quỹ có các hợp phần riêng biệt, dòng vốn hoặc các quỹ
con cho các loại hình hoạt động khác nhau.

Barry Spergel và Philippe Taïeb, Đánh giá nhanh về các quỹ ủy thác về bảo tồn, Nhóm công tác tài chính
về bảo tồn với các quỹ môi trường (Xuất bản lần thứ 2, 5/2008), trang 58-59.
4

CA No. AID-486-A-11-00005

14

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
Tính hợp thức của các thực thể nhận tài trợ có liên quan chặt chẽ với mục tiêu và
phạm vi tổng thể của quỹ. Với các quỹ nhằm bảo tồn các vùng do chính phủ quản lý,
chẳng hạn như PROFONANPE, nguồn tài trợ sẽ chủ yếu dành cho các đơn vị nhà nước
như ban quản lý khu bảo tồn. Với những quỹ nhằm bảo tồn rừng do tư nhân quản lý như
FONAFIFO, FFM hay Lào EPF thì sẽ ưu tiên tài trợ các chủ rừng tư nhân hoặc cộng
đồng. Một số quỹ REDD+ đã tìm cách tiếp cận tới những khu rừng do tư nhân, cộng
đồng và nhà nước quản lý thông qua một bộ công cụ kết hợp. Với Quỹ Amazon chẳng
hạn, 48% kinh phí quỹ dành cho các dự án phân tán đã được giao cho tư nhân hoặc tổ

chức phi chính phủ, trong khi 45% kinh phí được phân bổ cho các dự án do chính phủ
thực hiện và phần còn lại dành cho các trường đại học. Quỹ GRIF cho phép các thực thể
tư nhân tham gia, nhưng đòi hỏi phải có một tổ chức đối tác được chấp thuận trước
(Ngân hàng Thế giới, IDB hoặc UNDP) được bao gồm để giám sát quá trình lập và thực
hiện dự án. Quỹ ICCTF, ngược lại, đòi hỏi tất cả các dự án đều có sự chỉ đạo của các bộ
ngành hoặc cơ quan chính phủ cấp trung ương hoặc địa phương, một yếu tố được xem
là đã góp phần khiến chỉ có ba dự án đã được phê duyệt tính cho đến nay.
Các yêu cầu về thủ tục thường xuyên thay đổi tùy theo loại hình và quy mô dự án. Với
quỹ Lào EDF, các dự án nhỏ (đến 60.000 USD) cần điền mẫu đơn 5-6 trang và nộp tại
Lào, trong khi các dự án lớn đòi hỏi phải có đề xuất dự án chi tiết được viết bằng tiếng
Anh. Có hỗ trợ lập đề xuất cho cả các dự án nhỏ và lớn. Với hệ thống PES, cần xuất
trình quyền sử dụng, mặc dù yêu cầu này đã bị chỉ trích là quá độc quyền, rườm rà, và
trong một số trường hợp đã được nới lỏng cho một số đối tượng (ví dụ như các cộng
đồng bản địa trong trường hợp quỹ FONAFIFO). Đối với chương trình cho vay, chủ quỹ
thường đòi hỏi bằng chứng về tín dụng và tài sản thế chấp. Một số quỹ quốc gia về
REDD+ và khí hậu như CBFF, Amazon, và ICCTF sử dụng các biểu mẫu cho các loại
đơn và đề xuất, trong khi các quỹ khác ít cứng nhắc hơ khi chỉ đòi hỏi tài liệu ý tưởng của
dự án để xem xét tài trợ.
Về khung thời gian của dự án, các quỹ REDD+ thường tập trung vào các dự án từ
ngắn hạn đến trung bình. Quỹ CBFF tài trợ các dự án với thời gian tối đa là 3 năm, trong
khi quỹ Amazon chủ yếu tài trợ các dự án 2-4 năm. Quỹ PROFONANPE với mục tiêu tập
trung vào các khu bảo tồn quốc gia lại thường tài trợ các dự án dài hạn, mặc dù trong
chu trình dự án thường xuyên rà soát để đảm bảo mục tiêu dự án có thể được điều chỉnh
khi cần thiết.

CA No. AID-486-A-11-00005

15

LEAF



Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
Công tác đánh giá và “Theo dõi – Báo cáo – Thẩm định” (MRV)

2.5
2.5.1

Đánh giá tình hình hoạt động tổng thể của quỹ

Các điểm chính:





Thông thường, hội đồng quản trị tiến hành đánh giá tổng thể tình hình thực
hiện quỹ hàng năm hoặc nửa năm và điều chỉnh các chính sách và chiến lược
cho phù hợp
Một thực tiễn chuẩn là các quỹ mời bên thứ ba tham gia kiểm toán tài chính
hàng năm theo quy chuẩn của quốc tế, trong khi một số quỹ cũng cung cấp
cho kiểm toán số liệu về giảm phát thải hoặc các yếu tố khác
Cách tốt nhất là cần công khai và cung cấp miễn phí các tài liệu báo cáo đánh
giá hoạt động của quỹ
Một số các nhà tài trợ có thể yêu cầu tiến hành các đánh giá bất thường,
thường là với chi phí của nhà tài trợ

Trong hầu hết các trường hợp, việc đánh giá tổng thể về tình hình hoạt động của quỹ
được thực hiện bởi hội đồng quản trị thông qua các kỳ đánh giá hàng năm hoặc nửa
năm. Báo cáo thường được cơ quan quản lý chuẩn bị, và bao gồm các chi tiết về hoạt

động và tài chính trong đó có một phần tổng quan về các dự án và tình hình thực hiện.
Báo cáo sau khi được hội đồng quản trị chấp thuận thì thường được công bố công khai
hoặc như trong trường hợp của Quỹ Lào EPF thì được đệ trình cho Chính phủ - một thực
tiễn được các nhà tài trợ đánh giá là tốt nhất.
Tất cả các quỹ đều mời kiểm toán độc lập để rà soát và đánh giá các báo cáo, hồ sơ tài
chính hàng năm của Quỹ. Một số quỹ như GRIF, cũng phải thực hiện kiểm toán độc lập
về giảm phát thải và các chỉ số khác về hoạt động, được thực hiện bởi bên thứ ba (công
ty kiểm toán tư nhân hoặc phi chính phủ) đã được sự thống nhất giữa Guyana và Na-Uy.
Kết quả kiểm toán thường được yêu cầu đăng tải trên mạng, bằng tiếng Anh. Trong
trường hợp cần có thêm đợt kiểm toán đặc biệt thì đối với quỹ CBFF Hội đồng quản trị sẽ
thông qua còn trong đối với quỹ GRIF thì do nhà tài trợ phê duyệt.

CA No. AID-486-A-11-00005

16

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
2.5.2 “Theo dõi – Báo cáo – Thẩm định” (MRV) các hoạt động do cá nhân tài trợ
Các điểm chính:




Các yêu cầu MRV thường liên quan đến các loại hình và quy mô của các dự
án và bên nhận tài trợ
Với hầu hết các quỹ REDD+ cơ chế MRV thường được nhất trí theo từng dự
án cụ thể

Sử dụng các thực thể khu vực tư nhân để thực hiện MRV có thể giúp giảm chi
phí, nhưng lại làm tăng nguy cơ xung đột lợi ích

Dạng thức MRV được sử dụng ở mức độ dự án nói chung phụ thuộc vào loại hình và
quy mô của dự án. Quỹ PROFONANPE, bao gồm các dự án lớn do các cơ quan nhà
nước thực hiện, đòi hỏi phải có báo cáo hàng quý, nửa năm và hàng năm (ở mức độ chi
tiết khác nhau) về kết quả thực hiện, ngân sách và các vấn đề phát sinh cần được trình
lên Ban chỉ đạo, trong khi việc phê duyệt ngân sách hàng năm được thực hiện tùy thuộc
vào các chỉ số hoàn thành chỉ tiêu của năm trước.
Đối với các dự án nhỏ hơn do khu vực tư nhân hoặc tổ chức phi chính phủ thực hiện,
việc giám sát thường được thực hiện thông qua các báo cáo hàng năm với cơ quan điều
hành hoặc như trong trường hợp của quỹ GRIF là các đơn vị đối tác. Với các quỹ
REDD+ các kế hoạch MRV chi tiết, bao gồm cả chỉ số hoạt động và lịch trình giám sát,
thường được lập trên cơ sở cụ thể của dự án, trong khi hầu hết các dự án phải kiểm toán
tài chính hàng năm.
Khi có một số lượng lớn bên nhận tài trợ, chẳng hạn như với quỹ PES, việc thuê tư vấn
tiến hành MRV có thể giúp giảm chi phí. Với quỹ FONAFIFO, các doanh nghiệp tư nhân
thực hiện giám sát các đối tượng tham gia PES, và chính là những người chi trả MRV.
Tuy nhiên, thực tiễn này tạo ra nguy cơ xung đột lợi ích, khiến cần phải thường xuyên
thanh kiểm tra các doanh nghiệp MRV.
Cuối cùng, khi bên nhận tài trợ có năng lực thấp, việc đơn giản hóa công tác báo cáo
có thể làm giảm gánh nặng cho bên tham gia. Với quỹ Lào EDF chẳng hạn thì bên nhận
khoản tài trợ nhỏ (ở mức nào đó) chỉ cần báo cáo miệng tại một số cuộc họp tập thể, bởi
vì nhiều người trong số này có rất ít khả năng viết báo cáo chi tiết.

CA No. AID-486-A-11-00005

17

LEAF



Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
2.5.3 “Theo dõi – Báo cáo – Thẩm định” (MRV) đối với các khoản chi trả theo hoạt động
Các điểm chính:




Với các quỹ REDD+ không cần thiết phải có đường cơ sở (mức tham chiếu) ở
quy mô toàn diện và các hệ thống MRV sẵn có để nhận được khoản chi trả
theo kết quả hoạt động; tuy nhiên, các chỉ số cố hữu được áp dụng để thay
thế
Với một số quỹ, việc đáp ứng các chỉ số về quản trị, trong đó bao gồm cả
đường cơ sở RL và các hệ thống MRV được xem như một yêu cầu để nhận
được các khoản chi trả tiếp theo

Các quỹ nhận được các khoản chi trả theo kết quả hoạt động REDD+ (GRIF và Amazon)
không bị cản trở bởi thực tế là đường cơ sở (RL) mạnh hoặc các hệ thống MRV carbon
rừng vẫn chưa được thiết lập trong nước, mà thay vào đó là sử dụng các ước tính và số
liệu đại diện về mất rừng của phương pháp tiếp cận tạm thời. Chẳng hạn như Quỹ
Amazon sử dụng một tham số 100tCO2e/ha để ước tính lượng phát thải carbon từ diện
tích rừng và áp dụng một chuỗi số liệu lịch sử mà không thể được điều chỉnh theo mô
hình. Trong trường hợp của Guyana, Chính phủ đã đồng ý cho phép các sử dụng các
chỉ số cho phếp tiếp nhận các khoản chi trả tiếp theo trong đó bao gồm việc tạo lập một
đường cơ sở và hệ thống MRV để báo cáo tại UNFCCC cấp độ 3. Đồng thời, mức chi trả
theo mỗi tCO2e sẽ bị khấu trừ nếu tỷ lệ mất rừng vượt quá một mức tối đa đã nhất trí
trước đó.
2.6


Các biện pháp bảo đảm an toàn về xã hội và môi trường

Các điểm chính:
• Đối với các quỹ REDD+, các hệ thống mạnh mẽ để đảm bảo an toàn là rất quan
trọng để thu hút các nguồn tài trợ
• Trong trường hợp kinh phí nhận được từ nhiều nhà tài trợ, các biện pháp đảm bảo
an toàn quỹ cần phải có mức độ nghiêm ngặt tối thiểu như quy định chung của từng
nhà tài trợ để tránh việc phải áp dụng các biện pháp an toàn của từng nhà tài trợ cụ
thể cho từng nguồn tài trợ cụ thể

Đối với các quỹ REDD+, việc có một hệ thống mạnh mẽ để thực hiện các biện pháp an
toàn về xã hội và môi trường được coi là tối quan trọng để thu hút các nguồn tài trợ.

CA No. AID-486-A-11-00005

18

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
Đối với các quỹ môi trường hoặc quỹ lâm nghiệp quốc gia, tính chất quan trọng này vẫn
được duy trì, dù mức độ có thể thấp hơn. Đa số các nhà tài trợ quốc tế công đòi hỏi phải
áp dụng các tiêu chuẩn an toàn của mình cho các dự án hoặc chương trình mà họ tài trợ
hoặc các biện pháp an toàn có mức độ nghiêm ngặt ngang bằng bằng hoặc cao hơn.
Thông thường, khi nguồn vốn của quỹ được cung cấp bởi nhiều nhà tài trợ thì có 2
phương thức chính được sử dụng để đảm bảo các yêu cầu về an toàn. Thứ nhất là áp
dụng biện pháp an toàn của nhà tài trợ theo dự án mà họ tài trợ. Chẳng hạn như với
FONAFIFO, là quỹ mà chỉ có một phần nhỏ do các nhà tài trợ quốc tế cung cấp, và được
sử dụng để tài trợ các dự án cụ thể. Đối với những quỹ mà nguồn kinh phí của nhà tài trợ

được dùng để tài trợ cho các hoạt động / dự án đạng hơn hoặc khi các dòng tài trợ được
gộp vào trong một tài khoản chung thì thường sẽ phải áp dụng biện pháp an toàn nghiêm
ngặt có khả năng đáp ứng yêu cầu của hầu hết các nhà tài trợ. Như quỹ PROFONANPE
(được thành lập với nguồn vốn giống ban đầu của GEF) áp dụng các biện pháp an toàn
của Ngân hàng Thế giới, trong khi Quỹ Amazon sử dụng cả hai tiêu chuẩn REDD+ SES
và BNDES trong đó bao gồm tiêu chuẩn về miễn phí thông báo và chấp thuận trước
(FPIC). Trong khi đó, quỹ EPF Lào đã xây dựng khung an toàn xã hội và môi trường
(ESSF) riêng của mình phù hợp với các biện pháp của Ngân hàng Thế giới.
Ngoài các thực tiễn trên, một số quỹ được quản lý theo ủy thác của các tổ chức quốc tế
và được yêu cầu phải áp dụng các chính sách an toàn của các tổ chức này. Như trong
trường hợp quỹ CBFF áp dụng chính sách an toàn của AfDB và ICCTF áp dụng các biện
pháp của UNDP.
2.7

Các yêu cầu cụ thể của nhà tài trợ

Các điểm chính:
• Các yêu cầu của nhà tài trợ thường sẽ phản ánh bối cảnh điều hành và các khía
cạnh khác của nước sở tại cũng như các mục tiêu chiến lược và lợi ích quốc gia của
nhà tài trợ
• Thông thường, các quỹ đáp ứng những yêu cầu của nhà tài trợ bằng cách áp dụng
chúng với từng dự án cụ thể hoặc áp dụng các quy tắc và thủ tục nghiêm ngặt đối
với tất cả các khâu quản lý quỹ
Các nhà tài trợ khi xem xét tài trợ cho một quỹ sẽ tìm kiếm sự đảm bảo rằng những
khoản đóng góp đó sẽ được quản lý một cách đúng đắn và phù hợp với những chính
sách tài trợ và mục tiêu chiến lược của họ. Điều này thường bao gồm các yêu cầu
như thẩm định kỹ lưỡng, lập kế hoạch chu đáo, quản lý tài chính minh bạch, giám sát
chặt chẽ và báo cáo hiệu quả. Một số nhà tài trợ (như Ngân hàng Thế giới) cũng sẽ tìm
kiếm vai trò trong việc phê duyệt các kế hoạch và chính sách. Ngoài ra, nhiều nhà tài trợ


CA No. AID-486-A-11-00005

19

LEAF


Nghiên cứu quốc tế về các quỹ REDD+ Việt Nam
quốc tế công sẽ áp dụng một số điều khoản và yêu cầu chung, trong đó thường bao gồm
các biện pháp an toàn về xã hội / môi trường và các quy định về quản lý tài chính.
Như đã thảo luận trong phần 2.6 về các biện pháp đảm bảo an toàn, các quỹ thường đáp
ứng các yêu cầu này bằng cách áp dụng với từng dự án cụ thể, hoặc áp dụng các biện
pháp nghiêm ngặt đủ để đáp ứng hầu hết các nhà tài trợ chính.
Trong trường hợp của các quỹ REDD+ chi trả theo hoạt động, các nhà tài trợ có sự linh
hoạt trong một số lĩnh vực, điều này phản ánh cách tiếp cận theo giai đoạn đối với
REDD+ cũng như mức độ 'sẵn sàng' khác nhau của từng quốc gia. Ví dụ như với các
quỹ Amazon và GRIF, các nhà tài trợ cho phép thực hiện chi trả khi chưa có Đường cơ
sở (RL) hoàn chỉnh cũng như hệ thống MRV chưa vận hành, thay vào đó là cho phép các
hệ thống này được phát triển và vận động theo thời gian. Mặc dù có sự linh hoạt chung
về chi trả theo kết quả như vậy nhưng các nhà tài trợ thường vẫn chỉ đạo về cách thức
sử dụng quỹ (như thông qua thẩm định một số chương trình hoặc hoạt động tài trợ nào
đó).
Các yêu cầu cụ thể của nhà tài trợ cũng có thể phản ánh bối cảnh của quốc gia sở tại. Ở
Guyana, tình hình quản trị điều hành yếu kém và nguy cơ tham nhũng cao khiến các nhà
tài trợ luôn đưa cải cách quản trị điều hành như là một điều kiện để chi trả theo kết quả
thực hiện.
Cuối cùng, trong một số trường hợp các nhà tài trợ có thể áp đặt một số điều kiện nhằm
thúc đẩy các lợi ích quốc gia của mình, như quảng bá cho các doanh nghiệp của họ
chẳng hạn. Như trong trường hợp quỹ FONAFIFO, có một khoản trợ cấp từ Đức với yêu
cầu là không quân Đức hoặc các công ty vận tải biển có vị thế bình đẳng với các công ty

Costa Rica trong việc cung cấp các dịch vụ vận tải được quỹ tài trợ.
Các yêu cầu cụ thể do các nhà tài trợ cá nhân đặt ra sẽ tiếp tục được xem xét trong giai
đoạn tiếp theo khi Chương trình LEAF hỗ trợ thành lập Quỹ REDD+ Việt Nam.

CA No. AID-486-A-11-00005

20

LEAF



×