Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Đánh giá sự hài lòng của học viên về chất lượng đào tạo tại học viện hàng không việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

------------

PHẠM THỊ CÚC PHƯƠNG

ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LỊNG CỦA HỌC VIÊN
VỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TẠI HỌC VIỆN
HÀNG KHƠNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2008


BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

------------

PHẠM THỊ CÚC PHƯƠNG

ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LỊNG CỦA HỌC VIÊN
VỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TẠI HỌC VIỆN
HÀNG KHƠNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.05


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS,TS. TRẦN THỊ KIM DUNG

TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2008


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

1

Giới thiệu lý do chọn đề tài

1

2.

Mục đích nghiên cứu

2

3.

Phạm vi và phương pháp nghiên cứu

2


4.

Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu

3

5.

Cấu trúc nghiên cứu

3

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO

4

1.1

4

Chất lượng đào tạo

1.1.1 Một số quan điểm về chất lượng đào tạo

4

1.1.2 Một số cách tiếp cận khác về chất lượng đào tạo (đào tạo nghề)

6


1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo

7

1.2

12

Đánh giá chất lượng đào tạo

1.2.1 Phương pháp đánh giá chất lượng đào tạo
1.2.2 Đánh giá chất lượng đào tạo và sự hài lòng của học viên về chất
lượng đào tạo
1.3

Xây dựng mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu

12
16
18

1.3.1 Xây dựng mô hình nghiên cứu

18

1.3.2 Các giả thuyết nghiên cứu

19

1.4


Tóm tắt

Chương 2: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ HỌC VIỆN HÀNG
KHÔNG VIỆT NAM

19
21

2.1

Giới thiệu khái quát về Học viện Hàng không Việt Nam

21

2.2

Thực tiễn về đào tạo tại Học viện Hàng không Việt Nam

22

2.2.1 Ngành đào tạo

22

2.2.2 Quy mô đào tạo

22

2.2.3 Đội ngũ giảng viên


23

2.2.4 Giáo trình, tài liệu giảng dạy

23

2.2.5 Cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật đảm bảo cho công tác dạy học

24


2.2.6 Đội ngũ cán bộ quản lý

24

2.3

25

Tóm tắt

Chương 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU & KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

26

3.1

26


Thiết kế nghiên cứu

3.1.1 Thiết kế nghiên cứu và quy trình nghiên cứu

26

3.1.2 Thang đo chất lượng đào tạo

28

3.1.3 Thang đo mức độ hài lòng của học viên về chất lượng đào tạo

30

3.2

30

Nghiên cứu chính thức

3.2.1 Mẫu nghiên cứu

30

3.2.2 Thông tin mẫu nghiên cứu (Xin xem phụ lục 3)

31

3.2.3 Phương pháp xử lý số liệu


32

3.3 Kiểm định thang đo và kết quả nghiên cứu

32

3.3.1 Kiểm định thang đo bằng hệ số tin cậy Cronbach Alpha

32

3.3.2 Phân tích nhân tố khám phá EFA

34

3.3.3 Thang đo mức độ hài lòng của học viên về chất lượng đào tạo

35

3.3.4 Điều chỉnh mô hình nghiên cứu

36

3.3.5 Ảnh hưởng của các yếu tố đến chất lượng đào tạo

38

3.3.6 Phân tích hồi quy

38


3.3.7 Phân tích phương sai một yếu tố (Oneway Anova)

42

3.3.8 Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của học viên về
giáo viên, cơ sở vật chất, dịch vụ sinh hoạt

43

3.3.9 Thảo luận kết quả

48

3.4 Tóm tắt

49

Chương 4: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ TẠI HỌC VIỆN HÀNG KHÔNG VIỆT

51

NAM
4.1

Cơ sở vật chất và các dịch vụ hỗ trợ dạy và học

51

4.2


Chương trình đào tạo

53

4.3

Đội ngũ giáo viên

55

4.3.1 Mối quan hệ giữa giáo viên và học viên

55

4.3.2 Năng lực của giáo viên

56

4.4

58

Một số kiến nghị khác


59

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC
Phụ lục 1:

Dàn bài thảo luận nhóm

Phụ lục 2:

Bảng câu hỏi thăm dò ý kiến đánh giá chất lượng đào tạo

Phụ lục 3:

Thông tin mẫu nghiên cứu

Phụ lục 4:

Phân tích nhân tố khám phá (EFA)

Phụ lục 5:

Phân tích phương sai 1 yếu tố (One-way Anova)

Phụ lục 6:

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng về giáo
viên, cơ sở vật chất, dịch vụ hỗ trợ học tập


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1

Giới thiệu lý do chọn đề tài
Đứng trước xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, thị trường lao động ngày càng cạnh
tranh quyết liệt; công nghệ, khoa học kỹ thuật thế giới phát triển nhanh, chất
lượng đào tạo không còn là vấn đề của riêng các cơ sở đào tạo mà trở thành mối
quan tâm hàng đầu của các nhà giáo, nhà quản lý giáo dục, các cơ quan ban
ngành và các đơn vị có liên quan trong ngành giáo dục. Có thể nói chất lượng
đào tạo của Việt Nam đang ngày càng được quan tâm và phát triển nhưng cũng
phải thừa nhận rằng còn một khoảng cách khá lớn để nền giáo dục nước ta đáp
ứng đầy đủ các yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.. Trên thực tế chất lượng đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
chính sách quản lý, chương trình đào tạo, chất lượng đội ngũ giảng dạy và quản
lý, … và khi nói đến chất lượng đào tạo, người ta thường nói đến chương trình
giảng dạy, chất lượng giáo viên, phương pháp giảng dạy, giáo trình giáo án, cơ
sở vật chất (phòng học, thư viện, máy tính, phòng thí nghiệm...), chất lượng đầu
vào, môi trường xã hội và gia đình…
Việc đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển là
không thể thiếu. Bên cạnh việc quan tâm đội ngũ cán bộ quản lý làm công tác
đào tạo, quan tâm học sinh- sinh viên đi đôi với việc nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên, chất lượng công tác tuyển sinh, chất lượng chương trình đào tạo và các
yếu tố hỗ trợ đào tạo thì cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc đánh giá, bảo đảm
chất lượng từ bên trong nhà trường với việc đánh giá, bảo đảm chất lượng từ bên
ngoài (tức là kiểm định chất lượng của các cơ quan quản lý giáo dục các cấp).
Để đảm bảo chất lượng đào tạo đặc biệt là ở bậc đại học, đã từ lâu các nước phát
triển trên thế giới đã tiến hành kiểm định chất lượng đào tạo đại học trong trường
đại học theo những bộ tiêu chuẩn khác nhau. Công việc này được tiến hành định
kỳ và do những tổ chức độc lập tiến hành để đảm bảo tính khách quan. Ở nước
ta, tháng 12 năm 2004, Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định tạm thời về
kiểm định chất lượng trường đại học (quyết định số 38/2004/QĐ-BGD&ĐT ban

hành “Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học”) và mới đây


2
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cũng đã ban hành Quyết định số 08 (ngày
25/03/2008) về việc kiểm định chất lượng đào tạo nghề. Vì vậy việc khảo sát ý
kiến của học sinh - sinh viên về chất lượng đào tạo là rất cần thiết trong công tác
đảm bảo chất lượng hiện nay của các trường Đại học nói chung và tại Học viện
Hàng không Việt Nam nói riêng. Với đề tài: “Đánh giá của học viên về chất
lượng đào tạo tại Học viện Hàng không Việt Nam”, tác giả mong muốn
nghiên cứu này sẽ là tiên đề cho sự đánh giá chất lượng đào tạo tại Học viện
Hàng không Việt Nam. Các câu hỏi sau sẽ định hướng cho đề tài:
-

Những yếu tố nào ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo?

-

Lựa chọn thang đo nào để đo lường chất lượng đào tạo?

-

Thang đo nào dùng để đo lường mức độ hài lòng của học viên đối với chất
lượng đào tạo?

2.

Mục đích nghiên cứu
Dựa trên kết quả khảo sát việc đánh giá chất lượng đào tạo từ góc độ học viên
đang học tập tại Học viện Hàng không Việt Nam, nghiên cứu được thực hiện với

mong muốn đề xuất thang đo đánh giá chất lượng đào tạo tại Học viện Hàng
không Việt Nam và từ đó đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo. Để
đạt được mục đích này, nghiên cứu cần giải quyết các vấn đề sau:
-

Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo

-

Xây dựng và điều chỉnh thang đo đánh giá chất lượng đào tạo.

-

Đánh giá mức độ hài lòng của học viên đối với chất lượng đào tạo

-

Đề xuất một số cải tiến để nâng cao chất lượng đào tạo tại Học viện Hàng
không Việt Nam.

3.

Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Khái niệm về chất lượng nói chung và chất lượng đào tạo nói riêng rất đa dạng
và khó đo lường. Vì thế nghiên cứu sẽ tập trung vào việc phân tích các đánh giá
về chất lượng đào tạo dưới góc độ học viên hệ nghề đang học tập tại Học viện
HKVN thông qua các thông tin thu thập được.
Nghiên cứu được thực hiện theo hai giai đoạn: nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu
chính thức. Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện thông qua nghiên cứu định tính



3
trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp các vấn đề lý thuyết về các khái niệm chất lượng
đào tạo, đánh giá chất lượng đào tạo, các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào
tạo. Sau đó thông qua kỹ thuật thảo luận nhóm 74 học viên hệ nghề chuyên
ngành vận tải hàng không và tham vấn ý kiến các giáo viên có nhiều năm kinh
nghiệm trong giảng dạy để từ đó diều chỉnh thang đo và thiết lập bảng câu hỏi sử
dụng cho nghiên cứu ở bước tiếp theo. Nghiên cứu chính thức được thực hiện
theo phương pháp định lượng với kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp thông qua bảng
câu hỏi điều tra; dựa trên việc phân tích các thông tin thu thập nghiên cứu sẽ rút
ra những kết luận và những giải pháp mang tính lý luận phù hợp với điều kiện
thực tế tình hình của Học viện Hàng không Việt Nam.
Nghiên cứu nhằm xây dựng thang đo đánh giá chất lượng đào tạo. Thang đo
được kiểm định bằng hệ số tin cậy Cronbach Alpha và phân tích nhân tố khám
phá thông qua phần mềm SPSS.
4.

Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu
Kết quả của nghiên cứu giúp cho phía nhà trường có cái nhìn tổng quan về chất
lượng đào tạo của trường trong những năm qua theo góc độ cảm nhận từ phía
học viên hệ đào tạo nghề đang học tập tại Học viện. Thông qua các kết quả
nghiên cứu và phân tích, nghiên cứu giúp Nhà trường định hướng một số những
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của học viên về chất lượng
đào tạo. Đây cũng là tài liệu tham khảo cho nhà trường trong việc cải tiến chất
lượng đào tạo và xây dựng kế hoạch lấy ý kiến sinh viên, một trong những bước
tiến hành kiểm định chất lượng đào tạo tại nhà trường.

5.

Cấu trúc nghiên cứu

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nghiên cứu được thể hiện qua 4 chương:
Chương 1:

Cơ sở lý luận về chất lượng đào tạo

Chương 2:

Giới thiệu khái quát về Học viện Hàng không Việt Nam

Chương 3

Thiết kế nghiên cứu và kết quả nghiên cứu

Chương 4

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
Chương 1 thực hiện xem xét tổng quan các nghiên cứu đã thực hiện về chất
lượng đào tạo, cách thức đánh giá chất lượng đào tạo, các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng đào tạo tác động đến mức độ hài lòng của học viên đối với chất lượng
đào tạo làm cơ sở cho việc thiết kế mô hình nghiên cứu.
1.1

Chất lượng đào tạo


1.1.1 Một số quan điểm về chất lượng đào tạo
Hiện nay, chất lượng đang được quan tâm nhiều trên thế giới. Mọi người bàn
luận về chất lượng trong mọi lĩnh vực của xã hội: trong các ngành công nghiệp,
dịch vụ,… và đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, chất lượng luôn là vấn đề quan
trọng nhất.
Mặc dù có tầm quan trọng như vậy nhưng chất lượng vẫn là một khái niệm khó
định nghĩa, khó xác định, khó đo lường và cách hiểu của người này cũng khác so
với người kia. Do đó, khái niệm chất lượng trong giáo dục đã được đưa ra từ
nhiều góc độ khác nhau (Ton Vroeijenstijn, 2002).
ƒ Khi chính phủ xem xét chất lượng, trước hết họ nhìn vào tỉ lệ đậu/rớt, những
người bỏ học và thời gian học tập. Chất lượng dưới con mắt của chính phủ có
thể miêu tả như “càng nhiều sinh viên kết thúc chương trình theo đúng hạn
quy định, với chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, và với chi phí thấp nhất”
ƒ Những người sử dụng, khi nói về chất lượng, sẽ nói về kiến thức, kỹ năng và
đạo đức trong suốt quá trình học tập: “sản phẩm” bị thử thách chính là những
cử nhân, kỹ sư, thợ.
ƒ Đội ngũ cán bộ giáo viên giảng dạy sẽ định nghĩa chất lượng như là “đào tạo
tốt trên cơ sở chuyển giao kiến thức, kỹ năng tay nghề tốt, môi trường học tập
tốt và quan hệ tốt giữa giảng dạy và thực hành thực tiễn”.


5
ƒ Đối với học viên, chất lượng liên hệ đến việc đóng góp vào sự phát triển cá
nhân và việc chuẩn bị cho một công việc cụ thể trong xã hội. Giáo dục phải
kết nối với mối quan tâm cá nhân của học viên.
Vì vậy có thể nói chất lượng đào tạo được xác định bởi sự thỏa thuận giữa các
bên liên quan về những yêu cầu mong muốn. Giáo dục phải cố gắng hoàn thành
càng nhiều ước muốn càng tốt và điều này phải thể hiện trong những mục đích
và mục tiêu đào tạo.
Nói theo một cách khác, Chất lượng là một khái niệm có ý nghĩa đối với những

người hưởng lợi tuỳ thuộc vào quan niệm của những người đó tại một thời điểm
nhất định và theo các mục đích, mục tiêu đã được đề ra vào thời điểm đó; là sự
đáp ứng với mục tiêu đã đặt ra và mục tiêu đó phải phù hợp với yêu cầu phát
triển của xã hội (Wouter Van den Berghe, 1997).
Như vậy, chất lượng đào tạo là sự đáp ứng mục tiêu đề ra của trường học. Mục
tiêu trong định nghĩa này được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm sứ mạng, các mục
đích, đặc điểm của chương trình đào tạo. Mục tiêu phải phù hợp với chức năng
nhiệm vụ và các nguồn lực của nhà trường nhưng đồng thời mục tiêu đào tạo
phải đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế-xã hội đất nước (TS. Phạm Xuân
Thanh, 2004). Người hưởng lợi chất lượng đào tạo ở đây chính là người học (học
sinh, sinh viên), phụ huynh và người tài trợ (ở nước ta chủ yếu là nhà nước). Tuy
nhiên cũng còn tuỳ thuộc vào quan niệm của người hưởng lợi.
Chất lượng đào tạo là một quan niệm tổng hợp, nhưng bao trùm lên trên tất cả
chất lượng đào tạo phải nói lên nội dung đào tạo và những gì học viên đạt được
sau quá trình học tập. Theo giáo sư Glen Jones- Viện nghiên cứu giáo dục – Đại
học Tổng Hợp Toroto, Canada trình bày quan điểm về chất lượng đào tạo như
sau:
-

Theo quan niệm truyền thống của nhiều trường chất lượng đào tạo chủ yếu
được đánh giá qua năng lực của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong trường. có
nghĩa là trường nào có đội ngũ Giáo sư tiến sĩ nhiều, có uy tín khoa học thì
được xem là trường có chất lượng đào tạo cao. Tuy nhiên điểm yếu của cách
tiếp cận này là khó có thể đánh giá một cách khách quan năng lực của đội ngũ


6
giảng dạy khi mà xu hướng chuyên ngành hoá càng sâu và phương pháp luận
càng đa dạng.
-


Quan niệm đánh giá bằng “Giá trị gia tăng” cho rằng một trường đào tạo có
tác động tích cực đến học viên khi nó tạo ra được sự khác biệt trong sự phát
triển trí tuệ và cá nhân của người học viên. Nếu theo quan niệm này một loạt
các vấn đề nảy sinh khi khó có thể thiết kế một thước đo thống nhất để đo
lường chất lượng “đầu vào” và “đầu ra” để tìm được “giá trị gia tăng”. Hơn
nữa giá trị gia tăng được xác định không cung cấp thông tin gì về sự cải tiến
quá trình đào tạo trong từng chương trình.

-

Quan niệm khác cho rằng chất lượng đào tạo là sự thoả mãn nhu cầu của
khách hàng. Quan niệm này giống với quan niệm về chất lượng chung của tổ
chức ISO, đảm bảo được tính thích ứng của công tác đào tạo với mục đích
đào tạo phải gắn với nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên ai là “Khách hàng”
của một chương trình đào tạo? Là học viên (người trực tiếp sử dụng dịch vụ
đào tạo)? hay là Chính phủ, doanh nghiệp (người chi trả cho dịch vụ này)?
Hay là cha mẹ của học viên…

Theo Giáo sư David D. Dill trong bài viết A Matter of Quality: Markets,
Information, and the Assurance of Academic Standards, chất lượng giáo dục
được hiểu như là những chuẩn mực về giáo dục- Đó là mức độ thành tựu mà sinh
viên đạt được sau khóa học. Các nhà kinh tế nói về nguồn nhân lực tương lai của
đất nước “Các khoản trợ cấp của công chúng được đầu tư vào giáo dục bởi chúng
ta tin tưởng vào các kiến thức, các kỹ năng và giá trị mà sinh viên sẽ cống hiến
đóng góp cho xã hội”. Họ mong chờ ở sinh viên tốt nghiệp không chỉ đơn thuần
là những đóng góp cho nền kinh tế mà còn cả những đóng góp mang tính phi lợi
nhuận cho xã hội thông qua việc nuôi dạy con cái, lối sống lành mạnh, trách
nhiệm công dân và sự gắn kết với xã hội, cộng đồng.
1.1.2 Một số cách tiếp cận khác về chất lượng đào tạo (đào tạo nghề)

Chủ trương mở cửa của Đảng và Nhà nước trong những năm qua đã tạo ra những
bước chuyển biến to lớn trong cơ cấu kinh tế, trong các ngành công nghiệp, dịch
vụ cũng như trong thị trường lao động. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa


7
đất nước đặt ra cho việc đào tạo nghề một nhiệm vụ nặng nề, đó là phải góp phần
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lượng cũng như chất đội ngũ công nhân kinh
tế. Như vậy, đào tạo nghề không những đóng góp giải quyết nhu cầu về số lượng,
mà còn phải quan tâm đến chất lượng. Chất lượng đào tạo được thể hiện qua sự
đánh giá chất lượng sản phẩm - tức khả năng của học sinh sau khi tốt nghiệp có
đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động hay không? Hơn ai hết, người
sử dụng lao động là người đánh giá chất lượng đào tạo của nhà trường một cách
khách quan nhất.
Theo định nghĩa về mục tiêu dạy nghề (Luật dạy nghề), chất lượng đào tạo ở cấp
độ nghề là sự đáp ứng các mục tiêu đề ra của nhà trường. Đó là là đào tạo nhân
lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương
xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác
phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi
tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao
hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vướng mắc lớn nhất chính là thiếu một khái niệm chất lượng và một hệ thống
thang đo chất lượng chính xác và đáng tin cậy cho nền giáo dục Việt Nam.
Không định nghĩa và có tiêu chí rõ ràng thì không thể đo được chất lượng. Chính
điểm yếu này dẫn đến cái bế tắc và không thỏa đáng trong các tranh luận và phê
phán chất lượng giáo dục hiện nay.
Giải pháp hiện nay mà dư luận đang bàn nhiều và Bộ Giáo Dục cũng tập trung
vào là chấn chỉnh các kỳ thi cho thật sự nghiêm túc để nó thể hiện thực chất chất
lượng giáo dục. Điều này là cần thiết, nhưng chưa đủ và không căn bản vì giả
thiết gốc của giải pháp này nằm ở quan điểm cho rằng thi cử là thang đo chính

xác và đáng tin cậy của chất lượng giáo dục.
1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
Nói đến chất lượng đào tạo, trước tiên phải kể đến chất lượng giáo viên. Bên
cạnh đó chất lượng đào tạo còn phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở vật chất (phòng
học, thư viện, máy tính, phòng thí nghiệm, ...), chất lượng đầu vào, chương trình
đào tạo, đội ngũ quản lý và chính sách quản lý, nguồn tài lực của nhà trường...


8
Chương trình đào tạo
Việc thiết kế chương trình đào tạo liên quan đến việc xây dựng kết cấu và nội
dung đào tạo sẽ định hướng cho kết quả đầu ra của một chương trình đào tạo.
ngược lại, kết quả đầu ra gắn kết chặt chẽ với các khóa học trong chương trình
đào tạo. Sự gắn kết này chính là nền tảng của chất lượng đào tạo bởi nó hướng
tới lợi ích và nhu cầu của người học (Tracy Chao, Tami Saj & Felicity Tessier,
2006).
Đối với đào tạo nghề, chương trình đào tạo vừa là chuẩn mực đào tạo, vừa là
chuẩn mực để đánh giá chất lượng đào tạo. Vấn đề ở chỗ, một chương trình đào
tạo chung không thể hoàn toàn phù hợp cho tất cả vùng miền trên toàn quốc, vì
rằng công nghệ sử dụng và mức độ phát triển của nền công nghiệp của các vùng
miền là khác nhau. Để giải quyết những khó khăn trên, trước tiên phải xây dựng
một chương trình đào tạo chuẩn cấp quốc gia, phù hợp với nền công nghiệp hiện
nay, chương trình đào tạo phải đạt được mục tiêu đào tạo nghề như trong mục 3
điều 29 Luật Giáo dục đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào
tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau,
có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có
sức khoẻ, nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm kiếm việc làm,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh”.
Chương trình đào tạo cấp quốc gia là “phần cứng” của chương trình mà bất cứ
trường dạy nghề nào trên toàn quốc có cùng cấp đào tạo chung ngành nghề đều

phải áp dụng như nhau. Ngoài ra, tùy thuộc vào nền công nghiệp của vùng miền
thuộc địa bàn của từng trường, mà mỗi trường cần phải xây dựng thêm một nội
dung được gọi là “phần mềm”. Phần mềm của chương trình do trường xây dựng
phải dựa vào kết quả nhà trường khảo sát, tìm hiểu, xem xét các yêu cầu của
người sử dụng lao động, để đưa ra chuẩn mực đào tạo cho phù hợp, cải tiến nội
dung chương trình. Trong khi đó, nhu cầu và yêu cầu của xã hội, của người sử
dụng lao động luôn luôn thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế đất nước,
điều quan trọng là phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường và người sử dụng
lao động trong quá trình đào tạo để học viên làm quen công nghệ mới khi đi thực


9
tập tại các cơ sở này. Tuy nhiên, việc gắn kết này vẫn còn hạn chế ở nhiều
trường, ảnh hưởng chất lượng đầu ra của học sinh.
Đội ngũ giáo viên
Chất lượng đào tạo là kết quả tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó đội ngũ giáo
viên giữ vai trò quan trọng. Trong mỗi chương trình đào tạo, chất lượng của đội
ngũ giảng dạy có ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp đến kết quả đào tạo. Nhiều
nghiên cứu đã cho thấy rằng chất lượng đào tạo phụ thuộc rất lớn vào khả năng
sư phạm, kiến thức và trình độ chuyên môn mà giáo viên được đào tạo, kinh
nghiệm thực tế và kinh nghiệm giảng dạy mà giáo viên tích lũy (John Ralph,
2000). Trước đây khoa học kỹ thuật chưa phát triển, thông tin còn hạn chế, sự
thay đổi của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh chưa mạnh mẽ như ngày
nay thì yêu cầu đối với đội ngũ giảng dạy chỉ tập trung vào một số kiến thức, tay
nghề chuyên môn, khả năng trình bày,… tuy nhiên ngày nay khi áp lực của sự
thay đổi nhanh chóng thì những yêu cầu đối với đội ngũ giáo viên cũng thay đổi
rất nhiều.
Thực tế cho thấy giáo viên đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất
lượng đào tạo. Thầy là người gợi mở, khuyến khích sự đam mê sáng tạo nghề
nghiệp, là người luôn tích cực hỗ trợ cho học trò trong quá trình hình thành nhân

cách, tác phong công nghiệp. Trong các buổi thực hành, thầy là người luấn luyện
viên tận tuỵ, mẫu mực và bao dung. Vai trò của người giáo viên dạy nghề là:
trang bị kiến thức, hướng dẫn kỹ năng; tạo lập nhân cách cho học sinh. Người
giáo viên dạy nghề, trước hết phải yêu nghề; phải có trình độ chuyên môn và tay
nghề giỏi, có tài năng sư phạm, biết ngoại ngữ và sử dụng thành thạo các phương
tiện hỗ trợ dạy học. Điều mà đa số giáo viên dạy nghề chúng ta còn hạn chế là
tay nghề, là kinh nghiệm thực tế sản xuất, là ngoại ngữ. Nơi nào khắc phục được
tồn tại trên, nơi đó chất lượng dạy nghề sẽ có nhiều triển vọng.
Nghiên cứu của Fallow và Steven (2000) có đưa ra một số chỉ tiêu để đánh giá
chất lượng giáo viên thể hiện qua một số nội dung sau:


10
-

Kiến thức tốt: giáo viên phải có kiến thức chuyên môn sâu cả về lý thuyết và
thực hành. Đồng thời để nâng cao chất lượng giảng dạy, người giáo viên cần
không ngừng cập nhật kiến thức.

-

Khả năng giảng dạy và truyền đạt kiến thức: bao gồm cả sự thuần thục về
chuyên môn lẫn năng lực giao tiếp.

-

Kinh nghiệm thực tiễn: cho phép người giáo viên thực hiện các bài giảng một
cách phong phú, đa dạng mang tính thực tế, cho phép giáo viên dẫn dắt học
viên đến những phần thảo luận sâu rộng, sát với thực tế và người giáo viên có
thể trình bày vấn đề hay giải đáp vấn đề thắc mắc của người học một cách tự

tin.

-

Khả năng gởi mở: Kích thích học viên tự suy nghĩ, phát triển tư duy sáng tạo
trong quá trình học.

-

Sự gần gũi, hoà nhã, thân thiện và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm của giáo viên
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giảng dạy và cũng là yếu tố giúp cho người
học đạt đến chất lượng học tập cao hơn.

-

Biết lắng nghe ý kiến phê bình: do sự phát triển không ngừng của khoa học
kỹ thuật, người giáo viên cần phải có tu duy thông thoáng và sẵn sàng chấp
nhận những đóng góp từ phía đồng nghiệp, từ phía người học.

Tuy nhiên đội ngũ giáo viên dạy nghề hiện nay vẫn có sự bất cập về cả chất
lượng và số lượng. So với tốc độ tăng quy mô đào tạo nghề thì tốc độ tăng số
giáo viên dạy nghề chưa đáp ứng được yêu cầu, bên cạnh đó chất lượng giáo
viên cũng rất thấp, kỹ năng sư phạm của một số giáo viên, đặc biệt là các trường
thuộc các địa phương do mới thành lập nên đội ngũ còn mỏng và chưa có nhiều
kinh nghiệm. Một bộ phận giáo viên dạy thực hành nghề nhưng chưa qua thực tế
sản xuất, chưa được cập nhật kiến thức, kỹ năng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến.
Số giáo viên có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ và tin học còn ít, ảnh
hưởng nhất định tới việc khai thác tài liệu nước ngoài phục vụ giảng dạy.
Cơ sở vật chất – trang thiết bị thực hành; các dịch vụ hỗ trợ
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặt biệt là công nghệ thông tin,

việc sử dụng các dịch vụ hỗ trợ một cách hiệu quả sẽ đóng góp rất nhiều vào việc


11
thoả mãn nhu cầu của người học cũng như nâng cao hiệu quả của một chương
trình đào tạo.
Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy và học: đóng vai trò tích cực trong việc nâng cao
chất lượng dạy và học, đảm bảo chất lượng đào tạo của một trường. Để đảm bảo
sau khi tốt nghiệp, người học đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động,
đó là tiếp cận ngay và làm chủ công nghệ sản xuất nơi công tác một cách có hiệu
quả, thì cơ sở đào tạo nghề phải có cơ sở vật chất – trang thiết bị thực hành đầy
đủ, đồng bộ, hiện đại, phù hợp với nội dung chương trình đào tạo, thậm chí, công
nghệ phải đi trước công nghệ của nền sản xuất. Trường đào tạo nghề còn phải có
các phòng học bộ môn phù hợp cho từng ngành học, cấp học; phải có thư viện
hiện đại; các trung tâm thông tin; nối mạng internet để hỗ trợ công tác nghiên
cứu của giáo viên và tìm hiểu của học sinh. Hệ thống sách và tài liệu giáo khoa
cho học sinh, sách tham khảo, giáo trình, tạp chí chuyên ngành… cho giáo viên
cũng cần được trang bị đầy đủ.
Chất lượng đầu vào
Chất lượng đầu vào phụ thuộc vào toàn bộ quá trình giáo dục từ mẫu giáo, tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, môi trường xã hội và gia đình. Tuy
chất lượng đầu ra phụ thuộc rất lớn vào sự cải tiến (giá trị gia tăng) trong quá
trình đào tạo, nhưng phần lớn thực tế nền giáo dục Việt Nam cho thấy chất lượng
đầu vào kém kéo theo chất lượng đầu ra kém.
Ngoài ra còn có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ cán bộ nhân viên quản lý,
giáo vụ, giám sát,… trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo nói chung và về công
tác quản lý, hỗ trợ giảng dạy học tập nói riêng. Đội ngũ này đòi hỏi phải được
đảm bảo không những về số lượng mà cần thiết phải đáp ứng các yêu cầu về chất
lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, và thậm chí những mối liên hệ giữa đội
ngũ này và người học có thể gây ảnh trực tiếp đến tâm lý và sự hài lòng của

người học đối với môi trường học tập.
Một điều quan trọng nữa là sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường và nhà sản xuất
trong quá trình đào tạo để học sinh làm quen công nghệ mới khi đi thực tập tại
các cơ sở này. Ví dụ như các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp đầu tư ngay từ khâu


12
đăng ký tuyển sinh và quá trình đào tạo. Có được sự giúp đỡ từ phía các doanh
nghiệp, trong quá trình học các học viên sẽ có điều kiện thực hành nhiều hơn,
đặc biệt là được làm quen với máy móc, công nghệ mới và hơn thế nữa là được
tiếp xúc với môi trường thực tế (học tập hướng nghiệp). Tuy nhiên, việc gắn kết
này vẫn còn hạn chế ở nhiều trường, ảnh hưởng chất lượng đầu ra của học sinh.
1.2

Đánh giá chất lượng đào tạo

1.2.1 Phương pháp đánh giá chất lượng đào tạo
Như đã trình bày ở các phần trên, chất lượng đào tạo là khái niệm động, đa chiều
và gắn liền với các yếu tố chủ quan thông qua quan hệ giữa người và người. Do
vậy không thể dùng một phép đo đơn giản để đánh giá chất lượng đào tạo.
Đánh giá chất lượng đào tạo phải xét đến những kiến thức, kỹ năng mà học viên
hiểu biết, nắm vững qua quá trình học tập và có thể vận dụng thực hành vào thực
tế sau khi kết thúc khóa học. Và thực tế đã chứng minh rằng những điều này rất
quan trọng đối với học viên khi tốt nghiệp, và đó cũng là tiêu chí chính mà phần
lớn các nhà tuyển dụng cũng như xã hội quan tâm (Dr. Brendan Nelson, 2002).
Việc đánh giá chất lượng giảng dạy phải được thực hiện ở ít nhất hai mức (Ezra
Maritim, 1999): Nội dung (chương trình - nội dung đào tạo) và phương pháp
giảng dạy. Cần thiết phải kiểm tra những kiến thức cơ bản của sinh viên và cần
xem xét nội dung học thích hợp mà học cần bổ sung; Bên cạnh đó cũng cần phải
đánh giá xem liệu những kiến thức khoa học kỹ thuật mà nhà trường truyền đạt

cho học viên có gắn liền với những vấn đề thường nảy sinh từ mối quan hệ của
họ với môi trường. Việc đánh giá phương pháp giảng dạy của giáo viên có thể
thực hiện bằng cách theo dõi công tác giảng dạy dựa trên sự quan sát khách quan
(quay video hình ảnh diễn ra trong lớp học).
Cách thức đánh giá cũng có thể được phân biệt theo định hướng về tương lai,
hiện tại hay thiên về quá khứ của chương trình đào tạo nhất định từ đó hình thành
nên ba mô hình đánh giá khác nhau: Đánh giá chất lượng hướng đến một khóa
học trong tương lai và những kết quả của nó mang tính đánh giá định hướng;
Đánh giá dựa trên chương trình đào tạo đang được tiến hành thì được gọi là đánh
giá hướng về quá trình đào tạo; Và đánh giá mà qua đó xem xét khóa học đã


13
hoàn tất và hiệu ứng của nó thì được biết đến như là đánh giá kết quả đạt được
(Prof. Dr. Erwin Seyfried, 1998).
Năm 1975, Donald Kirkpatrick giới thiệu một mô hình bốn mức đánh giá hiệu
quả đào tạo và được ông cập nhật mới nhất vào quyển sách Evaluating Training
Programs vào năm 1998. Những mức này có thể được áp dụng cho sự đào tạo
theo hình thức truyền thống hoặc dựa vào công nghệ hiện đại.
Mô hình bốn mức đánh giá hiệu quả đào tạo bao gồm:

Hình 1.1: Đánh giá hiệu quả đào tạo- Mô hình 4 mức độ của Kirkpatrick
-

Sự phản hồi của người học (Students’ Reaction): người học được yêu cầu
đánh giá chương trình đào tạo sau khi kết thúc khóa học. những gì mà họ
nghĩ và cảm nhận trong đào tạo, về cấu trúc, nội dung, phương pháp trong
chương trình đào tạo. Sự đánh giá thông qua những phiếu được gọi là “smile
sheets” hoặc “happy sheets” bởi vì những phiếu này đo lường mức độ yêu
thích chương trình đào tạo của người học. Kiểu đánh giá này có thể làm lộ ra

những dữ liệu quí giá nếu những câu hỏi phức tạp hơn. Với sự đào tạo dựa
trên công nghệ, sự khảo sát có thể được phân phát và được trả lời trực tuyến
sau đó có thể được in hoặc e-mail gởi đến người quản lý đào tạo. Kiểu đánh
giá này thường dễ dàng và ít chi chí.

-

Nhận thức (Learning Results): Mức hai đo kết quả nhận thức, đánh giá xem
học viên có học được những kiến thức, kỹ năng và thái độ như mục tiêu của
chương trình đào tạo đặt ra?

-

Hành vi (Behaviour in the Workplace): sự thay đổi, sự tiến bộ về thái độ
trong lĩnh vực nghề nghiệp. Một cách lý tưởng, sự đánh giá nên thực hiện từ
ba đến sáu tháng sau khi kết thúc chương trình đào tạo, bởi vì thời gian quá


14
lâu thì học sinh có cơ hội bổ sung những kỹ năng mới và dữ liệu đánh giá
không thể hiện được điều cần đánh giá.
-

Kết quả (Business Result): những hiệu ứng, tác động đến doanh nghiệp từ
chương trình đào tạo. Thí dụ trong đào tạo nhân viên bán hàng, đo lường sự
thay đổi trong lượng tiêu thụ, sự thu hút, lưu giữ khách hàng, sự gia tăng lợi
nhuận sau khi chương trình đào tạo được thực hiện.

Theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế ILO (International Labor
organization) - một tổ chức có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực đào tạo nghề,

chất lượng đào tạo nghề của một cơ sở đào tạo được đánh giá theo tiêu chuẩn
ILO-500 (ILO-500 điểm) như sau:
1. Mục tiêu phát triển của cơ sở đào tạo: 25 điểm.
2. Tổ chức và quản lý: 45 điểm.
3. Chương trình đào tạo: 135 điểm.
-

Chương trình;

-

Kế hoạch và nội dung chương trình đào tạo;

-

Các hoạt động phát triển chương trình;

-

Các hoạt động giảng dạy.

4. Đội ngũ cán bộ: 85 điểm.
-

Cơ cấu và số lượng;

-

Ban lãnh đạo và cán bộ quản lý;


-

Đội ngũ giáo viên;

-

Đội ngũ nhân viên phục vụ khác.

5. Thư viện và học liệu: 25 điểm.
6. Tài chính: 50 điểm.
7. Khuôn viên trường và cơ sở hạ tầng: 40 điểm.
8. Xưởng, thiết bị: 60 điểm.
9. Dịch vụ học sinh: 35 điểm.


15
3 tiêu chí hàng đầu xếp theo thứ tự về tỷ trọng: Cơ sở vật chất và dịch vụ hỗ trợ
đào tạo chiếm tỷ trọng 32%; Chương trình đào tạo chiếm 27%; Chất lượng đội
ngũ cán bộ giáo viên chiếm 17%.
Cách đánh giá của ILO chỉ ra cho chúng ta thấy rằng, chất lượng đào tạo nghề
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện, trong đó chương trình đào tạo, đội
ngũ giáo viên, xưởng và trang thiết bị dạy và học là những yếu tố quan trọng
nhất. Để đảm bảo chất lượng đào tạo nghề, cần phải giải quyết tốt các yếu tố
trên.
Ngoài ra cũng có nhiều tiêu chí được đưa ra để đánh giá chất lượng đào tạo như:
-

Nhận xét của sinh viên về quá trình đào tạo.

-


Nguồn nhân lực và cơ sở vật chất của nhà trường.

-

Tỉ lệ các doanh nghiệp tham gia trong quá trình đào tạo.

-

Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp.

-

Tỉ lệ sinh viên tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp.

-

Mức độ hài lòng của các sinh viên đã tốt nghiệp (qua điều tra về sự tương
hợp giữa đào tạo và việc làm).

-

Mức độ hài lòng của người tuyển dụng.

Hiện nay, hệ thống giáo dục của Việt Nam đang bắt đầu thực hiện việc kiểm
định. Để tiến hành được qui trình này, cần phải có một lộ trình rõ ràng từ việc
thành lập các Ban kiểm định, nhân viên kiểm định,… đến các tiêu chuẩn kiểm
định, phương pháp kiểm định…bắt đầu từ các trường Đại học, tiếp đến sẽ là các
cơ sở đào tạo khác trong cả nước.
Việc kiểm định này trước hết sẽ thông qua qui trình tự đánh giá của các trường

đào tạo. Bản thân các trường phải tự đánh giá chất lượng đào tạo của các khóa
học một cách công khai; ngay trong tổ chức của trường cũng phải có hệ thống
quản lý chất lượng. Các nội dung tự đánh giá phải bao quát các vấn đề như: đánh
giá mục tiêu đào tạo và kết quả đạt được, đánh giá chương trình đào tạo, đánh giá
và theo dõi chất lượng sinh viên tốt nghiệp; đánh giá sự hài lòng của học viên
trong quá trình học (đối với môn học, khóa học), kết quả học tập, tỷ lệ đạt yêu


16
cầu ở từng môn học; đánh giá chất lượng nghiên cứu khoa học của nhà trường;
đánh giá chất lượng công tác hành chính và các dịch vụ phục vụ đào tạo; đánh
giá các giải pháp cải tiến nâng cao chất lượng đào tạo. Việc đánh giá đo lường
chất lượng có thể được tiến hành bởi chính các cán bộ giảng dạy, học viên sinh
viên của trường. Bước kế tiếp sẽ là đánh giá từ phía ngoài, từ các cơ quan kiểm
định, các doanh nghiệp sử dụng lao động.
Việc đánh giá chất lượng đào tạo vì thế sẽ dựa trên tiêu chí hoàn thành và đáp
ứng các mục tiêu đào tạo mà trường đề ra. Vấn đề là ở chỗ ngay từ đầu, nhà
trường cần phải định nghĩa và vạch rõ mục tiêu đào tạo phù hợp với yêu cầu thực
tiễn và khả năng đáp ứng của nhà trường. Các mục tiêu được bám sát và thể hiện
trong từng giai đoạn của đào tạo, từ khâu đầu vào, suốt quá trình đào tạo cho đến
đầu ra, mục tiêu đào tạo cần phải được thống nhất, tuy nhiên cũng có lúc cần
được điều chỉnh và linh hoạt theo yêu cầu hiện tại và xu hướng tương lai.
Nhìn chung chúng ta có nhiều cách để đánh giá chất lượng của một chương trình
đào tạo, ví dụ như đánh giá thông qua kết quả học tập, đánh giá thông qua sự
thay đổi về hành vi của người học trước và sau khoá học, đánh giá thông qua sự
thoả mãn của người học trước và sau quá trình học, đánh giá thông qua việc so
sánh giữa kết quả đạt được với những chi phí đã bỏ ra…Tuy nhiên trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung vào đánh giá chất lượng đào tạo nghề
thông qua việc đo lường mức độ thỏa mãn từ phía các học viên đang học tập tại
Học viện.

1.2.2 Đánh giá chất lượng đào tạo và sự hài lòng của học viên về chất lượng đào tạo
Quan niệm về sự hài lòng của học viên
Sự hài lòng của học viên được định nghĩa như là giá trị cảm nhận của học viên về
chất lượng đào tạo. Đó là sự đánh giá của họ về các dịch vụ được cung cấp bởi
nhà trường, những đánh giá của học viên về kết quả và các hoạt động liên quan
đến giáo dục (Kuan-Yao Chiu, 2002).
Sự thỏa mãn của học viên đối với chất lượng đào tạo có thể chịu sự ảnh hưởng
của nhiều yếu tố như động lực học tập, khả năng học tập, quá trình học tập, sự
gắn kết và quyền lợi của người học. Điều này có nghĩa là dạy và học trên lớp


17
không phải là điều duy nhất, thêm sự giám sát trực tiếp của trợ giảng cũng chưa
đủ…, và như vậy, toàn bộ quá trình học tập trở nên vấn đề trung tâm đối với thái
độ của học viên về nhà trường.
Quan hệ giữa sự hài lòng và chất lượng đào tạo
Sự phản hồi từ phía học viên (thể hiện mức độ hài lòng về chất lượng đào tạo) đã
trở thành 1 trong những trụ cột để định hướng cho chính sách đảm bảo chất
lượng đào tạo ở nhiều quốc gia trên thế giới (đặc biệt là trong hệ thống giáo dục
của Anh quốc đối với bậc đào tạo đại học). Bản thân học viên được xem như là
một người liên đới chính (vừa là khách hàng của dịch vụ đào tạo vừa chính là sản
phẩm của đào tạo trong thị trường lao động) vì vậy khi xét về chất lượng đào tạo,
họ có tiếng nói rất quan trọng trong việc đánh giá và nâng cao chất lượng đào tạo
(Dr. Brendan Nelson, 2002).
Do quan điểm từ trước đến nay và theo chính sách giáo dục đào tạo của Chính
phủ Việt Nam thì lĩnh vực giáo dục và đào tạo không được phép thương mại hóa,
do đó quan niệm xem giáo dục và đào tạo là sản phẩm dịch vụ ở Việt Nam xem
ra còn khá xa lạ. Tuy nhiên với xu hướng và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và
hội nhập, việc đảm bảo chất lượng thực sự và đáp ứng yêu cầu thực tế là việc
bức thiết. Chính vì thế mà hiện nay các trường đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn

đến việc thỏa mãn nhu cầu của người học.
Sự thỏa mãn nhu cầu của học viên là một khái niệm tổng quát, nói lên sự hài
lòng của học khi tham gia vào một chương trình đào tạo. Nếu quá trình đào tạo
có chất lượng sẽ khuyến khích người học thích thú hơn và họ sẽ tích cực hơn
trong việc tham gia vào quá trình đào tạo, đồng thời họ cũng là những kênh
Marketing rất hữu hiệu cho chương trình đào tạo nói riêng và cơ sở đào tạo nói
chung. Như vậy việc đánh giá được mức độ hài lòng của học viên là quan trọng
vì các lý do sau: Dựa vào sự phản hồi của học viên, cơ sở đào tạo có thể đánh giá
được chất lượng của chương trình đào tạo, đề xuất những giải pháp cải thiện
chương trình trong tương lai; mặt khác thông qua việc đánh giá này, các nhà
quản lý sẽ có cơ sở cho việc thiết lập những tiêu chuẩn cho việc thực hiện một
chương trình đào tạo hiệu quả.


18
1.3

Xây dựng mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu

1.3.1 Xây dựng mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở các lý thuyết được trình bày ở trên, chất lượng đào tạo chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố trong đó có những yếu tố mang tính chất quyết định như:
Chương trình nội dung đào tạo, chất lượng của đội ngũ giảng dạy, các yếu tố về
cơ sở vật chất và các dịch vụ hỗ trợ giảng dạy. Đồng thời các lý thuyết cũng cho
thấy chất lượng của một chương trình đào tạo được phản ảnh thông qua sự hài
lòng của học viên hay nói cách khác là có mối liên hệ chặt chẽ giữa chất lượng
đào tạo và sự thỏa mãn nhu cầu của người học. Với mục đích nghiên cứu làm rõ
các mối liên hệ trên, tác giả đề xuất một mô hình nghiên cứu như sau:

Xếp loại tốt nghiệp PTTH

Chương trình học

Năng lực của
giáo viên

Sự quan tâm của
giáo viên

Cơ sở vật chất

Dịch vụ hỗ trợ
học tập

Hình 1.2: Mô hình nghiên cứu

Sự hài lòng
của học viên
về chất lượng
đào tạo


19
1.3.2 Các giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của các chương trình
đào tạo, đề tài tập trung vào hai vấn đề sau:
-

Khảo sát đánh giá của học viên về các yếu tố Chương trình học, Năng lực của
giáo viên; Sự quan tâm của giáo viên đối với học viên, Cơ sở vật chất, Các
dịch vụ hỗ trợ học tập tại Học viện Hàng không Việt Nam.


-

Đánh giá mối quan hệ giữa sự hài lòng của học viên về chất lượng đào tạo
với các yếu tố về Chương trình học, Năng lực của giáo viên; Sự quan tâm của
giáo viên đối với học viên, Cơ sở vật chất, Các dịch vụ hỗ trợ học tập tại Học
viện Hàng không Việt Nam. nhằm xác định mức độ tác động của các yếu tố
này đến mức độ hài lòng của học viên về chất lượng đào tạo.

Các giả thuyết nghiên cứu được đề ra như sau:
H1: Chương trình học có ảnh hưởng dương đến sự hài lòng của học viên về chất
lượng đào tạo
H2: Năng lực của giáo viên có ảnh hưởng dương đến sự hài lòng của học viên
về chất lượng đào tạo
H3: Sự quan tâm của giáo viên đối với học viên có ảnh hưởng dương đến sự hài
lòng của học viên về chất lượng đào tạo
H4: Cơ sở vật chất có ảnh hưởng dương đến sự hài lòng của học viên về chất
lượng đào tạo
H5: Các dịch vụ hỗ trợ học tập có ảnh hưởng dương đến sự hài lòng của học
viên về chất lượng đào tạo

1.4

Tóm tắt
“Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu” là định nghĩa phù hợp nhất đối với bất
cứ loại hình đào tạo nào. Mục tiêu ở đây được hiểu là mục tiêu sứ mạng của
trường nói chung, và mục đích đặc điểm của từng chương trình đào tạo nói riêng.
Và chắc chắn là những mục tiêu này được xây dựng trên cơ sở yêu cầu phát triển



20
thực tế kinh tế xã hội và phù hợp với chức năng nhiệm vụ và nguồn lực của cơ sở
đào tạo.
Đánh giá hiệu quả của chương trình đào tạo thông qua đánh giá sự thỏa mãn nhu
cầu của học viên là rất quan trọng vì đó sẽ là căn cứ để các nhà quản lý định
hướng các chương trình đào tạo.
Chương này đưa ra mô hình lý thuyết về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
đào tạo và mối quan hệ của các thành phần này đối với sự hài lòng của học viên
về chất lượng đào tạo.
Chương tiếp theo sẽ giới thiệu khái quát về Học viện Hàng không Việt Nam.


×