Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

ĐỀ tài NGHIÊN cứu cổ PHẦN hóa DOANH NGHIỆP NHÀ nước HIỆN NAY, một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.09 KB, 49 trang )

Mở đầu
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc là một giải pháp quan
trọng trong việc sắp xếp, tổ chức lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nớc. Đây là một chủ trơng nhất quán của
Đảng và Nhà nớc ta. Qua gần hai mơi năm triển khai, tổ chức và
thực hiện, chủ trơng này đã đi vào cuộc sống đạt đợc nhiều
thành tựu. Nhiều doanh nghiệp nhà nớc đợc cổ phần hoá đã thực
sự vững vàng trong cơ chế thị trờng và hội nhập quốc tế, lợi
nhuận ngày càng tăng, sức cạnh tranh ngày càng mạnh, đời sống
vật chất tinh thần của ngời lao động tăng lên. Tuy vậy, trong quá
trình thực hiện cổ phần hoá đã nẩy sinh nhiều vớng mắc, xuất
hiện những tiêu cực, tiến độ chậm. Tình hình đó làm xuất
hiện nhiều ý kiến khác nhau khi đánh giá về vai trò, kết quả của
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc. Đại đa số ý kiến đã nhất trí
với nhận định của Đảng và Nhà nớc ta: Cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nớc đã thực sự là một giải pháp cơ bản và quan trọng
để cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhà nớc.
Để góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam, đồng
thời qua đó cung cấp thêm t liệu phục vụ cho quá trình giảng
dạy các môn học kinh tế tôi xin chọn vấn đề: Cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc hiện nay một số vấn đề lý luận thực
tiễn. làm đề tài nghiên cứu của mình.
Bố cục của đề tài gồm 2 chơng, 4 tiết với các vấn đề
cần làm rõ sau:


2

1. Một số vấn đề lý luận về cổ phần hoá doanh nghiệp


nhà nớc.
2. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc hiện
nay.
3. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cổ phần hóa doanh
nghiệp nhànớc trong thời gian tới.

Chơng 1
Một số vấn đề lý luận về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc hiện nay

1.1. Bản chất cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc
1.1.1 Khái niệm
Những năm qua ở Việt Nam, cổ phần hoá DNNN là vấn
đề thu hút đợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Do
cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau nên có nhiều
quan niệm khác nhau về cổ phần hoá DNNN, tựu trung lại có 3
quan niệm cơ bản nh sau:
Quan niệm thứ nhất: CPH là sự xác định chủ sở hữu đích
thực, cụ thể của DNNN. Cách hiểu này còn hết sức phiến diện, cha
phản ánh đầy đủ nội hàm của nó. Vì cổ phần hoá DNNN không
chỉ xác định chủ sở hữu đích thực cho khối lợng tài sản (giá
trị) cho mỗi thành viên, mà còn thay đổi cả cách thức tổ chức,
quản lý sản xuất - kinh doanh và phân phối lợi nhuận trong
doanh nghiệp.


3

Quan niệm thứ hai: CPH là xã hội hoá các DNNN. Quan
niệm này nhấn mạnh tới tính chất hỗn hợp của sở hữu trong

công ty cổ phần, nhng còn chung chung và cha làm rõ đợc
những đặc trng cơ bản của CPH.
Quan niệm thứ ba: CPH là việc chuyển DNNN thành công
ty cổ phần, hay chuyển hình thức tổ chức kinh doanh một
chủ là Nhà nớc thành công ty cổ phần với chế độ đồng sở hữu,
hỗn hợp nhiều chủ: bao gồm Nhà nớc, các tổ chức xã hội và cá
nhân... tạo ra mô hình doanh nghiệp mới, phù hợp với nền kinh
tế thị trờng. Có thể nói, đây là quan điểm phản ánh khá đầy
đủ về những đặc trng, bản chất của CPH song tính khái quát
lại cha cao.
Trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác- Lê nin, quan
điểm của Đảng ta, đồng thời có kế thừa, phát triển các quan
niệm trên đây, chúng ta có thể hiểu cổ phần hoá DNNN nh
sau: Cổ phần hoá DNNN là việc chuyển DNNN từ một chủ sở
hữu (100% vốn Nhà nớc) thành một loại hình doanh nghiệp mới
- công ty cổ phần, có cơ cấu sở hữu đa dạng, toàn bộ quá
trình tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh, phân phối lợi
nhuận đều thay đổi phù hợp với chế độ công ty, theo đó tùy
vị trí và tính chất cụ thể của doanh nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân mà Nhà nớc giữ vai trò chi phối hoặc cổ đông thờng.
Kinh nghiệm của các nớc t bản chủ nghĩa khi CPH họ thờng
chọn một trong hai hình thức sau:


4

Một là, bán toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh
nghiệp cho các cá nhân, tổ chức kinh tế, xã hội bằng phơng
thức phân chia tài sản doanh nghiệp thành nhiều cổ phiếu và
đem bán toàn bộ hoặc một phần số cổ phiếu đó.

Hai là, giữ nguyên toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, phát
hành thêm cổ phiếu, bán ra thị trờng nhằm tăng thêm vốn và
cũng làm thay đổi từ một chủ sở hữu là Nhà nớc sang nhiều
chủ sở hữu.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta hiện nay chủ
yếu đợc thực hiện theo bốn hình thức sau:
Thứ nhất, giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu để thu hút thêm vốn. Thứ hai, bán một phần giá trị hiện
có của doanh nghiệp cho các cổ đông. Thứ ba, cổ phần hoá
đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp. Thứ t, chuyển toàn bộ
doanh nghiệp thành công ty cổ phần.
Nh vậy, ở nớc ta quá trình CPH một bộ phận DNNN có
nhiều nét đặc thù. Đó là CPH những doanh nghiệp thuộc sở
hữu nhà nớc (100% vốn nhà nớc), mà về thực chất là chuyển
một bộ phận tài sản, vốn từ một chủ sở hữu là Nhà nớc thành
nhiều chủ sở hữu. Trên cơ sở đó làm giảm bớt vai trò trực tiếp
làm chủ sở hữu của Nhà nớc trong các doanh nghiệp, thu hút
thêm nguồn vốn đầu t từ dân c, các tổ chức kinh tế, xã hội cả
trong và ngoài nớc để tạo thêm sức mạnh, nâng cao hiệu quả
của các DNNN, đồng thời, hình thành một phơng thức quản lý
mới vừa phát huy quyền làm chủ của ngời lao động, vừa bảo


5

đảm quản lý một cách có hiệu quả những tài sản của doanh
nghiệp.
Đối tợng của CPH là những DNNN hiện có mà Nhà nớc không
cần nắm giữ 100% vốn, không phụ thuộc vào thực trạng kết
quả sản xuất, kinh doanh. Cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền căn

cứ vào định hớng sắp xếp, phát triển DNNN và điều kiện thực
tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển DNNN hiện
có thành công ty cổ phần, trong đó Nhà nớc có cổ phần chi
phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp hoặc Nhà nớc
không cần giữ cổ phần.
1.1.2 Cổ phần hoá và t nhân hoá
Kể từ khi Nhà nớc ta có chủ trơng thực hiện CPH một bộ
phận DNNN đã có không ít ngời có nhận thức rằng, CPH thực
chất là t nhân hoá DNNN, thực ra, hiểu nh vậy là không đúng.
Cổ phần hoá và t nhân hoá là hai phạm trù kinh tế rất gần
nhau, nhng về bản chất là hoàn toàn khác nhau.
Trớc hết: T nhân hoá là việc chuyển DNNN (có thể 100%
vốn Nhà nớc hoặc có vốn Nhà nớc) sang công ty cổ phần có cơ
cấu sở hữu chủ yếu là sở hữu t nhân. Hoặc có thể hiểu t
nhân hoá là quá trình chuyển DNNN sang doanh nghiệp t
nhân, từ một chủ sở hữu là Nhà nớc sang môt chủ sở hữu là t
nhân. T nhân hoá đồng nghĩa với việc loại DNNN ra khỏi thành
phần kinh tế Nhà nớc. Cải cách DNNN dới hình thức t nhân hoá
đợc coi là làn sóng của chính sách tự do kinh tế mới trong
những năm 80 và 90 của thế kỷ XX ở các nớc TBCN có nền kinh
tế phát triển.


6

Còn CPH ở nớc ta là quá trình chuyển DNNN từ một chủ sở
hữu là Nhà nớc thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu.
Doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nớc (tức toàn dân) giữ vai
trò chi phối thì vẫn là doanh nghiệp nhà nớc. Trờng hợp Nhà nớc
không cần giữ vai trò chi phối trực tiếp nữa thì đó là doanh

nghiệp hợp tác. Những doanh nghiệp hợp tác này có thể chỉ
bao gồm những ngời lao động trong doanh nghiệp, hoặc có
thể thêm những thành viên khác và dĩ nhiên vẫn chịu sự kiểm
kê kiểm soát, quản lý của Nhà nớc. Trờng hợp, doanh nghiệp cổ
phần hóa mà có cá nhân chiếm giữ cổ phần chi phối, thì đó
là sự chuyển thể thành doanh nghiệp t nhân, nếu lại thuê
giám đốc điều hành thì đây là doanh nghiệp t nhân t bản
chủ nghĩa, một hình thức rất thịnh hành ở các nớc t bản hiện
nay, tuy nhiên đặt trong chế độ ta thì nó vẫn chịu sự kiểm
kê, kiểm soát của Nhà nớc ta. Nh vậy, những doanh nghiệp cổ
phần hóa mà ở đó nhà nớc không cần giữ tỷ lệ cổ phần chi
phối nữa thì đều là những doanh nghiệp mang tính chất
chủ nghĩa t bản nhà nớc, theo nghĩa rộng của cụm từ này nh
V.I. Lênin đã chỉ ra.
Thoạt nhìn thì cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nớc nh là
một bớc lùi, nhng thực chất là một bớc tiến xét theo góc độ tăng
trởng của nền kinh tế quốc dân, theo đúng nh bản chất
chính sách kinh tế mới của V.I Lênin. Cũng có thể nói cổ phần
hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nớc của ta ở đầu thế kỷ
thứ 21 là một nội dung mới, một bớc sáng tạo mới của "chính
sách kinh tế mới" mà V.I Lênin đã chủ xớng.


7

Nếu xét ở khía cạnh hình thức sở hữu và dựa vào thực tế
cải cách DNNN ở các nớc trên thế giới thì CPH đợc coi là một
trong những phơng thức của t nhân hoá. Quan điểm này đợc
chấp nhận khá phổ biến. Vì việc CPH đợc thực hiện thông qua
sự phân chia vốn của DNNN ra thành các cổ phần. Một phần

cổ phần đợc bán cho t nhân hoặc ngời lao động, một phần
Nhà nớc sở hữu. Nh vậy, với CPH thì một lợng vốn, tài sản của
một số DNNN đợc chuyển thành sở hữu hỗn hợp của ngời lao
động và của Nhà nớc. Rõ ràng, DNNN bị t nhân hoá một phần,
tức là phần giành cho doanh nhân và ngời lao động. Nghĩa là
một phần tài sản của thành phần kinh tế nhà nớc đã chuyển
sang kinh tế t nhân. Thực tế này cho thấy CPH là t nhân hoá
từng phần các DNNN. Vì lý do này nên nhiều quốc gia khi tiến
hành cải cách thành phần kinh tế nhà nớc đều coi CPH chỉ là
một trong những phơng thức thực hiện t nhân hoá. Tuy nhiên,
giữa CPH và t nhân hoá ở các nớc theo mô hình t nhân hoá
vẫn có những điểm khác nhau rất cơ bản sau đây:
Thứ nhất, t nhân hoá đợc coi là một chính sách và mục
tiêu nhằm hạn chế đến mức tối đa phần vốn, tài sản thuộc sở
hữu Nhà nớc, còn CPH chỉ đợc coi là một giải pháp thực hiện
thực hiện đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp.
Thứ hai, t nhân hoá đợc thực hiện với nhiều phơng thức
khác nhau. Trong đó có cả phơng thức phi quốc hữu hoá, tức là
trả lại cho chủ cũ những tài sản đã bị quốc hữu hoá, kể cả toàn
bộ doanh nghiệp đang hoạt động. Cổ phần hoá trong khi đó


8

chỉ thực hiện thông qua việc DNNN tiến hành phát hành cổ
phần ra công chúng lần đầu.
Thứ ba, tác động của CPH và t nhân hoá hoàn toàn khác
nhau cả về mức độ lẫn tính chất. T nhân hoá dẫn đến sự thay
đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nớc, sở
hữu tập thể sang sở hữu t nhân. Còn CPH có tác dụng làm giảm

sở hữu của Nhà nớc trong công ty cổ phần. Với t cách là một chính
sách, t nhân hoá tác động đến toàn bộ nền kinh tế, còn CPH với
t cách là một giải pháp thực hiện chính sách này tác động chủ
yếu đến các DNNN cổ phần hoá.
Thứ t, t nhân hoá thờng đợc tiến hành trên cơ sở của luật
về t nhân hoá. Cổ phần hoá đợc thực hiện trên cơ sở của luật
công ty hiện hành.
Nh vậy, ở nớc ta bản chất của CPH một bộ phận DNNN
không phải là t nhân hoá. Bởi lẽ, một thời gian dài DNNN đã
hình thành một cách tràn lan, nay Nhà nớc chỉ nắm những
ngành, những lĩnh vực thật cần thiết vũ đài chỉ huy toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của thành phần
kinh tế nhà nớc sẽ không thể đợc củng cố thêm, thậm chí còn
bị yếu đi, nếu cứ tiếp tục duy trì những doanh nghiệp
hiệu quả kinh tế thấp, dàn trải và năng lực cạnh tranh kém.
Cổ phần hoá không xoá bỏ hoàn toàn sở hữu nhà nớc trong
các cơ sở kinh tế nhà nớc mà chỉ giảm mức độ sở hữu, tức
là chỉ có sự thay đổi về lợng chứ không có sự thay đổi về
chất các cơ sở kinh tế này. Cổ phần hoá không làm thay đổi
một cách cơ bản kết cấu sở hữu của nền kinh tế. Vì vậy,


9

nền tảng kinh tế của xã hội không thay đổi lớn khi tiến hành
CPH. Còn khi bán toàn bộ tài sản Nhà nớc chỉ áp dụng đối với
những ngành, những lĩnh vực mà Nhà nớc không cần nắm
giữ, những lĩnh vực mà khu vực t nhân hoàn toàn có thể
làm tốt hơn DNNN, đó là giải pháp hoàn toàn hợp lý. Quá
trình thực hiện, Nhà nớc sẽ lựa chọn hình thức bán cho phù

hợp và nếu bán theo cách để cho ngời lao động có cổ phần u đãi, hay cổ phần khống chế thì rõ ràng không thể nói
rằng đó là t nhân hoá.
1.2. Cơ sở khách quan cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nớc ở nớc ta hiện nay
1.2.1 Lý luận Mác - Lênin về cổ phần hoá
Từ nửa cuối thế kỷ XIX trong lòng chủ nghĩa t bản với chế độ
sở hữu t nhân về t liệu sản xuất đang thống trị đã bắt đầu
xuất hiện một loại hình xí nghiệp mới - xí nghiệp cổ phần hay
công ty cổ phần, mà sở hữu trong đó là của các cổ đông.
Trong các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, chúng ta có
thể tìm thấy những phân tích sâu sắc về thực chất quá trình
hình thành loại hình công ty cổ phần trong lòng chủ nghĩa t
bản ở Tập III của Bộ "T bản" 1. Tập này đã đợc Ph.Ăng-ghen biên
tập và cho xuất bản vào năm 1894, sau khi C.Mác qua đời. Trong
đó đáng lu ý ở sự tiên đoán về hai khuynh hớng quan trọng của
sự xuất hiện các công ty cổ phần trong xã hội t sản:
Thứ nhất, dới chủ nghĩa t bản, C.Mác chỉ ra rằng công ty
cổ phần ra đời là sự manh nha của một hình thức sản xuất mới,
1

C.Mác và Ph.Ang-ghen: Toàn tâ p, Nxb Chính tr ị quôc gia, Hà N ôi, 1994, t 25 Ph â n I, tr
666 ,tr 675


10

sẽ đa đến việc lập ra chế độ độc quyền và đa đến sự can
thiệp của nhà nớc t sản. Khi xuất bản tác phẩm này Ph.Ăng-ghen
có bổ sung thêm một số ý nh: Các-ten ra đời xóa bỏ tự do cạnh
tranh. Trong một số ngành mà trình độ sản xuất cho phép làm

đợc, ngời ta đã đi đến tập hợp trong toàn bộ sản xuất của
ngành đó vào một công ty cổ phần lớn duy nhất có một sự lãnh
đạo thống nhất (ví dụ, sản xuất a-mô-ni-ắc của cả nớc Anh vào
tay một hãng duy nhất, t bản lu động đợc đa ra mời công chúng
góp). Chính trong quá trình này sẽ phát sinh ra một loại ăn bám
mới - quý tộc tài chính mới và cả một hệ thống lừa đảo và bịp
bợm về việc sáng lập, phát hành và buôn bán cổ phiếu.
Sự xuất hiện công ty cổ phần lần đầu tiên trong lịch sử
của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa đã làm cho quyền sở
hữu t bản hoàn toàn tách rời với chức năng của t bản trong quá
trình tái sản xuất thực tế. Tiền công lao động của ngời quản lý
cộng với lợi nhuận doanh nghiệp về tay nhà t bản cổ phần, tức là
các cổ đông, đợc thu về dới dạng lợi tức cổ phần. Thực chất
đây là tiền thù lao trả cho quyền sở hữu t bản, biến những ngời sở hữu t bản thành những ngời sở hữu thuần túy, nghĩa là
những nhà t bản - tiền tệ thuần túy. Những đặc điểm cổ
điển của nhà t bản đã đợc biến đổi thành một ngời chỉ giản
đơn điều khiển và quản lý t bản của những ngời khác.
Thứ hai, xuất hiện những tiền đề thủ tiêu t bản với t cách
là sở hữu t nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa. Các công ty cổ phần là
điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của quá trình tái


11

sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu t bản đơn giản
thành những chức năng của những ngời sản xuất liên hiệp, tức là
thành những chức năng xã hội. Công ty cổ phần ra đời là sự thủ
tiêu phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa ngay trong lòng nó. ở
đó, xuất hiện mâu thuẫn tự nó lại thủ tiêu nó và đây chính là
giai đoạn quá độ sang một phơng thức sản xuất mới: "một phơng thức sản xuất mới phải nảy ra và phát triển trên cơ sở một

phơng thức sản xuất cũ"2.
Theo C.Mác, chính bản thân những công ty cổ phần của
công nhân nh là một loại nhà máy hợp tác, và đây chính là một
lỗ thủng đầu tiên trong hình thái kinh tế t bản chủ nghĩa. Sự
đối kháng giữa lao động làm thuê và chủ t bản đã đợc xóa bỏ
trong phạm vi những nhà máy hợp tác đó; mặc dầu ban đầu nó
chỉ đợc xóa bỏ bằng cách biến những ngời lao động liên hiệp
thành những "nhà t bản" với chính bản thân mình, nghĩa là
cho họ "có thể dùng t liệu sản xuất để bóc lột lao động của
chính họ".
Thực chất của quá trình hình thành các công ty cổ phần
là sản xuất t nhân không còn có sự kiểm soát của quyền sở hữu
t nhân. Những t liệu sản xuất này sẽ không còn là t liệu và sản
phẩm của nền sản xuất t nhân nữa, mà sẽ chỉ có thể là t liệu
sản xuất trong tay những ngời sản xuất liên hiệp, tức là chỉ có
thể là sở hữu xã hội của họ, cũng nh chúng là sản xuất xã hội của
họ.

2

C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t 25 Phần I, tr 673


12

Cả hai khuynh hớng trên, tức là những xí nghiệp cổ phần t
bản chủ nghĩa, cũng nh những nhà máy hợp tác, theo C.Mác, đều
phải đợc coi là những hình thái quá độ từ phơng thức sản xuất t
bản chủ nghĩa sang phơng thức sản xuất tập thể. Nhng điểm
khác nhau căn bản giữa hai khuynh hớng trên là: "trong xí nghiệp

cổ phần t bản chủ nghĩa, mâu thuẫn đợc giải quyết một cách
tiêu cực, còn trong những nhà máy hợp tác, mâu thuẫn đợc giải
quyết một cách tích cực".
Thời đó, C.Mác cũng đã đề cập đến các xí nghiệp của các
nhà nớc t sản cũng có thể trở thành các công ty cổ phần để
tăng thêm quy mô sản xuất của chúng. Vì rằng, công ty cổ
phần ra đời đã làm cho quy mô sản xuất có thể đợc tăng lên, mở
rộng một cách to lớn, đến nỗi những t bản riêng lẻ không thể làm
nổi. Ngay cả những xí nghiệp của nhà nớc (của chính phủ)
cũng đợc tổ chức thành công ty cổ phần, tham gia vào công ty
cổ phần.
Trong quá trình phát triển lịch sử của chủ nghĩa t bản, do
những điều chỉnh thích nghi để bảo vệ lợi ích của giai cấp t
sản, cố gắng duy trì sự tồn tại chủ nghĩa t bản trên thế giới nên
khuynh hớng thứ nhất đã trở nên mạnh mẽ hơn. Chủ nghĩa t bản từ
giai đoạn tự do cạnh tranh đã chuyển thành chủ nghĩa t bản độc
quyền, tức chủ nghĩa đế quốc. ở các tác phẩm của V.I. Lênin, các
hình thức của công ty cổ phần ít đợc bàn đến, ngay cả trong
quá trình thực hiện Chính sách kinh tế mới. Trong quá trình này
V.I. Lênin đề cập rất nhiều đến chủ nghĩa t bản độc quyền nhà
nớc và sự vận dụng sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể của nớc Nga


13

Xô-viết thành phần kinh tế chủ nghĩa t bản nhà nớc. Trong đó, V.I.
Lênin cho rằng, việc nhà nớc Xô-viết có thể chỉ cần nắm khoảng
25% cổ phần là có thể chi phối đợc các cổ đông t nhân khác
trong các xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế chủ nghĩa t bản
nhà nớc.

Một luận điểm rất đáng lu ý của V.I. Lênin những năm 20
của thế kỷ XX về các hình thức hợp tác xã đợc thể hiện trong tác
phẩm: "Bàn về chế độ hợp tác xã" là: "Dới chủ nghĩa t bản t
nhân, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp t bản chủ nghĩa,
cũng nh xí nghiệp tập thể khác với xí nghiệp t nhân. Dới chủ
nghĩa t bản nhà nớc, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp t
bản nhà nớc, trớc hết ở chỗ nó là xí nghiệp t nhân, sau nữa ở
chỗ nó là xí nghiệp tập thể. ở chế độ ta hiện nay, xí nghiệp
hợp tác xã khác với xí nghiệp t bản t nhân, ở chỗ nó là xí nghiệp
tập thể, nhng nó không khác xí nghiệp xã hội chủ nghĩa, nếu
miếng đất trên đó nó đợc xây dựng và những t liệu sản xuất
đều thuộc về nhà nớc, nghĩa là về giai cấp công nhân"3.
1.2.2. Tác dụng của CPH doanh nghiệp nhà nớc
Trên cơ sở lý luận Mác- lênin về công ty cổ phần và cổ
phần hoá vận dụng vào nớc ta, Đảng ta cho rằng, cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nớc là cần thiết, là một giải pháp để tổ
chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nớc nhằm củng cố và
nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc, định hớng xã hội
chủ nghĩa nền kinh tế thị trờng. Cụ thể là:

3

V. I. Lênin: Toàn tâp, Nxb Tiên bộ, Mátxcova, 1978, t 45, tr 427


14

- Doanh nghiệp nhà nớc phải đợc sắp xếp làm sao để hiệu
quả hoạt động cao hơn, có tính cạnh tranh cao hơn, có tăng trởng phù hợp với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hớng xã hội chủ nghĩa.

- Các doanh nghiệp nhà nớc phải góp phần quan trọng bảo
đảm sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu
cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh và phúc lợi xã hội.
Thực hiện tốt vấn đề này sẽ mang lại những tác dụng tích
cực sau:
Thứ nhất, tăng thêm vốn cho phát triển kinh tế. Dù bán
một phần tài sản doanh nghiệp bằng hình thức bán cổ phần,
hoặc gọi thêm vốn bằng hình thức mua cổ phần, thì tiền vốn
của doanh nghiệp đều tăng lên trong khi vốn hữu hình của
doanh nghiệp vẫn bảo tồn. Vốn tiền tăng lên sẽ giúp cho phát
triển tài sản cố định và giúp phát triển cả vốn lu động, càng
cần thiết đối với những doanh nghiệp đang làm ăn có hiệu
quả. Trong thực tiễn cổ phần hóa, vốn nhà nớc vẫn có thể tăng
lên do định giá lại tài sản doanh nghiệp theo giá thị trờng và cả
giá cả của những thơng hiệu nổi tiếng. Chẳng hạn, trong 12
đơn vị của Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng thì giá
trị tài sản đợc đánh giá lại đã tăng thêm trên 22 tỷ, giá trị thơng hiệu là 37 tỷ đồng, làm cho tổng vốn của Nhà nớc tăng
thêm 59 tỷ đồng.
Thứ hai, tạo nên động lực trực tiếp cho sản xuất kinh
doanh. Cổ phần hoá DNNN làm thay đổi hình thức sở hữu, từ
một chủ duy nhất là Nhà nớc sang nhiều chủ sở hữu, thay đổi


15

cơ chế quản lý đã tạo cho ngời lao động thực sự làm chủ doanh
nghiệp, gắn bó với kết quả sản xuất, kinh doanh. Thông qua Đại
hội cổ đông, ngời lao động đợc quyền tham gia quyết định
những vấn đề hệ trọng liên quan đến sự tồn tại, phát triển của
doanh nghiệp. Đây không chỉ là cơ chế để phát huy dân chủ

ở cơ sở mà còn làm cho bầu không khí dân chủ trong xã hội
ngày càng đợc mở rộng. Trong công ty cổ phần chủ sở hữu là
rất cụ thể, đó là các cổ đông; lợi ích cũng rất cụ thể, đó là lợi
tức cổ phần. Lợi tức cổ phần là động cơ trực tiếp thôi thúc các
cổ đông mà tiêu biểu là Hội đồng quản trị quan tâm quản lý
sản xuất kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao. Lợi tức cổ
phần hiện nay thờng đạt 12 - 15%/năm, nghĩa là cao hơn mức
lãi suất ngân hàng. Thông qua cổ phần hoá mà nhà nớc thu hồi
lại một số lợng vốn lớn tập trung đầu t cho các lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế.
Thứ ba, thúc đẩy mạnh hoạt động đầu t, đẩy nhanh
tăng trởng kinh tế. hệ số ICOR (so sánh mức tăng đầu t với mức
tăng trởng kinh tế) cao hơn trớc. Thông qua cổ phần hoá hình
thành tâm lý tiết kiệm và đầu t của những ngời lao động và
của doanh nghiệp, qua đó nâng cao tỷ lệ đầu t toàn xã hội.
Thông qua CPH, Nhà nớc thu đợc một phần giá trị tài sản mà trớc
đây Nhà nớc giao cho các doanh nghiệp quản lý nhng sử dụng
kém hiệu quả. Khoản tiền này sẽ đợc Nhà nớc đầu t vào các
lĩnh vực khác hiệu quả hơn, hoặc bổ sung vào ngân sách,
tăng cờng tiềm lực kinh tế để Nhà nớc thực hiện chức năng


16

quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
Thứ t, mở rộng việc làm, tăng thu nhập của ngời lao động
trong doanh nghiệp. Thông qua cổ phần hoá hoạt động đầu t
mở rộng hơn sẽ tạo thêm nhiều việc làm mới. Cổ phần hoá DNNN
tạo cho ngời lao động có cơ hội phát huy năng lực, trách nhiệm

đối với doanh nghiệp. Bằng việc sở hữu cổ phần trong doanh
nghiệp, ngời lao động có cơ hội để tăng thu nhập, tham gia
vào việc quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp
thông qua cái gọi là nền dân chủ cổ phần. Điều này có ý
nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính chủ động, tích cực,
tinh thần lao động hăng say của ngời lao động không chỉ đối
với các vấn đề của doanh nghiệp mà cả đối với các vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nớc. Đây chính là yếu tố tích
cực của CPH xét ở khía cạnh ổn định chính trị - xã hội.
Thứ năm, củng cố vai trò của doanh nghiệp nhà nớc - bộ
phận rờng cột, năng động của kinh tế nhà nớc, nhờ hiệu quả
ngày càng cao của nó và lực lợng vật chất, tài chính to lớn do
nhà nớc chi phối đợc. Cổ phần hoá DNNN sẽ làm cho số lợng
doanh nghiệp 100% vốn của Nhà nớc giảm, nhng Nhà nớc lại có
điều kiện đầu t cho các DNNN ở những ngành, những lĩnh
vực then chốt. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này mở
rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực
sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trờng. Một phần tài sản của Nhà nớc đợc đầu t trở lại để phát
triển các doanh nghiệp CPH, từ đó làm cho vốn của Nhà nớc đ-


17

ợc luân chuyển từ nơi hiệu quả thấp đến nơi có hiệu quả cao,
tạo ra động lực cho DNNN phát triển. Khi doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả, lợi nhuận doanh nghiệp tăng, có điều kiện thực
hiện tốt hơn nghĩa vụ đối với Nhà nớc, tăng ngân sách Nhà nớc,
góp phần tăng cờng tiềm lực kinh tế đất nớc.
Thứ sáu, Hình thành phơng thức quản lý hiệu quả cho

doanh nghiệp nhà nớc sau cổ phần hoá.
Thực hiện đổi mới, sắp xếp DNNN đó là quá trình sàng
lọc và đào thải những doanh nghiệp kém hiệu quả, tạo môi trờng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và động lực phát triển.
Những DNNN kinh doanh không hiệu qủa phần lớn là do khâu
quản lý yếu kém, bộ máy điều hành thiếu năng động, sáng tạo
hoặc thiếu vốn. Đi vào CPH tức là chuyển sang một hình thức
quản lý hiện đại hơn, bên cạnh vai trò chi phối của Nhà nớc, có
sự tham gia của các thành phần kinh tế khác. Cổ phần hoá là
một bớc chuyển về chất trong quản lý kinh doanh, nó xoá bỏ đợc kiểu quản lý độc đoán, chuyên quyền của cơ chế tập trung,
quan liêu bao cấp trớc đây, phát huy đợc trí tuệ tập thể, thực
hiện đợc dân chủ hoá kinh tế thông qua Đại hội cổ đông.
Chuyển thành công ty cổ phần, hoạt động của doanh nghiệp
theo chế độ quản lý của công ty, những vấn đề về chiến lợc
phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh, phân chia lợi nhuận
đợc quyết định bởi Đại hội cổ đông. Do đó, nêu cao đợc trách
nhiệm của Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành, Ban kiểm
soát đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông. Từ đó, đòi hỏi phải
có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp mà thực chất đó


18

là Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành có trình độ, năng
lực đáp ứng yêu cầu của nền KTTT.
Khi chuyển sang công ty cổ phần quyền tự chủ doanh
nghiệp đợc mở rộng, quyền làm chủ của ngời lao động cũng
tăng lên, công ty cổ phần đã gắn lợi ích kinh tế của cổ đông,
ngời lao động với lợi ích doanh nghiệp sẽ phát huy sức mạnh trí
tuệ của các cổ đông tham gia vào việc quản lý và sử dụng hợp
lý hơn, hiệu qủa hơn các nguồn lực của doanh nghiệp CPH.

Thứ bảy, phát triển của thị trờng chứng khoán.
Thị trờng chứng khoán là biểu hiện của sự phát triển ở
mức độ cao của KTTT. Thị trờng chứng khoán hình thành từ
nhu cầu mua bán, trao đổi cổ phiếu do các công ty cổ phần
phát hành. Chính công ty cổ phần là nơi cung ứng các sản
phẩm cho thị trờng chứng khoán. Cổ phần hoá DNNN về mặt
lý thuyết sẽ là điều kiện, tiền đề của sự hình thành và phát
triển thị trờng chứng khoán. Thị trờng chứng khoán phụ thuộc
chủ yếu vào việc trên thị trờng có chứng khoán để giao dịch
hay không. Với sự xuất hiện của những công ty cổ phần, hàng
hoá chứng khoán trên trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ
nhiều hơn, chất lợng hơn, ảnh hởng của thị trờng vốn quan
trọng này đối với nền kinh tế sẽ ngày càng rõ nét hơn.
Sự hoạt động hiệu quả của thị trờng chứng khoán sẽ dễ
dàng thu hút các nguồn vốn trong xã hội cho phát triển kinh tế.
Nguồn lực này còn đợc mở rộng đáng kể khi Nhà nớc cho phép
tổ chức, cá nhân nớc ngoài đợc mua cổ phiếu của DNNN cổ
phần hoá. Trong điều kiện nớc ta hiện nay, việc đẩy nhanh


19

CPH sẽ gắn chặt với việc phát triển thị trờng chứng khoán. Thị
trờng chứng khoán phát triển đến mức độ nhất định và hoạt
động có hiệu quả sẽ tác động tích cực đến cổ phần hoá
DNNN. Cổ phần hoá DNNN đợc tiến hành tốt sẽ làm cho không
chỉ thị trờng chứng khoán phát triển sôi động hơn mà còn góp
phần thúc đẩy hệ thống thị trờng ngày càng phát triển đồng
bộ phù hợp với cơ chế thị trờng hiện nay.
Những vấn đề trình bày trên khảng định, cổ phần hoá

DNNN mang lại nhiều tác dụng tích cực cho nền kinh tế, là một
giải pháp để nâng cao hiệu qủa và sức cạnh tranh của DNNN
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, là yêu cầu khách quan
và cấp bách ở nớc ta hiện nay, nhằm đảm bảo cho khu vực kinh
tế này thực hiện tốt chức năng, vai trò, vị trí của mình trong
nền kinh tế quốc dân.
Chơng 2
Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc
và một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nớc hiện nay
2.1. Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc hiện nay

2.1.1. Quá trình nhận thức và triển khai cổ phần
hoá của Đảng ta
Cụm từ "cổ phần" đã rất quen thuộc từ trên 40 năm nay, kể
từ khi Đảng ta vận động nhân dân lập hợp tác xã mua bán, hợp tác
xã tín dụng, lập cửa hàng, xí nghiệp công t hợp doanh. Chúng ta
lấy hợp tác xã mua bán làm ví dụ. Hợp tác xã mua bán đợc phát


20

triển rộng rãi ở cả thành thị và nông thôn, nhng trớc hết và chủ
yếu là ở nông thôn. Các xã viên góp cổ phần, hợp tác xã phục vụ
tiêu dùng hàng hóa dịch vụ của xã viên và cả tiêu thụ hàng hóa cho
xã viên, chia lãi cho cổ phần (dù rằng rất nhỏ). Mục đích của hợp
tác xã mua bán là phục vụ cho đời sống của nhân dân, tạo thuận
lợi cho nhân dân, đối chọi lại với những mặt tiêu cực của t thơng,
rèn luyện tính tập thể, lề lối làm ăn tập thể của nhân dân lao
động.

ý tởng về cổ phần hoá DNNN của Đảng đợc hình thành
khá sớm ngay từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI
(12/1986), với đờng lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nớc.
Tại Hội nghị Trung ơng 3 (khoá VI) về đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế đã nêu: Nếu không đủ điều kiện để củng cố và không
cần thiết duy trì hình thức quốc doanh thì chuyển sang
hình thức sở hữu khác (kể cả cho tập thể, t nhân thuê), hoặc
giải thể, trớc hết là những xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
không thuộc loại thiết yếu, xí nghiệp dịch vụ trang bị kỹ thuật
thấp, bị thua lỗ thờng xuyên. Trong quyết định số 21/HĐBT
ngày 14/7/1987 của Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ), về
đổi mới kế hoạch và hạch toán kinh doanh XHCN, đảm bảo
quyền tự chủ đối với xí nghiệp quốc doanh, đã đề cập tới việc
thí điểm tiến hành cổ phần hoá DNNN và giao cho Bộ Tài
chính chủ trì. Tuy nhiên, do điều kiện thị trờng cha phát
triển, đồng thời do tồn tại quá lâu trong cơ chế cũ nên từ Trung
ơng tới cơ sở đều cha hiểu hết vấn đề phức tạp này, từ đó cha có sự thống nhất về quan điểm. Đến nay ở nớc ta CPH vẫn là


21

vấn đề mới đối với thực tiễn quản lý DNNN. Đầu năm 1990, trên
cơ sở đánh giá kết quả sau 5 năm thực hiện đờng lối đổi mới,
Hội đồng Bộ trởng đã ban hành quyết định số 143/HĐBT ngày
10/5/1990 về chủ trơng nghiên cứu và làm thử mô hình
chuyển xí nghiệp quốc doanh sang công ty cổ phần. Tuy vậy,
cho đến năm 1992 cả nớc vẫn cha triển khai CPH đợc một
doanh nghiệp nào. Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục khẳng
định: khẩn trơng sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc
doanh. Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các

cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vơn lên. Đại hội chỉ
rõ: Đối với những cơ sở không cần giữ hình thức quốc doanh,
cần chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải
thể, đồng thời giải quyết việc làm và đời sống cho ngời lao
động. Khuynh hớng coi nhẹ kinh tế quốc doanh, muốn t nhân
hoá tràn lan, cho rằng để chuyển sang cơ chế thị trờng phải t
hữu hoá tất cả TLSX là sai lầm. Cố nhiên, nếu duy trì và phát
triển kinh tế quốc doanh một cách tràn lan, kéo dài cơ chế bao
cấp cũng không đúng.
Nhằm thể chế hoá Nghị quyết Đại hội VII, ngày 8/6/1992,
Hội đồng Bộ trởng đã ra Quyết định số 202/QĐ -HĐBT chỉ đạo
tiếp tục triển khai cổ phần hoá DNNN bằng việc thí điểm
chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Đây đợc coi là cái
mốc đánh dấu bớc chuyển vào giai đoạn thí điểm cổ phần
hoá DNNN. Để thực hiện quyết định này, theo chỉ thị số
84/TTG ngày 4/3/1993, Thủ tớng Chính phủ đã chọn 7 doanh
nghiệp, đồng thời giao nhiệm vụ cho các bộ, Uỷ ban nhân dân


22

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng chọn một đến hai doanh
nghiệp tiến hành thí điểm CPH. Triển khai chỉ thị của Thủ tớng, các bộ, ngành, địa phơng đã thông báo đến từng DNNN,
để các doanh nghiệp tự nguyện đăng ký thí điểm chuyển
thành công ty cổ phần. Đến cuối năm 1993, đã có 30 doanh
nghiệp đăng ký thực hiện thí điểm CPH, nhng vì nhiều lý do,
7 DNNN đợc Chính phủ chọn để thí điểm CPH và nhiều
doanh nghiệp khác cũng xin rút hoặc không đợc tiếp tục làm
thử do không đủ điều kiện.
Trớc những khó khăn của việc thí điểm cổ phần hoá

DNNN, tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII), Đảng ta chủ trơng:
Để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn
tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả, cần thực hiện các
hình thức CPH có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản
xuất - kinh doanh; trong đó, sở hữu nhà nớc chiếm tỉ lệ cổ
phần chi phối. Mặc dù quan điểm của Đảng về cổ phần hoá
DNNN đã đợc nêu khá rõ ràng, song cho tới tháng 4/1996, cả nớc
chỉ có 5 DNNN chuyển thành công ty cổ phần (2/61 tỉnh,
thành phố và 3/7 bộ có DNNN cổ phần hoá). Cả 5 doanh nghiệp
này đều là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chủ
yếu sản xuất hàng hoá và dịch vụ trong những lĩnh vực không
quan trọng, kinh doanh có lãi. Nh vậy, quá trình thí điểm cổ
phần hoá DNNN ở nớc ta diễn ra quá chậm và nhiều khó khăn.
Trớc những khó khăn của việc thí điểm cổ phần hoá
DNNN, tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII, tháng 1 năm 1994)
Đảng ta đã chỉ ra rằng: "Để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo nên


23

động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nớc
làm ăn có hiệu quả, cần thực hiện các hình thức cổ phần hóa
có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất - kinh
doanh; trong đó sở hữu nhà nớc chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối".
Theo đó, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã chủ trơng: "áp dụng từng bớc vững chắc phơng thức bán một tỷ lệ
cổ phần cho công nhân viên chức trực tiếp làm việc tại doanh
nghiệp; thực hiện chia lợi nhuận theo lơng cơ bản kết hợp với
chia theo cổ phần. Thí điểm việc bán một phần cổ phần, cổ
phiếu của một số doanh nghiệp nhà nớc cho các tổ chức và cá
nhân ngoài doanh nghiệp. Trên cơ sở cổ phần hóa, tổ chức

Hội đồng quản trị gồm đại diện cho sở hữu nhà nớc, sở hữu
của công nhân doanh nghiệp và các chủ sở hữu khác. Định thể
chế và tiêu chuẩn để Hội đồng quản trị tuyển chọn giám đốc
điều hành". Mặc dù quan điểm của Đảng về cổ phần hoá
DNNN đã đợc nêu khá rõ ràng, song cho tới tháng 4/1996, cả nớc
chỉ có 5 DNNN chuyển thành công ty cổ phần (2/61 tỉnh,
thành phố và 3/7 bộ có DNNN cổ phần hoá). Cả 5 doanh nghiệp
này đều là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chủ
yếu sản xuất hàng hoá và dịch vụ trong những lĩnh vực không
quan trọng, kinh doanh có lãi. Nh vậy, quá trình thí điểm cổ
phần hoá DNNN ở nớc ta diễn ra quá chậm và nhiều khó khăn.
Tháng 6 năm 1996, Đại hội VIII của Đảng chủ trơng "Triển
khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nớc để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nớc


24

ngày càng tăng lên, không phải để t nhân hóa. Bên cạnh
những doanh nghiệp 100% vốn nhà nớc sẽ có nhiều doanh
nghiệp nhà nớc nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối.
Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho ngời lao động tại
doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh
nghiệp tùy từng trờng hợp cụ thể; vốn huy động đợc phải dùng
để đầu t mở rộng sản xuất kinh doanh".
Hội nghị lần thứ ba của Trung ơng khóa VIII tháng 6 năm
1997 đã có những nhận thức bổ sung quan trọng khi xác định
"cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nớc là chủ trơng
rất quan trọng đợc Đại hội VIII đề ra trên cơ sở tổng kết thực tiễn

10 năm đổi mới. Song xã hội hóa không đồng nghĩa với phi nhà
nớc hóa và càng không phải t hữu hóa. Phơng châm cơ bản ở
đây vẫn là Nhà nớc và nhân dân cùng làm; trong đó Nhà nớc có
vai trò nòng cốt, thực hiện quản lý nhà nớc, tổ chức cho nhân
dân và trong điều kiện cụ thể tham gia cùng làm với dân; không
làm thay dân, cũng không khoán trắng".
Đại hội IX (tháng 4 năm 2001) đã yêu cầu "Trong 5 năm tới
cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ
cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nớc
hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nớc
đầu t 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành,
lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Thực hiện tốt chủ
trơng cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những
doanh nghiệp mà Nhà nớc không cần nắm 100% vốn. Tiếp tục


25

đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nớc để
tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả".
Hội nghị Trung ơng 3 khóa IX (tháng 9 năm 2001) đã ra
Nghị quyết "Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nớc", coi đó là "nhiệm vụ cấp
bách và cũng là nhiệm vụ chiến lợc, lâu dài với nhiều khó khăn,
phức tạp, mới mẻ". Hội nghị chủ trơng "đẩy mạnh cổ phần hóa
những doanh nghiệp nhà nớc mà Nhà nớc không cần giữ 100%
vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản
trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nớc". Đặc biệt,
Hội nghị đã có những định hớng quan trọng: chỉ ra những lĩnh
vực mà Nhà nớc vẫn giữ 100% vốn, những lĩnh vực mà Nhà nớc

phải giữ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn, quy định chi tiết
đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và đối với doanh
nghiệp hoạt động công ích.
Hội nghị Trung ơng chín khóa IX (tháng 1 năm 2004)
quyết định "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nớc, trọng tâm là cổ
phần hóa mạnh hơn nữa". Về chỉ đạo, Trung ơng đã quyết
định "Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các
doanh nghiệp nhà nớc cần cổ phần hóa, kể cả một số công ty
và doanh nghiệp lớn trong các ngành công nghiệp quan trọng.
Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trờng, khắc
phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh
nghiệp".
Đại hội X (tháng 4 năm 2006) xác định:


×