Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA VÀ VẤN ĐỀ VỀ TÀI CHÍNH TRONG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.36 KB, 37 trang )

Thực trạng cổ phần hóa và vấn đề về tài chính trong
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nớc trên địa bàn hà nội
hiện nay
2.1 Tình hình dnNn nớc trên địa bàn Hà nội hiện nay
Thực hiện Chỉ thị số /CT-TTg ngày 28/8/1995 của Thủ tớng Chính phủ và
chơng trình số 18/CTr-TU của Thành ủy Hà nội về sắp xếp lại sản xuất kinh
doanh trên địa bàn Thành phố Hà nội. Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà nội đã chỉ
đạo các Sở, ban, ngành, Quận, huyện và các DNNN của Thành phố triển khai một
cách tích cực, đồng bộ nhằm thực hiện tốt mục tiêu công tác sắp xếp và đổi mới
DNNN. Tính đến tháng 12/1996 có 334 doanh nghiệp nhà nớc đã đăng ký hoạt
động theo Nghị định 388/NĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ),
sáp nhập 37 doanh nghiệp vào 19 doanh nghiệp khác và giải thể 13 doanh nghiệp.
Thực hiện Nghị định số 28/NĐ-TTg của Thủ tớng Chính phủ về chuyển
một số DNNN thành công ty cổ phần, Thành ủy Hà nội đã ra Chỉ thị số 10/CT-
TU. Sau khi có Thông báo số 63/TB-TW ngày 4/4/1997 của Bộ chính trị về tiếp
tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hóa DNNN, Thành ủy có kế hoạch số
20/KH-TU tiếp tục thực hiện chơng trình số 18/CTr-TU. Với sự lãnh đạo kiên
quyết và tập trung của Thành ủy và ủy ban nhân dân Thành phố, các ngành, các
cấp của Thành phố đã triển khai thực hiện tích cực và đồng bộ việc sắp xếp, đổi
mới doanh nghiệp nhà nớc thuộc Thành phố. Kết quả sau 7 năm thực hiện sắp
xếp, đổi mới DNNN, tổng số doanh nghiệp nhà nớc của địa phơng từ 334 doanh
nghiệp giảm xuống đến nay còn 199 doanh nghiệp, giảm 42%. Trong đó số doanh
nghiệp đã cổ phần hóa: 98 doanh nghiệp, hình thức khác 37 doanh nghiệp.
Tính đến thời điểm 1/1/2004 toàn Thành phố có 199 doanh nghiệp nhà nớc
trực thuộc 25 cơ quan là các Sở, ban, ngành, quận, huyện quản lý.
2.1.1 Tình hình tài chính, trình độ kỹ thuật công nghệ và lao động của
các DNNN.
2.1.1.1 Tình hình tài chính của các doanh nghiệp
Theo báo cáo của 196 doanh nghiệp, đến thời điểm 01/01/2004 tình hình tài
chính của DNNN trên địa bàn Hà Nội nh sau:
Tổng số vốn chủ sở hữu của DNNN trên địa bàn là 5.084 tỷ đồng. Bình


quân một DNNN 25,9 tỷ đồng.
Trong tổng số vốn chủ sở hữu thì vốn dùng trong kinh doanh là 4.129 tỷ
đồng, bằng 81,2% chủ sở hữu.
Tổng nguyên giá tài sản cố định của DNNN là 5.673 tỷ đồng, bình quân
nguyên giá tài sản cố định của một doanh nghiệp là 28,9 tỷ đồng. Tổng số giá trị
hao mòn luỹ kế là 1.961 tỷ đồng, bằng 34,5% tổng nguyên giá. Nhìn chung tài
sản cố định của các doanh nghiệp nhà nớc đã cũ và lạc hậu về kỹ thuật, trích khấu
hao chậm.
2.1.1.2 Tình hình sử dụng đất đai
Theo số liệu kiểm kê các doanh nghiệp địa phơng đang quản lý 3.814 ha
đất, bình quân 1 doanh nghiệp quản lý 19,2 ha. Trong đó diện tích đất dùng vào
sản xuất kinh doanh là 3.165 ha, chiếm 83%, diện tích đất cha sử dụng là 46 ha,
diện tích đất cho thuê là 124 ha.
Đất là nguồn tiềm năng rất lớn đang đợc các DNNN quản lý nhng sử dụng
cha có hiệu quả.
2.1.1.3 Trình độ kỹ thuật công nghệ
Qua điều tra, khảo sát ở các DNNN của Hà nội cho thấy ngoài một số ít
công ty có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực
(lắp ráp điện tử, sản xuất sợi, dệt, thi công xây lắp, sản xuất thiết bị đo điện ),
còn lại máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10
20 năm, thậm chí đến 30 năm.
Tỷ lệ thiết bị có trình độ công nghệ từ trung bình tiên tiến trở lên chỉ chiếm
khoảng từ 30 - 35% tổng giá trị tài sản thiết bị của các doanh nghiệp. Các thiết bị
có nguồn gốc từ các nớc Xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô trớc đây chiếm tỷ
lệ 35% (đặc biệt là trong ngành cơ khí giao thông). Giá trị thiết bị trong nớc tự
chế tạo chiếm tỷ lệ gần 20%, số này gồm các máy công cụ, động cơ, phần tự chế
tạo trong các thiết bị toàn bộ .
Số máy móc thiết bị có độ tuổi trung bình từ 10 năm trở lên chiếm tới hơn
45% và dới 5 năm chỉ có 51,7%. Đặc biệt các DNNN địa phơng có tới 33% máy
móc thiết bị ở độ tuổi trên 20 năm.

Về hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị của các DNNN khoảng 80% sử dụng
1ca/ngày; hệ số sử dụng công suất thiết bị đạt từ 30 - 35% (riêng ngành cơ khí chỉ
đạt 20%).
Dây chuyền của phần lớn các DNNN ở Hà nội thiếu đồng bộ, đây cũng
chính là nguyên nhân khiến hệ số sử dụng công suất máy móc thiết bị của các
doanh nghiệp đạt ở mức thấp nhất và làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn trong việc áp dụng hệ thống quản lý chất lợng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Công nghệ lạc hậu với máy, thiết bị cũ đã đẩy giá thành nhiều sản phẩm lên
cao, dù giá nhân công của Việt nam thuộc loại thấp trong khu vực. Một số mặt
hàng nh sắt thép, phân bón, kính xây dựng có mức giá cao hơn hàng nhập cùng
loại từ 20 - 40%, riêng đờng thô còn cao hơn nữa. Từ năm 2001, khi Trung Quốc
đã chính thức gia nhập WTO, thì với tính cạnh tranh thấp, các sản phẩm Việt nam
nói chung, của Hà nội nói riêng cùng loại với hàng của Trung Quốc càng khó
cạnh tranh đợc về giá. Nhà nớc ta cũng đã ký kết Hiệp định về u đãi thuế quan có
hiệu lực chung (CEPT) để thực hiện khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Tuy
vậy, nhiều DNNN vẫn dửng dng với CEPT/AFTA và coi đó là chuyện của Chính
phủ.
Công nghệ lạc hậu, máy móc, thiết bị cũ còn là nguyên nhân gây ô nhiễm
môi trờng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất có nồng độ bụi, tiếng ồn vợt quá mức cho
phép. Các chất thải, đặc biệt là chất thải rắn vẫn đợc thải ra môi trờng, mặc dù cha
qua xử lý đã tác động xấu đến sức khỏe của cộng đồng.
(Nguồn dữ liệu: Cơ chế chính sách đặc thù phát triển Thủ đô Hà nội
NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội, 2003)
2.1.1.4 Tình hình lao động của các DNNN
Theo kết quả điều tra về lao động - việc làm của Sở lao động - thơng binh
và xã hội năm 1999, số ngời lao động trong độ tuổi ở Hà Nội là 1.579.200 ngời.
Trong đó, số ngời hoạt động kinh tế thờng xuyên là 1.197.000 ngời; tỷ lệ thất
nghiệp ở Hà nội là 5,59% (ở khu vực thành thị là 8,96% và khu vực nông thôn là
1,4%). (Nguồn dữ liệu: báo cáo thống kê của Sở LĐTBXH năm 1999)
Tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nớc của Thành phố

Hà Nội đến 31/12/2003 là 83.866 ngời (theo báo cáo của 196 doanh nghiệp), lao
động bình quân của 1 doanh nghiệp là 428 ngời. (Nguồn dữ liệu: Báo cáo tình
hình tài chính năm 2003 của các DNNN trên địa bàn Thành phố Hà nội của
Chi cục TCDN)
Tỷ lệ ngời lao động từ trung cấp trở lên, công nhân kỹ thuật từ bậc 4 trở lên
trong các doanh nghiệp nhà nớc ở Hà nội có xu hớng tăng lên và chiếm tỷ lệ cao
so với các địa phơng khác. Qua khảo sát tại 6 Sở, ngành quản lý nhiều doanh
nghiệp của Hà nội (các Sở, Công nghiệp, Thơng mại, Xây dựng, Du lịch, Giao
thông công chính và Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu tổng hợp Haprosimex)
cho thấy số lao động có tiêu chuẩn nh trên chiếm đến 50% trong tổng số lao động
của các doanh nghiệp nhà nớc do cơ quan này quản lý.
Đối với doanh nghiệp nhà nớc, giải quyết công ăn việc làm cho ngời lao
động là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng. Mặc dù phải đối mặt với
cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế khác nhau, nhng ngời lao
động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nớc vẫn có xu hớng tăng lên do doanh
nghiệp mở rộng qui mô sản xuất, mở rộng mặt hàng trên cơ sở đổi mới công nghệ,
thiết bị. Lao động năm 1996 tăng so với năm 1995 là 3,3% . Năm 1997 tăng so
với năm 1996 là 6,5%. Năm 1999 tăng so với năm 1998 là 13%, năm 2000 tăng
so với năm 1999 là 18% và năm 2003 tăng so với năm 2002 là 20%.
Cơ cấu doanh nghiệp theo qui mô lao động nh sau: doanh nghiệp của
Thành phố Hà nội có 3% doanh nghiệp có trên 1.000 lao động; 6,9% doanh
nghiệp có từ 500 - 1.000 lao động; 14,1% có từ 300 - 500 lao động; 37% có từ
100 - 300 lao động và 39% dới 100 lao động (nguồn dữ liệu: báo cáo về tình
hình lao động của Hà nội - Cục thống kê Hà Nội).
2.1.2 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
2.1.2.1 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Từ năm 1995 - 2003, tuy số lợng DNNN trên địa bàn giảm dần (từ 334
doanh nghiệp đến nay chỉ còn 199 doanh nghiệp) nhng doanh thu của các DNNN
trên địa bàn lại tăng dần qua các năm:
Bảng 1 : Doanh thu đạt đợc của các DNNN của Thành phố Hà nội

qua các năm (1995 - 2003)
Đơn vị tính : tỷ đồng
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Doanh thu 5.858 6.264 6.416 6.858 7.677 8.158 10.062 13.336 14.118
(Nguồn dữ liệu: Báo cáo tình hình tài chính của DNNN trên địa bàn Thành phố
Hà nội qua các năm của Chi cục TCDN)
Các doanh nghiệp nhà nớc của Thành phố Hà Nội có nhiều cố gắng trong
đầu t, đổi mới thiết bị, nâng cao chất lợng sản phẩm, chất lợng dịch vụ, không
ngừng cải tiến mẫu mã, sản phẩm hàng hoá nên đã dần khôi phục lại thị trờng
truyền thống trong nớc cũng nh xuất khẩu. Vì thế doanh thu tăng dần qua các
năm, cụ thể: doanh thu bình quân năm 1995 là 5,8 tỷ đồng thì đến năm 1998 là
6,8 tỷ đồng và năm 2003 là 14 tỷ đồng.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nớc cũng
giảm từ năm 1995 đến 1998 và lại có xu hớng tăng trong năm 1999 và 2000. Cụ
thể; năm 1995, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh là 0,105 năm 1998 là 0,093;
năm 1999 là 0,096; năm 2000 là 0,11; năm 2001 là 0,073; năm 2002 là 0,11 và
năm 2003 là 0,12.
Tổng số nộp ngân sách của các doanh nghiệp địa phơng trên địa bàn vẫn
tăng hàng năm: Năm 1995 là 5.806 tỷ đồng; Năm 1997 là 6.828 tỷ đồng; Năm
1998 là 7.758 tỷ đồng; Năm 1999 là 11.101 tỷ đồng; Năm 2002 là 17,150 tỷ đồng;
năm 2003 là 20.185 tỷ đồng.
2.1.2.2 Tình hình công nợ và thanh toán
Việc thanh toán công nợ dây da trong các DNNN trên địa bàn còn nhiều
tồn tại. Các khoản công nợ phải thu và phải trả còn lớn, đặc biệt là khả năng thanh
toán thấp, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi trong các DNNN chiếm tỷ lệ không nhỏ
đang là khó khăn cho các DNNN trên địa bàn.
+ Về nợ phải thu: Năm 1995, tổng số nợ phải thu của các doanh nghiệp
trên địa bàn là 9.105 tỷ đồng, bằng 74% tổng số vốn nhà nớc; năm 1996 là 10,457
tỷ, bằng 75% vốn nhà nớc; năm 1999 là 30.999 tỷ đồng, bằng 98% tổng số vốn
nhà nớc; năm 2002 là 41,983 tỷ đồng, bằng 87% tổng số vốn nhà nớc; năm 2003

là 40.125 tỷ đồng, bằng 80% vốn nhà nớc.
+ Về nợ phải trả: Năm 1999 tổng số nợ phải trả của các doanh nghiệp là
2.653 tỷ đồng bằng 98% vốn nhà nớc; năm 2000 là 3.599 tỷ đồng, bằng 124%
vốn nhà nớc; năm 2001 là 4.573 tỷ đồng, bằng 147% vốn nhà nớc; năm 2002 là
3.708 tỷ đồng, bằng 106% vốn nhà nớc và năm 2003 là 9.150, bằng 221%.
Tình hình trên chứng tỏ các doanh nghiệp nhà nớc do thiếu vốn phải đi vay
và chiếm dụng của khách hàng khá lớn và ngày càng tăng lên. Một số doanh
nghiệp do việc tiêu thụ hàng hoá chậm và phải chấp nhận bán chịu cho khách
hàng nên công nợ phải thu, phải trả cũng tăng lên; Một số doanh nghiệp xây dựng
cơ bản, khâu thanh toán chậm của các chủ công trình nên cũng có công nợ phải
thu tăng. Đến 31/12/2003 tổng số nợ phải thu khó đòi của các doanh nghiệp nhà
nớc trên địa bàn là 50,716 tỷ đồng. Các doanh nghiệp có số nợ phải thu khó đòi t-
ơng đối lớn là: Công ty Thơng mại và đầu t (Unmex Hà Nội) là 6,1 tỷ đồng.
Tổng số nợ phải trả không có khả năng thanh toán đến 31/12/2003 của các
doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn là 50.774 tỷ đồng, điển hình là Cửa hàng lơng
thực 60 Ngô Thì Nhậm có khoản nợ phải trả không có khả năng thanh toán là
8,108 tỷ đồng.
Nhìn chung, các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn ít nhiều đều có tình
hình tài chính không lành mạnh, tức là đều có những khoản công nợ khó đòi,
không có đối tợng, các khoản chi phí không có đối tợng để phân bổ, các khoản
đầu t liên doanh liên kết kém hiệu quả không thu hồi đợc vốn, các khoản vật t
hàng hoá, tài sản kém, mất phẩm chất cha xử lý đợc Những khoản làm cho hạch
toán của các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn bị méo mó và dẫn đến báo cáo tài
chính của nhiều doanh nghiệp có độ tin cậy kém.
(Nguồn dữ liệu: Báo cáo tình hình tài chính của các DNNN trên địa bàn
Thành phố Hà nội - Chi cục TCDN Hà nội)
2.1.3 Đánh giá chung về doanh nghiệp nhà nớc Hà nội
Những thành tựu:
Hà nội là Thủ đô của cả nớc, Hà nội cũng là đầu mối giao thông đờng sắt,
đờng bộ, đờng hàng không quan trọng nhất, thuận tiện nhất ở khu vực phía Bắc.

Do vậy, Hà nội là nơi hội tụ đầy đủ các loại hình doanh nghiệp trong cả nớc. Hầu
hết các Tổng công ty và các doanh nghiệp mạnh đều đóng trụ sở chính hoặc chi
nhánh tại đây. Qua số liệu và phân tích ở trên có thể thấy một số vai trò chủ yếu
của các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn Hà nội nh sau:
- Các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn Hà nội sản xuất, cung ứng hầu hết
các sản phẩm thiết yếu phục vụ cho nhu cầu của nhân dân Thủ đô và các vùng phụ
cận. Nhiều sản phẩm đã và đang mở rộng thị trờng ra khắp đất nớc và xuất khẩu
sang nhiều nớc trên thế giới. Ví dụ nh sản phẩm dệt may, sản phẩm điện, điện tử,
sản phẩm cơ khí, sản phẩm công nghiệp chế biến, dịch vụ bu chính viễn thông,
hàng không, ngân hàng, tài chính
- Các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn chiếm tỷ trọng cao trong GDP:
năm 1995 chiếm 70,6%; năm 1998 chiếm 57,4%; năm 1999 chiếm 57,2% và năm
2000 là 59%.
- Các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn Hà nội chiếm tỷ trọng cao trong
nguồn thu ngân sách trên địa bàn. Năm 1996 chiếm 62,1%; năm 1997 chiếm
54,3%; năm 1999 chiếm 54,6%; năm 2002 chiếm 53% (tỷ trọng trên chỉ là so
sánh với số thu nộp của các doanh nghiệp nhà nớc tại Hà nội. Nếu tính cả các
doanh nghiệp nhà nớc ở địa phơng khác thì lớn hơn nhiều).
- Các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn Hà nội chiếm tỷ trọng cao trong
thơng mại buôn bán trên địa bàn. Năm 1999 thơng nghiệp nhà nớc chiếm tỷ trọng
80% trong bán buôn (trong khi thành phần kinh tế ngoài nhà nớc chiếm tỷ trọng
73% trong tổng mức bán lẻ).
- Trong lĩnh vực xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp nhà
nớc trên địa bàn luôn chiếm tỷ lệ cao; năm 1995 chiếm 78,3%; năm 1998 chiếm
85,9%; năm 1999 chiếm 85,4%; năm 2001 đạt 87% và năm 2002 đạt 89,7%.
Điều đó cũng phù hợp với việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế trên địa bàn
và các doanh nghiệp nhà nớc dần dần không cần tham gia sản xuất ở một số
ngành sản phẩm không trọng yếu mà nhờng lại cho các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đảm nhiệm.
- Các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn thành phố Hà Nội tạo việc làm ổn

định cho nhiều lao động của Thủ đô (hơn 300 nghìn lao động), góp phần ổn định
đời sống kinh tế - xã hội của Thủ đô. Đồng thời, còn là nơi đào tạo bổ sung cho
ngời lao động về kỹ năng thực hành, kinh nghiệm thực tiễn là những sản phẩm
vô cùng quan trọng và thiết thực đối với ngời lao động trong cơ chế thị trờng trong
khi hệ thống đào tạo và dạy nghề của ta cha làm đợc.
- Các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn Hà nội nắm giữ vai trò chủ đạo
trong các lĩnh vực công nghiệp, giao thông, xây dựng, xuất nhập khẩu nên tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế phi Nhà nớc phát triển. Đặc biệt là đối với
sản phẩm thủ công của các làng nghề, các hợp tác xã, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ không có tiềm lực và trình độ quan hệ với đối tác quốc tế hoặc không có điều
kiện đầu t lớn và hiện đại. Do đó, các doanh nghiệp nhà nớc hoạt động trong lĩnh
vực xuất nhập khẩu là nơi đảm bảo đầu ra, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập
cho khu vực kinh tế này.
- Nhiều doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn có vai trò rất lớn trong việc ổn
định tình hình kinh tế - xã hội của Thủ đô, góp phần giải quyết các cân đối lớn
trên địa bàn, tham gia vào các hoạt động xã hội nh: xoá đói giảm nghèo, giúp
đồng bào gặp thiên tai, giúp đỡ các gia đình, đối tợng chính sách.
- Các doanh nghiệp nhà nớc hoạt động công ích làm những công việc mà
các thành phần kinh tế khác cha thể có điều kiện tham gia do mức đầu t ban đầu
quá lớn hoặc không tạo ra lợi nhuận nh các Công ty Cấp thoát nớc, Công ty Vệ
sinh môi trờng đô thị, Công ty Chiếu sáng và thiết bị đô thị, Công ty Công viên
cây xanh, Hãng phim hoạt hình, Hãng phim tài liệu thời sự
Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
* Những hạn chế, yếu kém:
Những kết quả đạt đợc trên đây của các DNNN tuy có ý nghĩa rất quan
trọng nhng cha tơng xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có của các doanh nghiệp
nhà nớc trên địa bàn. DNNN còn nhiều hạn chế, yếu kém cơ bản sau:
- Số lợng DNNN trên địa bàn nhiều, dàn trải, phần lớn có quy mô vừa và
nhỏ; có 53,06% số doanh nghiệp có quy mô vốn nhà nớc từ 1 tỷ đến 10 tỷ đồng,
11,8% số doanh nghiệp có qui mô có số vốn nhà nớc dới 1 tỷ đồng. Hơn nữa, các

DNNN trên địa bàn Hà Nội đang trực thuộc của 25 sở, ban, ngành ở 14 ngành
kinh tế kỹ thuật. Các DNNN trên địa bàn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ,
ngành nghề kinh doanh; do đó bị phân tán, manh mún và dẫn đến cạnh tranh nhau
không cần thiết.
- Tốc độ tăng trởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN trên
địa bàn cha cao, có xu hớng giảm sút và đến năm 1999 - 2002 mới có chiều hớng
tăng trởng trở lại.
Tốc độ tăng trởng của doanh nghiệp nhà nớc từ năm 1995 - 1999 giảm dần
(thể hiện trong các chỉ tiêu GDP, giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu).
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN cha tơng xứng với đầu t của
Nhà nớc.
Hiện nay, các DNNN trên địa bàn đang nắm giữa đại đa số nguồn nhân lực
nh : tài sản, đất đai, tài nguyên, lao động, vị trí thuận lợi, đào tạo nguồn nhân
lực Đây chính là những nguồn tiềm năng rất lớn mà các DNNN ch a khai thác
tốt.
Nhìn chung, hiệu quả kinh doanh của các DNNN trên địa bàn Thành phố
cha cao. Một bộ phận đáng kể còn thua lỗ hoặc không có lãi, nhiều doanh nghiệp
kể cả một số doanh nghiệp lớn cha bảo toàn đợc vốn, còn phải giảm khấu hao, vật
t hàng hoá tồn kho ứ đọng, kém phẩm chất, công nợ cha thu hồi đợc
Vốn nhà nớc trong các DNNN hàng năm vẫn tăng nhng tỷ suất lợi nhuận
trên vốn nhà nớc từ năm 1995 - 1998 giảm xuống, năm 1999 chững lại và đến
năm 2000 tăng trở lại.
- Phần lớn thiết bị, công nghệ của các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn
thiếu đồng bộ, lạc hậu từ 20 - 40 năm, song nhiều doanh nghiệp không đủ tiềm
lực để đầu t. Các DNNN đầu t mở rộng là chủ yếu, rất ít doanh nghiệp đầu t chiều
sâu mạnh để tạo ra sản phẩm mới có chất lợng cao, đủ sức cạnh tranh với các sản
phẩm ngoại nhập. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn
Hà nội còn thấp so với doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài do thiếu vốn để thực
hiện đổi mới công nghệ, thiết bị, đào tạo và đào tạo lại lực lợng lao động. Thiếu
vốn là tình trạng phổ biến của các doanh ngiệp nhà nớc, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm

khoảng 49 - 50%, số còn lại chủ yếu là đi vay ngân hàng hoặc huy động từ các
nguồn khác; có doanh nghiệp vốn vay chiếm tới 90%.
- Lao động thiếu việc làm và dôi d đang là khó khăn lớn của các DNNN
trên địa bàn.
Số lao động chờ việc ở các DNNN trên địa bàn Hà Nội chiếm 5%, phần lớn
ngời lao động không qua đào tạo hoặc đào tạo lại nên đã ảnh hởng nghiêm trọng
đến năng suất lao động của các doanh nghiệp. Đây cũng là nguyên nhân làm cản
trở tiến trình đổi mới công nghệ của các DNNN hiện nay.
- Đội ngũ giám đốc, kế toán trởng ở nhiều DNNN cha đáp ứng đợc yêu cầu
của cơ chế thị trờng. Nhiều ngời còn đơn thuần là cán bộ chính trị, còn nhiều tr-
ờng hợp Sống lâu lên lão làng, do đó thiếu tính chuyên nghiệp cao để thực hiện
vai trò quản lý doanh nghiệp nhà nớc rất nặng nề trong cơ chế thị trờng. Cơ chế
quản lý DNNN hiện nay cha phát huy đợc tính tự chủ, năng động, sáng tạo cũng
nh tôn vinh, động viên kịp thời và xứng đáng cho Giám đốc DNNN.
- Cơ chế quản lý DNNN còn nhiều hạn chế trong hạch toán giá thành, phân
phối lợi nhuận, thanh lý tài sản, xử lý công nợ, chính sách thuế. Tổ chức hệ thống
quản lý DNNN hiện nay cha phù hợp, thay đổi liên tục, cha xây dựng đợc một hệ
thống giám sát ổn định và khoa học để giúp cho công tác quản lý DNNN đợc ổn
định.

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên:
Những hạn chế, yếu kém của DNNN có nguyên nhân khách quan, nhng
chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan sau đây:
- Cha có sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế nhà
nớc và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả DNNN, nhiều vấn đề cha rõ, còn ý kiến khác nhau nhng cha đợc tổng
kết thực tiễn để kết luận.
- Quản lý nhà nớc đối với DNNN còn nhiều yếu kém, vớng mắc, cải cách
hành chính chậm.
- Cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, cha đồng bộ, còn nhiều điểm cha

phù hợp với kinh tế thị trờng định hớng Xã hội chủ nghĩa, cha tạo đợc động lực
mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và ngời lao động trong doanh nghiệp nâng cao năng
suất lao động và hiệu quả kinh tế; một bộ phận cán bộ DNNN cha đáp ứng yêu
cầu về năng lực và phẩm chất.
- Sự lãnh đạo của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ (đối với toàn quốc) và
lãnh đạo của Thành uỷ và chỉ đạo của các Bộ, ngành trung ơng, Uỷ ban Nhân dân
thành phố Hà Nội đối với việc đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN cha tơng
xứng với nhiệm vụ quan trọng và phức tạp này.
- Tổ chức và phơng thức hoạt động của Đảng tại DNNN chậm đợc đổi mới.
2.2 Quá trình triển khai cổ phần hóa DNNN trên địa bàn HN
2.2.1 Kết quả thực hiện cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội từ năm
1998 - nay
Tính đến nay Thành phố Hà nội đã cổ phần hóa đợc 98 DNNN.
Theo số liệu tổng hợp về vốn của 98 doanh nghiệp Nhà nớc đã có phần hóa
có 1 số tình hình sau:
1/ Về huy động vốn:
Trớc khi cổ phần hóa các DNNN do Thành phố Hà nội thành lập phần lớn
có quy mô vừa và nhỏ, thậm trí rất nhỏ. Doanh nghiệp thiếu mạnh dạn đầu t để
phát triển, tài sản đầu t chắp vá, lạc hậu. Doanh nghiệp thiếu vốn hoạt động trầm
trọng. Sản phẩm hàng hóa sản xuất ra sức cạnh tranh kém. Bên cạnh đó nhiều tồn
tại về tài chính và tài sản của doanh nghiệp cha có giải pháp xử lý dứt điểm trở
thành gánh nặng của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng,
hiệu quả kém, ngời lao động thiếu việc làm, thu nhập thấp nhng vẫn phải đeo bám
doanh nghiệp.
Sau cổ phần hóa, vốn hoạt động của các doanh nghiệp đều tăng. Bình quân
vốn doanh nghiệp trớc khi cổ phần hóa là 2,12 tỷ đồng/doanh nghiệp, có 30%
doanh nghiệp có vốn nhà nớc dới 1 tỷ đồng. Sau khi cổ phần hóa, bình quân vốn
đạt gần 4,6 tỷ đồng/doanh nghiệp, tăng gấp 2,2 lần. Một số doanh nghiệp sau khi
thực hiện cổ phần hóa có quy mô vốn tăng lớn nh: Công ty cổ phần Thành công
tăng từ 5,7 tỷ lên 15 tỷ đồng; Công ty cổ phần Việt Hà từ 4,5 tỷ lên 10 tỷ đồng;

Công ty cổ phần Kính mắt Hà nội từ 3,1 tỷ lên 12,6 tỷ đồng . Nhờ huy động vốn
bằng cách phát hành cổ phiếu các Công ty cổ phần đã có vốn để đầu t mở rộng
sản xuất kinh doanh.
Quá trình cổ phần hóa đã huy động đợc 351,4 tỷ đồng vốn trong dân c,
chiếm 78% vốn điều lệ. Số lao động trong doanh nghiệp trở thành cổ đông trong
các công ty cổ phần là 9.809 ngời, số cổ đông ngoài doanh nghiệp trên 600 ngời.
2/ Sau cổ phần hóa đại bộ phận ngời lao động trong doanh nghiệp trở thành
cổ đông, hầu hết thành viên Hội đồng quản trị và bộ máy điều hành là những ngời
có cổ phần lớn, gắn chặt với quyền lợi của doanh nghiệp, làm cho phơng thức
quản lý thay đổi sâu sắc. Để nâng cao hiệu quả hoạt động và có lợi tức chia cho
các cổ đông, Tiết kiệm đã trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với các công ty
cổ phần.
Các doanh nghiệp cổ phần đã thực hiện nhiều biện pháp tiết kiệm: từ chi
phí trực tiếp đến chi phí gián tiếp, chi phí quản lý điều hành; từ chi phí sản xuất
kinh doanh đến chi phí đầu t xây dựng cơ bản. Song song với biện pháp tiết kiệm,
doanh nghiệp áp dụng nhiều biện pháp để đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, hàng hóa
Các công ty cổ phần đã rà soát và xây dựng lại quy chế tài chính và lao
động, xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn, nghĩa vụ và quyền lợi; quy định th-
ởng phạt phân minh; tinh giảm bộ máy gián tiếp, tổ chức hợp lý các bộ phận sản
xuất kinh doanh. Bố trí lại lao động cho phù hợp với yêu cầu công việc và trình độ
năng lực của từng ngời. Do đó năng suất lao động chất lợng sản phẩm tăng lên rõ
rệt, các chi phí bất hợp lý về tiền lơng, tiền thởng trớc kia đợc khắc phục.
3/ Hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Sau khi chuyển sang công ty cổ phần, hầu hết các doanh nghiệp đều có
mức doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách cao hơn khi còn là doanh nghiệp nhà
nớc (tăng bình quân khoảng 15-20%), có một số doanh nghiệp cổ phần có mức độ
tăng khá cao: công ty cổ phần Đầu t xây dựng Ba đình, công ty cổ phần Việt hà,
công ty cổ phần Dệt 10/10 .
Việclàm của ngời lao động đợc đảm bảo, tiền thởng, thu nhập bình quân

cao hơn. Ngoài tiền lơng, ngời lao động là cổ đông còn đợc hởng cổ tức với mức
bình quân trên 10%/năm, cá biệt có những công ty cổ phần có mức cổ tức khá cao
nh: công ty cổ phần Dịch vụ thơng mại công nghiệp 30%, công ty cổ phần Thành
công 24%, công ty cổ phần Đầu t xây dựng Ba đình 22%, công ty cổ phần Dệt
10/10 là 15% .
4/ Giải quyết lao động, việc làm:
Trớc cổ phần hóa các doanh nghiệp ít đầu t mới, đầu t bổ sung, vẫn sử dụng
công nghệ thiết bị lạc hậu, lao động thủ công, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp,
nên không có điều kiện để tuyển dụng thêm lao động, đào tạo nâng cao trình độ
nghề nghiệp cho ngời lao động.
Mặt khác, do sản xuất kinh doanh không phát triển, ngời lao động thiếu
việc làm, ngày công, giờ công thấp, thậm chí phải nghỉ chờ việc không lơng,
không đóng bảo hiểm xã hội, nhng vẫn phải đeo bám doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
doanh thu của một số doanh nghiệp nhỏ, hiệu quả thấp vẫn cố giữ mức chi lơng,
chi thởng, chi phúc lợi quá mức cho phép dẫn đến mất cân đối về tài chính.
Khi thực hiện cổ phần hóa, theo chính sách của Nhà nớc các doanh nghiệp
có nguồn tài chính để xử lý lao động dôi d và tổ chức đào tạo lại ngời lao động.
Tính đến 31/12/2003 Thành phố đã giải quyết đợc chế độ cho trên 1.000
lao động với tổng số tiền trên 20 tỷ đồng.
Dự kiến đào tạo và đào tạo lại gần 4.000 ngời với kinh phí 8,5 tỷ đồng. Đến
nay Thành phố thực hiện cấp kinh phí đào tạo lại là 4,5 tỷ đồng. Thông qua đào
tạo, chất lợng lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa đã đợc nâng cao.
Các doanh nghiệp cổ phần hóa đã có quy chế rõ ràng về nghĩa vụ và quyền
lợi của ngời lao động, gắn tiền lơng và thu nhập với chất lợng công việc. Do vậy
đã nâng cao đợc NSLĐ và thu nhập của ngời lao động.
Đại bộ phận ngời lao động trong các công ty cổ phần là các cổ đông, đợc
mua cổ phần với giá u đãi (giảm giá 30%). Tổng mức giảm giá là trên 40 tỷ đồng.
Bình quân mỗi năm công tác ngời lao động đợc mua gần 8 cổ phiếu u đãi.
(Nguồn dữ liệu: Báo cáo tổng hợp tình hình cổ phần hóa DNNN của
Thành phố Hà nội đến 31/12/2003 - Chi cục TCDN Hà nội)

2.2.2 Nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn
Hà nội
a, Về khách quan: môi trờng kinh tế còn khó khăn do ảnh hởng của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực. Khả năng thanh toán trong dân c
thấp, giá cả giảm xuống, thị trờng thu hẹp dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp, kém
hấp dẫn đối với ngời mua cổ phần.
Phần lớn các doanh nghiệp đợc thành lập từ trớc với quy mô vốn thấp, kỹ
thuật công nghệ lạc hậu, sản phẩm kém tính cạnh tranh.
b, Về chủ quan:
Một số Sở, ngành chủ quản cha tập trung chỉ đạo nghiêm túc và sát sao
công tác sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp theo chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân
Thành phố nh: chậm chỉ đạo thành lập và đề nghị Uỷ ban nhân dân Thành phố phê
duyệt Ban Đổi mới quản lý tại doanh nghiệp.
Lãnh đạo nhiều doanh nghiệp cha nhận thức đầy đủ và tập trung chỉ đạo cổ
phần hóa; một số giám đốc lo ngại cổ phần hóa sẽ làm cho họ mất cơng vị gắn
liền với những quyền lợi về mặt vật chất và tinh thần; một bộ phận ngời lao động
cha hiểu rõ những vấn đề liên quan đến công ty cổ phần, e ngại mất việc làm hoặc
giảm thu nhập. ở các doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, cán bộ, công nhân viên
không muốn có sự xáo động; ở các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong SXKD
lại nảy sinh t tởng cho rằng chuyển sang công ty cổ phần, sự trợ giúp của Nhà nớc
không còn, công ty khó có thể vợt qua đợc khó khăn.
Vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hóa doanh
nghiệp gặp không ít khó khăn làm kéo dài thời gian cổ phần hóa thậm chí có
doanh nghiệp phát sinh những vấn đề không thể cổ phần hóa đợc. Có nhiều ý kiến
khác nhau về việc có tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị tài sản không.
2.3 Thực trạng về vấn đề tài chính trong quá trình cổ phần
hóa DNNN trên địa bàn Hà nội
2.3.1 Thực trạng xử lý nợ
Trong quá trình sắp xếp lại, thực hiện cổ phần hoá và đa dạng hóa các hình
thức sở hữu đối với DNNN, các khoản nợ của doanh nghiệp hiện đang là một trở

ngại lớn, gây khó khăn, ách tắc, làm chậm trễ tiến trình này. Do vậy, việc xử lý
công nợ của doanh nghiệp phải đợc đặt ra nh là điều kiện, yêu cầu cấp thiết để
thúc đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, cơ cấu lại, cổ phần hoá và đa dạng hóa các hình
thức sở hữu đối với DNNN.
Theo báo cáo của các doanh nghiệp của Thành phố Hà nội công nợ phải thu
khó đòi qua các năm là: năm 1999: 36.635 triệu đồng, năm 2000: 36.169 triệu
đồng, năm 2001: 34.831 triệu đồng, năm 2002: 37.017 triệu đồng và năm 2003 là
50.716 triệu đồng. Các khoản nợ này chủ yếu là nợ phải thu khách hàng về tiền
bán hàng, dịch vụ, tiền thi công các công trình xây lắp, thu thủy lợi phí từ nhiều
năm trớc nhng không thu đợc. Đồng thời còn có các khoản tạm ứng nhng không
thu hồi đợc, các khoản cho vay, ứng vốn thi công nh ng không thanh quyết toán,
thu hồi công nợ. Nợ phải thu khó đòi là tồn tại về tài chính của doanh nghiệp nhng
ảnh hởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, gây nên tình trạng lãi giả, lỗ thật,
làm mất vốn Nhà nớc. Các khoản nợ phải thu khó đòi của doanh nghiệp ngày
càng tăng mà hầu nh các doanh nghiệp không có hớng xử lý hoặc có đề ra hớng
xử lý nhng không có khả năng về tài chính để xử lý các khoản nợ này.
Bên cạnh nợ phải thu khó đòi, các doanh nghiệp có khoản công nợ phải trả
nhng không có khả năng thanh toán qua từng năm rất lớn: năm 1999: 41.075 triệu
đồng, năm 2000: 43.768 triệu đồng, năm 2003 là 50.774 triệu đồng. Các khoản nợ
phải trả này phần lớn là nợ ngân hàng, nợ ngân sách nhà nớc nhng không có
nguồn để trả do kinh doanh thua lỗ, đầu t kém hiệu quả không thu hồi đợc vốn.
Các doanh nghiệp này rơi vào tình trạng tình hình tài chính mất cân đối, nợ vay
ngân hàng đã chuyển sang nợ quá hạn, không có khả năng thanh toán cả gốc và
lãi, lãi mẹ phát sinh lãi con, số nợ không có khả năng thanh toán ngày càng tăng.
Từ thực trạng của các doanh nghiệp cho thấy cần phải nghiên cứu có cơ chế
xử lý nợ phù hợp hơn.
Theo điều 10 và 11 Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định:
Đối với các khoản nợ phải thu:
Doanh nghiệp có trách nhiệm đối chiếu, xác nhận, thu hồi và xử lý các
khoản nợ phải thu trớc khi cổ phần hoá theo cơ chế hiện hành. Trờng hợp đến thời

điểm cổ phần hoá còn tồn đọng nợ phải thu khó đòi thì xử lý nh sau:
Đối với các khoản nợ đã có đủ chứng cứ là không có khả năng thu hồi,
không xác định đợc trách nhiệm cá nhân, tổ chức thì dùng nguồn dự phòng để bù
đắp, nếu thiếu thì phần chênh lệch đợc trừ vào kết quả kinh doanh, giảm lãi tại
thời điểm cổ phần hoá. Trờng hợp các nguồn trên không đủ bủ thù phần chênh
lệch đợc trừ vào phần vốn nhà nớc tại doanh nghiệp trớc khi cổ phần hoá.
Đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi do nguyên nhân chủ quan
và đã quy đợc trách nhiệm thì xử lý trách nhiệm cá nhân, tổ chức để bồi thờn.
Phần tổn thất sau khi đã trừ phần thu hồi đợc xử lý nh quy định tại ý 1 điều này.
Đối với những khoản nợ phải thu đã quá hạn thanh toán từ 3 năm trở lên,
con nợ đang tồn tại nhng không còn khả năng trả nợ, doanh nghiệp đã áp dụng
nhiều giải pháp nhng vẫn không thu hồi đợc thì xử lý nh quy định tại ý 1 điều này.

×