Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LUẬN văn tốt NGHIỆP KINH tế CHÍNH TRỊ kết hợp PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội với TĂNG CƯỜNG CỦNG cố QUỐC PHÒNG AN NINH ở KHU vực BIỆN GIỚI MIỀN tây NGHỆ AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.98 KB, 105 trang )

MỤC LỤC
Trang


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

KT – XH
QP, AN
KVPT
QSQP
LLVT
QPTD
ANND

Kinh tế - xã hội
Quốc phòng, an ninh
Khu vực phòng thủ
Quân sự, quốc phòng
Lực lượng vũ trang
Quốc phòng toàn dân
An ninh nhân dân


Lược đồ Tỉnh Nghệ An


A. MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Lịch sử đã chứng minh rằng dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật tồn
tại và phát triển của dân tộc ta. Ngày nay, tuy nhân dân ta đang xây dựng đất nước


trong hòa bình, nhưng các thế lực thù địch vẫn luôn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn
tinh vi để phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta. Do đó để
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tất yếu
phải kết hợp giữa phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh.
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh ở nước ta là hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong việc
gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh trong một chỉnh thể
thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng
phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng
lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định, để thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, chúng ta phải kết hợp phát triển kinh tế- xã
hội với tăng cường củng cố quốc phòng , an ninh trong một chỉnh thể thống nhất.
Đây là quan điểm hoàn toàn đúng đắn và sang tạo bởi kinh tế, quốc phòng, an ninh
là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc độc lập, có chủ quyền.
Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng và chịu sự chi phối của hệ
thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến quốc phòng, an ninh;
ngược lại, quốc phòng, an ninh cũng có tác động tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ
và tạo điều kiện để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thực hiện quan điểm này của Đảng ở khu vực biên giới miền Tây Nghệ An
chúng ta thấy được rằng, miền Tây Nghệ An là một vùng giàu tiềm năng, có vị trí
địa lý, chính trị, an ninh, quốc phòng quan trọng. Miền Tây Nghệ An gồm 10 huyện
và một thị xã; diện tích tự nhiên là 13.709 km2, có 7 tộc người anh em sinh sống.
4


Miền Tây Nghệ An có 419 km đường biên giới đi qua 5 huyện đó là Thanh Chương,

Kỳ Sơn, Tương Dương, Anh Sơn và Con Cuông với 4 cửa khẩu giao thương với
nước bạn Lào do đó đây là vùng có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng trong phát
triển kinh tế- xã hội cũng như xây dựng quốc phòng, an ninh. Có thể nói rằng Nghệ
An trong giai đoạn hiện nay mốn phát triển về kinh tế và vững mạnh về quốc
phòng, an ninh khi và chỉ khi giải quyết tốt bài toán kết hợp giữa xây dựng và phát
triển kinh tế- xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh ở miền Tây Nghệ An mà
cụ thể hơn chính là khu vực biện giới miền Tây Nghệ An.
Vậy để giải quyết tốt bài toán đó thì cần phải tập trung vào những nội dung
cụ thể nào? Là sinh viên khoa Giáo dục quốc phòng- trường Đại học Vinh, được
học tập và nghiên cứu về chuyên ngành QP,AN tôi hiểu được ý nghĩa và tầm quan
trọng của việc phát triển kinh tế - xã hội với củng cố QP, AN trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặcbiệt là ở khu vực biên giới, hải đảo. Từ những kiến
thức đã được học, tôi mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: Kết hợp phát triển tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới miền
Tây Nghệ An.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
Việc nghiên cứu đề tài này là nhằm mục đích tìm hiểu về thực trạng phát
triển kinh tế- xã hội và quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới miền Tây Nghệ An,
đánh giá nguyên nhân và những kết quả đã đạt được từ đó rút ra những nội dung
trọng tâm cần phải thực hiện trong việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới miền Tây Nghệ An. Đồng
thời đề xuất những giải pháp thiết thực để thực hiện tốt những nội dung đó để tăng
cường sức mạnh tổng hợp cho khu vực này để xây dựng khu vực biên giới miền
Tây Nghệ An ngày càng vững mạnh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Với đề tài này thì đối tượng nghiên cứu là nội dung của việc kết hợp phát
triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ở khu vực biên
giới miền Tây Nghệ An hiện nay
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu về những nội dung


5


liên quan đến việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với quốc phòng, an ninh ở khu
vực biên giới miền Tây Nghệ An, cụ thể là bao gồm các huyện: Thanh Chương,
Tương Dương, Anh Sơn, Con Cuông, Kỳ Sơn.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, tình hình khu vực biên giới miền Tây Nghệ
An, cũng như tìm hiểu về thực trạng và những kết quả đã đạt được trong việc kết
hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ở khu
vực này trong thời gian qua. Với đề tài này, em muốn rút ra được những nội dung
cơ bản đối với việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh ở khu vực này. Đồng thời đưa ra những giải pháp thiết thực góp
phần thực hiện tốt những nội dung đó. Và cũng thông qua đề tài này, em muốn mọi
người thấy được ý nghĩa quan trọng và sự cần thiết của việc kết hợp phát triển kinh
tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới miền
Tây Nghệ An, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay để từ đó quan tâm, chú trọng vào
giải quyết tốt vấn đề này.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
Để thực hiện đề tài này, em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu chung là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương
pháp cụ thể khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tế, phương
pháp logic lịch sử dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.
Vùng biên giới miền Tây Nghệ An nói chung và đặc biệt là khu vực biên giới
miền Tây Nghệ An nói riêng là vùng có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ với
tỉnh Nghệ An mà còn đối với cả nước. Sự phát triển cùa miền Tây Nghệ An có ý
nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển chung của toàn tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, ở
đây còn gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế- xã hội và vấn đề bảo đảm
quốc phòng, an ninh, đặc biệt đây lại là một vùng núi, biên giới, có nhiều vấn đề an

ninh, xã hội phức tạp. Do đó việc phát triển kinh tế- xã hội và tăng cường củng cố
quốc phòng, an ninh ở khu vực này là yêu cầu hết sức cấp thiết và cần phải được
đặc biệt chú trọng giải quyết.
Với kết quả nghiên cứu của đề tài, một lần nữa em muốn khẳng định thêm về

6


ý nghĩa quan trọng và tính đúng đắn của việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn
với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Từ thực tiễn nghiên cứu em đã rút ra
được những nội dung cơ bản và cụ thể cần phải làm để thực hiện tốt việc kết hợp
phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ở khu vực
biên giới miền Tây Nghệ An. Đồng thời đề xuất được những giải pháp thiết thực để
thực hiện tốt những nội dung đó. Do vậy, đây sẽ là tài liệu để các cơ quan lãnh đạo
thuộc khu vực này có thể nghiên cứu, tham khảo để giải quyết những khó khăn và
hạn chế còn gặp phải khi thực hiện vấn đề này góp phần thực hiện tốt hơn và thật sự
tạo được sức mạnh tổng hợp để đẩy mạnh phát triển khu vực biên giới miền Tây
Nghệ An nói riêng và tỉnh Nghệ An nói riêng.
7. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì nội dung chính của đề tài bao gồm 3
chương.
Cụ thể:
Chương 1. Cơ sở lý luận.
Chương 2. Thực trạng của việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới miền Tây Nghệ An.
Chương 3. Nội dung của việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới miền Tây Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay.

7



B. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng,
an ninh là một trong những nội dung trọng tâm của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và chú trọng thực hiện.
Hiện nay đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này, chủ yếu là của các đơn vị
bộ đội, các cơ quan hay của sinh viên, điển hình như ở trong tỉnh Nghệ An có nhà
nghiên cứu Hồ Tĩnh Tâm (Hồ Xuân Tâm) cũng đã nghiên cứu về vấn đề này trong
phạm vi cả nước, hay sinh viên Trần Văn Mạnh K49- GDQP trường Đại học Vinh
cũng đã nghiên cứu về đề tài kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng,
an ninh trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Nhưng nhìn chung hầu hết các đề tài tập trung
nghiên cứu chung trong phạm vi cả nước hoặc tập trung vào từng địa phương. Vì
thế, đề tài nghiên cứu của em có điểm mới đó là tập trung đi sâu vào nghiến cứu vấn
đề kết hợp phát triển kinh tế- xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh trên địa bàn khu vực biên giới miền Tây Nghệ An. Đây là đề tài mà trước đây
chưa ai nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản.
1.2.1. Khái niệm quốc phòng, an ninh.
- Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các
hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự,
văn hóa, xã hội… nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
- An ninh là trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm để đe
dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân , của tổ chức, của từng lĩnh vực
hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội. Đối với Việt Nam, bảo vệ an ninh là nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân và của cả hệ thống chính trị do lực lượng
an ninh làm nòng cốt; bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt chẽ với củng cố quốc

phòng.

8


1.2.2. Khái niệm nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
- Quốc phòng toàn dân:
+ Là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, của dân”, phát triển theo
phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lưc, tự cường và ngày càng
hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý, điều hành của nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững
hoà bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo
loạn lật đổ của các thế lực đế quốc, phản động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam
xã hội chủ nghĩa.
+ “Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước được xây
dựng trên nền tảng nhân lực, tinh thần mang tính chất toàn dân, toàn diện độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường.”
- An ninh nhân dân:
+ Là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân tiến hành, lực lượng an ninh nhân
dân làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Kết hợp
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các biện pháp nghiệp vụ của lực
lượng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội, cùng với toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Viêt
nam xã hội chủ nghĩa.”
+ Bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt nam có vai trò nòng cốt
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. An ninhquốc gia có nhiêm vụ : đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu của hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, chính quyền, các lực lượng vũ trang và nhân dân”.
Nền an ninh là sức mạnh về tinh thần,vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng
nước, giữ nước của toàn dân tộc được huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc

gia, trong đó lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh nhân dân làm nòng cốt.
1.2.3. Khái niệm dân quân tự vệ.
Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quân chúng, không thoát ly sản xuất,
công tác, vừa là dân lại vừa là quân, vừa có nghĩa vụ xây dựng đất nước vừa có
nghĩa vụ tham gia bảo vệ Tổ quốc. Là một trong các thành phần của lực lượng vũ

9


trang nhân dân, được tổ chức rộng rãi trong phạm vi toàn quốc. Đặt dưới sự lãnh
đạo của cấp uỷ Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền, sự chỉ huy thống nhất
của quân đội mà trực tiếp là cơ quan quân sự địa phương các cấp. Lực lượng này
được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là dân quân; được tổ chức ở cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội
gọi là tự vệ.”(Điều 1 Luật Dân quân tự vệ năm 2009)
1.2.4. Khái niệm hội nhập quốc tế
Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ nước
ngoài (tiếng Anh là “international integration”). Đây là một khái niệm được sử dụng
chủ yếu trong ác lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ giữa
khoảng thế kỷ XX ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế
chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù nhằm tránh nguy cơ tái
diễn chiến tranh thế giới thong qua việc xây dựng cộng đồng châu Âu.
Hội nhập quốc tế được hiểu là quá trình các quốc gia mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế, gia nhập, trở thành thành viên của các tổ chức, liên kết quốc tế và tham
gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, là quá trình mở cửa các lĩnh vực, thực hiện
những điều chỉnh về chính sách, luật lệ trong nước thích ứng với tình hình và thông
lệ quốc tế nhằm kết hợp các nguồn lực trong nước và nguồn lực bên ngoài để phát
triển và xác lập vị trí của mình trong quan hệ quốc tế, là quá trình tiến hành các hoạt
động tăng cường sự gắn kết với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị,
nguồn lực, quyền lực thẩm quyền định hoạt chính sách và tuân thủ các luật chơi

chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
1.2.5. Khái niệm hoạt động kinh tế.
Hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản, thường xuyên gắn liền với sự tồn tại
của xã hội loài người. Đó là toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra
của cải vật chất cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.
1.2.6. Khái niệm kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố
quốc phòng, an ninh ở nước ta.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh là sự gắn kết giữa kinh tế với
quốc phòng, an ninh trong một thể thống nhất nhằm bổ sung, tạo điều kiện, thúc đẩy
cùng nhau phát triển nhịp nhàng phát triển với hiệu quả kinh tế- xã hội cao, kinh tế

10


phát triển, quốc phòng, an ninh vững mạnh góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh
tổng hợp của đất nước, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc
gia và trật tự an toàn xã hội, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, nếu chiến tranh xảy ra thì
đánh thắng.
- Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh ở nước ta là hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong việc
gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế- xã hội; quốc phòng, an ninh trong một chỉnh thể
thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng
phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
1.3. Cơ sở lý luận của việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội (KT-XH)
với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh (QP, AN).
- Kinh tế, quốc phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc
gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền. mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động
và quy luật riêng, song giữa chúng có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong

đó, kinh tế là yếu tố quyết định đến quốc phòng – an ninh; ngược lại, quốc phòng –
an ninh cũng có tác động tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc
đẩy kinh tế phát triển.
+ Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phòng, an
ninh. Lợi ích kinh tế suy đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và
xung đột xã hội. Để giải quyết các mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc phòng, an
ninh
+ Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp cơ sở vật chất kĩ thuật, nhân lực
cho hoạt động quốc phòng – an ninh. Ăngghen đã khẳng định “Thất bại hay thắng
lợi của chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế”. Vì vậy, để xây dựng quốc
phòng – an ninh vững mạnh phải xây dựng, phát triển kinh tế
+ Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân
lực cho quốc phòng, an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng
vũ trang; quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng – an ninh
- Quốc phòng không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở lại với

11


kinh tế - xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực
+ Quốc phòng – an ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu
dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
+ Hoạt động quốc phòng – an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân
lực, vật lực, tài chính của xã hội. Những tiêu dùng này theo Lênin là những tiêu
dùng “mất đi”, không quay vào tái sản xuất xã hội. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu
dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
+ Hoạt động quốc phòng – an ninh còn có thể dẫn đến huỷ hoại môi trường
sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn
chế những tác động tiêu cực này, phải kết hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng –
an ninh với phát triển kinh tế - xã hội vào một chỉnh thể thống nhất.

Như vậy, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng – an ninh là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động có nội dung,
phương thức riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều
kiện tồn tại của cái kia và ngược lại. Tuy nhiên, việc kết hợp cần phải được thực
hiện một cách khoa học, hợp lí, cân đối và hài hoà.
1.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kết hợp KT – XH với quốc
phòng, an ninh ở vùng núi và biên giới.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo, có chọn lọc nhưng quan điểm lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về kết hợp kinh tế với quốc phòng, đồng thời kế thừa tinh hoa
của dân tộc trong suốt hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Đảng ta đã
hình thành nên đường lối kết hợp xây dựng kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng,
an ninh.
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, do yêu cầu
và đặc điểm của công cuộc chống giặc ngoại xâm đã hình thành sự cố kết bền chặt
giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Từ xa xưa, cha ông ta luôn nhận thức rằng:
Kết hợp giữa xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước là vấn đề sống còn. Bỏ qua
những hạn chế lịch sử chúng ta thấy rằng ở hầu hết các triều đại phong kiến Việt
Nam, mỗi khi đất nước sạch bóng quân thù, ông cha ta lại dồn hết sức cải tạo thiên
nhiên, phát triển sản xuất, văn hóa,... xây dựng đất nước hùng mạnh sẵn sàng đối
phó với những cuộc xâm lược của kẻ thù. Bài học về kết hợp dựng nước và giữ

12


nước của dân tộc ta rất phong phú và sinh động, đó là: Khi đất nước bình yên và
hưng thịnh, phải luôn chú ý đến lợi ích của sự nghiệp bảo vệ đất nước. Chăm lo sức
dân, biết dựa vào dân là cái gốc của sự nghiệp dựng nước và giữ nước, mở mang
kinh tế, phát triển xã hội là điểm khởi đầu của sức mạnh quân sự bảo vệ đất nước.
Tiếp thu tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và kế thừa những
truyền thống tinh hoa dân tộc, ngay từ khi mới dành được chính quyền và khi chính

quyền còn trong “trứng nước” Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng
tạo, thành công quan điểm kết hợp kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh đưa
nước ta thoát khỏi “thù trong, giặc ngoài” và vượt qua muôn vàn khó khăn sau khi
cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.
Thực hiện “trường kỳ kháng chiến”, “kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc”
Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân ta bằng sức mình là chính, vừa tăng gia sản
xuất vừa chiến đấu và đã dành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu năm 1954. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
miền Bắc đã độc lập tiến hành đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời chi viện
sức người, sức của cho miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến gian khổ và anh dũng
chống đế quốc Mỹ. Miền Bắc phải làm nhiệm vụ hậu phương chung của cả nước,
vừa phải xây dựng và bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Từ những đặc điểm ấy, ngay từ Hội nghi Trung ương (mở rộng) lần thứ 12
(3/1957), Đảng ta đã khẳng định đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa: “Trong khi chấp hành nhiệm vụ xây dựng quân đội,
củng cố quốc phòng, một điều căn bản cần nắm vững là phải đặt quan hệ đúng đắn
giữa nhiệm vụ quốc phòng và nhiệm vụ kinh tế”. Đặt quan hệ đúng đắn ở đây chính
là giải quyết mối quan hệ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế cho phù
hợp hoàn cảnh.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, khi đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc được xác lập, những tư tưởng về kết hợp kinh tế – xã hội với quốc
phòng, an ninh trong cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng hoàn thành. Đảng ta khẳng
định: “Phải giải quyết đúng đắn quan hệ giữa xây dựng kinh tế với củng cố quốc
phòng. Trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đi

13


đôi với phát triển kinh tế, văn hóa phải chú trọng củng cố quốc phòng, xây dựng

các lực lượng vũ trang hũng mạnh. Phải kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc
phòng. Trong xây dựng kinh tế phải thấu suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng cũng
như trong củng cố quốc phòng phải khéo léo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc
xây dựng kinh tế.”
Hội nghị trung ương lần thứ VIII (khóa III) bàn về kế hoạch phát triển kinh
tế quốc dân 5 năm, đã cụ thể hóa một bước kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với
quốc phòng, an ninh. Đảng ta xác định: Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa
và củng cố quốc phòng, an ninh là một trong những phương hướng, nhiệm vụ chung
của kế hoạch 5 năm. Trong lĩnh vực giao thông vận tải, Đảng ta chỉ rõ: “Phải khắc
phục tình trạng thiếu cân đối trong mấy năm gần đây giữa giao thông vận tải và yêu
cầu phát triển kinh tế, văn hóa và củng cố quốc phòng”.
Tuy nhiên, chúng ta đang triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến
tranh phá hoại miền Bắc, thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ ở miền Nam.
Trước tình hình mới, Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 (khóa III, tháng 3 năm
1965) đã chủ trương phát triển sản xuất với quy mô vừa và nhỏ, phân tán ở các địa
phương, sơ tán các nhà máy, xí nghiệp lớn...để tránh thiệt hại do phá hoại của địch,
nhưng vẫn giữ vững được sản xuất, đáp ứng yêu cầu cho quốc phòng. Đó chính là
sự cụ thể hóa đường lối kết hợp kinh tế với quốc phòng trong một hoàn cảnh đặc
biệt.
Hội nghị trung ương lần thứ 19 (khóa III) vấn đề kết hợp kinh tế – xã hội với
quốc phòng, an ninh được Trung ương khẳng định là phương hướng phát triển kinh
tế, đồng thời xác định: xây dựng kinh tế phải gắn chặt với yêu cầu tăng cường quốc
phòng trước mắt và lâu dài.
Có thể nói trong qua trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đường lối
kết hợp kinh tế với quốc phòng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã được xác lập,
phát triển và từng bước cụ thể hóa về mục tiêu, phương hướng, nội dung và cách
thức kết hợp về cơ bản đã được định hình. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những yêu cầu của cuộc chiến trang đã chi phối
toàn bộ nền kinh tế đất nước, nên đường lối ấy chưa đi vào cuộc sống với đầy đủ ý


14


nghĩa của nó.
Với đại thắng mùa xuân năm 1975 thống nhất đất nước, cả nước tiến hành
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội IV của Đảng tháng 12 năm 1976, vấn đề kết
hợp kinh tế với củng cố quốc phòng được Đảng ta xác định là một trong những
phương hướng xây dựng cơ cấu kinh tế công nông nghiệp hiện đại, là phương
hướng của sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Trong nội dung kết hợp xây dựng
kinh tế với củng cố quốc phòng, Đảng ta chỉ rõ: “phải kết hợp chặt chẽ nghĩa vụ lao
động với nghĩa vụ quân sự”.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trước bối cảnh quốc tế vừa có những thuận lợi,
vừa tiểm ẩn những nguy cơ, thách thức mới, đặc biệt là âm mưu “Diễn biến hòa
bình” của các thế lực phản động quốc tế không ngừng chống phá chế độ xã hội chủ
nghĩa. Tiếp tục vận dụng sáng tạo lý luận Mác – lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết
hợp kinh tế với quốc phòng, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần hứ VI của Đảng với
quan điểm: “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, toàn dân bảo vệ Tổ
quóc và xây dựng đất nước”, Đảng ta chủ trương: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây
dựng hậu phương đất nước một cách toàn diện”.
Đây chính là sự cụ thể hóa vấn đề kết hợp kinh tế – xã hội với quốc phòng,
an ninh theo phương hướng cơ bản, lâu dài mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V
của Đảng đã đề cập. Kết hợp để xây dựng hậu phương đất nước một cách toàn diện
là nhân tố đảm bảo cho phòng thủ một cách vững chắc, lâu dài.
Kế thừa và phát triển đường lối kết hợp kinh tế – xã hội với quốc phòng, an
ninh cùng việc tổng kết 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội toàn quốc lần
thứ VI khởi xướng, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng ta đã
bổ sung, hoàn thiện quan điểm, đường lối kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh
trong xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định: “Phát triển kinh tế xã hội
theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh” và
“kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với đổi mới và ổn định về chính trị,
tăng cường củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã

15


hội.”.
Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, trong bối cảnh đất nước ta bước vào 5 năm cuối cùng của thế kỷ XX với
những khả năng và cơ hội lớn, đồng thời cũng đứng trước những thử thách gay gắt,
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: “kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực vừa
phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế vừa phục vụ quốc phòng, an ninh”.
Thực hiện mục tiêu phát triển đồng đều giữa các ngành, các vùng lãnh thổ
tạo ra sự cân đối, tập trung cho những vùng trọng điểm, Đảng ta nhấn mạnh: “Khai
thác tối đa tiềm năng và lợi thế vùng biển, ven biển để phát triển kinh tế, kết hợp
với quốc phòng, an ninh, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc”.
Tại Đại hội VIII, lần đầu tiên Đảng ta coi “quốc phòng, an ninh vững chắc”
là một trong những mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa: kết hợp kinh té với
quốc phòng, an ninh vừa là quan điểm cơ bản, vừa là tư tưởng chỉ đạo cần phải
quán triệt trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và củng cố xây
dựng quốc phòng, an ninh.
Bước sang Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX năm 2001, Đảng ta tiếp tục
khẳng định rõ ràng kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh: “Việc xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật phải chú trọng phân bổ hợp lý trên các vùng của đất nước, vừa
phát huy hiệu quả kinh tế – xã hội, vừa đảm bảo sử dụng cho quốc phòng, an ninh
khi cần thiết. Đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, ổn định các vùng xung yếu, vùng

biên giới, cửa khẩu hải đảo, phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an
ninh quốc gia.”
Chuẩn bị cho Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, dự thảo Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hanh Trung ương Đảng cũng nêu rõ: “Kết hợp xây dựng phát
triển kinh tế – xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh trên cơ sở phát
huy mọi tiềm năng của đát nước. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với
thế trận an ninh nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành
phố. Tiếp tục phát triển các khu kinh tế – quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng
– kinh tế với mục tiêu tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh là chủ yếu, tập trung
vào các địa bàn trọng điểm và chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới

16


đất liền, biển đảo. Xây dựng công nghiệp quốc phòng trong hệ thống công nghiệp
quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp điều hành của Chính phủ, đầu tư có chon
lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ quốc phòng, vừa phục vụ dân sinh.”
Trong bài “Công cuộc đổi mới; Nhìn lại để tiếp tục tiến lên” đăng trên
website báo Nhân dân, Giáo sư- tiến sỹ Nguyễn Phú Trọng, ủy viên Bộ Chính trị,
Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương đã viết: “Hai mươi năm là một chặng đường
không dài so với lịch sử của một đất nước, một dân tộc. Nhưng với công cuộc đổi
mới, hai mươi năm là một quãng thời gian đủ giúp chúng ta suy ngẫm, đánh giá,
kiểm chứng nhưng gì đã diễn ra, với tất cả sự thăng trầm trong xu thế phát triển đi
lên, dù mới là sơ bộ...
Về quốc phòng, an ninh: Chúng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, cụ
thể hơn về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa; giữa kinh tế và quốc phòng, an ninh, đối ngoại; nhận thức toàn diện hơn
về khái niệm “an ninh quốc gia” và “bảo vệ Tổ quốc”. An ninh quốc gia không chỉ
là an ninh chính trị mà còn là an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng,
an ninh xã hội... Bảo vệ Tổ quốc không chỉ bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng

trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân; bảo vệ thành quả cách mạng; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trên thực tế, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội được tăng cường. Lực lượng vũ trang được xây dựng cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thực hiện có hiệu quả bước điều chỉnh chiến lược về
bố trí thế trận, tổ chức biên chế lực lượng vũ trang trong thời bình; gắn chặt nhiệm
vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, chống “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.
Đã kịp thời ngăn chặn, dập tắt các vụ gây rối, bạo loạn chính trị, vô hiệu hóa hoạt
động của các đối tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề tôn
giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền để gây mất ổn định; giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội”.
Sau 20 năm đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt

17


Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó có những thành tựu hết sức quan trong trên lĩnh vực
bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của đất nước. Trong bài viết
trên báo Nhân dân- chuyên mục “Tổng kết 20 năm đổi mới” đồng chí Nguyễn
Khánh Toàn- ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thường trực Bộ Công an cho
rằng một trong những trọng tâm đổi mới đó là:
“Xác định bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội liên quan
trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ, sự ổn định và phát triển của đất nước, Đảng
và Nhà nước luôn coi đây là một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong sự nghiệp
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các
đoàn thể trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng, quản lý của Nhà nước, trong đó Công an nhân dân, Quân đội nhân dân

là những lực lượng tham mưu, nòng cốt. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự xã hội đã từng bước được kết hợp chặt chẽ trong suốt quá trình thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, lấy việc ổn định phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm nền
tảng giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, coi an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội là điều kiện để phát triển kinh tế – xã hội”.
Trong bài “ Hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa- ủy viên Trung
ương Đảng, phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, Tổng biên tập tạp chí cộng
sản khẳng định xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa “là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn
nhau. Trong điều kiện mới, chúng ta đã nhận thức sâu sắc, cụ thể hơn về mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối
ngoại, giữa thế trận quốc phòng với thế trận an ninh trên phạm vi quốc gia cũng
như trên từng địa bàn. Đã nhận thức toàn diện hơn khái niệm an ninh quốc gia và
khái niệm bảo vệ Tổ quốc được nhận thức đầy đử hơn. Chúng ta bước đầu xây
dựng quan điểm mới về chiến tranh nhân dân, về hậu phương trong điều kiện chiến
tranh công nghệ cao; làm sáng tỏ nội dung mới của chiến lược bảo vệ Tổ quốc,
chiến lược quốc phòng toàn dân”.
Điểm lại quá trình phát triển đường lối kết hợp phát triển kinh tế với quốc

18


phòng, an ninh trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước và bối cảnh
quốc tế, Đảng ta luôn coi trọng và bổ sung hoàn thiện đường lối kết hợp kinh tế với
quốc phòng, an ninh theo các nội dung cơ bản, đó là:
- Trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, phải luôn coi trọng kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh theo phương hướng cơ bản lâu dài, đồng
thời có chiến lược cụ thể cho từng thời kỳ. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh

phải được thể hiện trong từng nhiệm vụ, trong từng công trình của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; trong kế hoạch của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như cơ
cấu kinh tế ngành, vùng lãnh thổ và từng công trình...mỗi bước phát triển kinh tế
thời bình phải tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng hậu phương đất
nước một cách toàn diện để khi chiến tranh xảy ra có thể chuyển nhanh kinh tế từ
thời bình sang thời chiến. Phải kết hợp nghĩa vụ lao động với nghĩa vụ bảo vệ Tổ
quốc và làm cho mọi gười có ý thức kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc
phòng, an ninh sâu sắc.
- Đường lối ấy thể hiện sự trung thành và kế thừa có chọn lọc những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, truyền thống tinh hoa cua của dân tộc và tưởng Hồ
Chí Minh về kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh của Đảng
qua các thời kỳ cách mạng. Thực hiện sự nghiệp đổi mới, hội nhập, trước những bối
cảnh diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, vấn đề này lại được đặt ra quan trọng
hơn lúc nào hết.
* Nội dung kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an
ninh ở nước ta hiện nay:
a. Kết hợp trong xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
- Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố QP- AN phải được
thể hiện ngay trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia. Điều
này được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu phát triển quốc gia, trong
huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược
- Mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển kinh tế - xã hội nước ta từ
năm 2006 đến 2010 là:
+ Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

19


+ Phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

+ Tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại
+ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
+ Giữ vững ổn định chính trị xã hội, sớm đưa được nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, tạo nền tảng cho nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Như vậy, trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã bao quát
toàn diện các vấn đề của đời sống xã hội, trong đó nổi lên ba vấn đề lớn là: tăng
trưởng kinh tế gắn với tiến bộ xã hội; tăng cường quốc phòng – an ninh và mở rộng
quan hệ đối ngoại nhằm giải quyết hài hoà 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh
sẽ phát huy sức mạnh của từng lĩnh vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh tổng
hợp, quy tụ mọi nguồn lực, lục lượng trong nước và quốc tế nhằm hoàn thành thắng
lợi mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.
b. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng –
an ninh trong phát triển các vùng lãnh thổ
- Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an
ninh trong phát triển các vùng lãnh thổ là sự gắn kết chặt chẽ phát triển vùng kinh tế
chiến lược với xây dựng vùng chiến lược quốc phòng, an ninh nhằm tạo ra thế bố trí
chiến lược mới cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên
địa bàn tỉnh, thành phố, theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
bền vững trên toàn cục và mạnh ở từng trọng điểm.
- Hiện nay, nước ta đã phân chia thành các vùng kinh tế lớn và các vùng
chiến lược, các quân khu. Mỗi vùng đều có vị trí chiến lược về phát triển kinh tế và
chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác
nhau về đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh, nên
nội dung kết hợp cụ thể trong mỗi vùng có thể có sự khác nhau. Song việc kết hợp
đó phải được thể hiện những nội dung chủ yếu sau:
+ Một là, kết hợp trong xây dựng chiến lược, qui hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội với quốc phòng – an ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng tỉnh,


20


thành phố.
+ Hai là, kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu
kinh tế địa phương với xây dựng các khu phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu
liên hoàn, các xã (phường) chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh (thành phố), quận
(huyện)
+ Ba là, kết hợp trong quá trình phân công lại lao động của vùng, phân bố lại
dân cư với tổ chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lại lực lượng quốc phòng,
an ninh trên từng địa bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có biển, đảo là
ở đó có dân và có lực lượng quốc phòng, an ninh để bảo vệ cơ sở, bảo vệ Tổ quốc.
+ Bốn là, kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các
công trình quốc phòng, quân sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường… Bảo đảm
tính “lưỡng dụng” trong mỗi công trình được xây dựng.
+ Năm là, kết hợp xây dựng các cơ sở, kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng
khắp với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kĩ thuật và hậu phương
vững chắc cho mỗi vùng và ở các địa phương để sẵn sang đối phó khi có chiến
tranh xâm lược.
- Hiện nay Đảng ta xác định phải chú trọng nhiều hơn cho các vùng kinh tế
trọng điểm, vùng biển đảo và vùng biên giới.
• Đối với vùng kinh tế trọng điểm:
- Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
+ Một là, trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công
nghiệp cần lựa chọn qui mô trung bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng,
không nên xây dựng tập trung thành những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lí,
giữ gìn an ninh chính trị trong thời bình và hạn chế hậu quả tiến công hoả lực của
địch khi có chiến tranh.
+ Hai là, phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết

cấu hạ tầng của nền quốc phòng toàn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với
các công trình phòng thủ, các thiết bị chiến trường, các công trình phòng thủ dân
sự…
+ Ba là, trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đặc khu

21


kinh tế phải có sự gắn kết với qui hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng – an ninh,
các tổ chức chính trị, đoàn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọn đối tác
đầu tư, bố trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngoài trong
các khu công nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế xuất.
+ Bốn là, việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm
phải nhằm đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp
ứng nhu cầu chi viện cho các chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp phát triển
kinh tế tại chỗ với xây dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng điểm
để sẵn sàng chủ động di dời, sơ tán đến nơi an toàn khi có tình huống chiến tranh
xâm lược.
• Đối với vùng núi biên giới:
- Nội dung kết hợp cần chú ý các điểm sau:
+ Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh ở các
vùng cửa khẩu, các vùng giáp biên giới với các nước.
+ Phải tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chỗ và có chính sách phù hợp
để động viên, điều chỉnh dân số từ các nơi khác đến vùng núi biên giới.
+ Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và quốc phòng, an ninh.
Trước hết cần tập trung xây dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, mở mới và nâng
cấp các tuyến đường dọc, ngang, các tuyến đường vành đai kinh tế.
+ Thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, chương trình 135 về phát
triển kinh tế - xã hội đối với các xã nghèo
+ Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó

khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng của cả Trung ương và địa phương
để cùng giải quyết.
+ Đặc biệt với các địa bàn chiến lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có
chính sách động viên và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm nòng
cốt xây dựng các khu kinh tế quốc phòng hoặc các khu quốc phòng – kinh tế, nhằm
tạo thế và lực mới cho phát triển kinh tế, xã hội và tăng cường sức mạnh quốc
phòng, an ninh.
• Đối với vùng biển đảo:
- Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
22


+ Tập trung trước hết vào xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế
và xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh bảo về biển, đảo trong tình hình mới, làm
cơ sở cho việc thực hiện kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh một cách
cơ bản, toàn diện và lâu dài.
+ Xây dựng qui hoạch, kế hoạch từng bước đưa dân ra vùng ven biển và các
tuyến đảo gần trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương, bám trụ phát
triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững chắc, lâu dài.
+ Nhà nước phải có cơ chế, chính sách thoả đáng động viên, khích lệ dân
ra đảo bám trụ làm ăn lâu dài.
+ Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám
trụ, sinh sống và làm ăn
+ Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế
ở vùng biển, đảo thuộc chủ quyền nước ta với các nước phát triển
+ Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ, thông qua đó xây
dựng lực lượng dân quân biển, các hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, cảnh sát
biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ quyền
biển, đảo của nước ta.
+ Xây dựng phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở vùng biển

đảo nước ta. Đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế trận phòng thủ trên biển
đảo, trước hết là phát triển và hiện đại hoá lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam
để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ vùng biển đảo.
c. Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an
ninh trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu.
• Một là, kết hợp trong công nghiệp
- Nội dung kết hợp kinh tế xã hội với QP- AN và đối ngoại trong phát triển
công nghiệp là:
+ Kết hợp ngay từ khâu quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của nghành công
nghiệp. Bố trí một cách hợp lí trên các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng sâu, vùng
xa, vùng kinh tế kém phát triển, thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ Tập trung đầu tư một số nghành công nghiệp liên quan đến quốc phòng
như: Cơ khí chế tạo, điện tử, công nghiệp, điện tử kĩ thuật cao, luyện kim, hoá chất,

23


đóng tàu vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có thể sản xuất
ra một số sản phẩm kĩ thuật công nghiệp cao phục vụ QP- AN.
+ Phát triển công nghiệp quốc gi theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa có
thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự. Kết hợp tròng đầu tư
nghiên cứu, sáng chế, chế tạo, sản xuất các mặt hàng có tính lưỡng dụng cao trong
các nhà máy và ở một số cơ sở công nghiệp nặng.
+ Các nhà máy cong nghiệp quốc phòng trong thời bình, ngoài việc sản xuất
ra hàng quân sự phải tham gia sản xuất hàng dân sự chất lượng cao phục vụ tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Theo hướng trên, từ nay đến năm 2020, Nhà nước
cần tập trung xây dựng quốc phòng vào có thể tham gia nghiên cứu, sáng chế và
sản xuất một số mặt hàng quân sự đáp ứng cho LLVT, trong đó tập trung vào một số
nghành như cơ khí luyện kim, cơ khí chế tạo, điện tử, tin học, hoá dầu.
+ Mở rộng liên doanh, liên kết giữa nghành công nghiệp nước ta (bao gồm

công nghiệp quốc phòng) với công nghiệp của các nước tiên tiến trên thế giới, ưu
tiên những nghành, lĩnh vực có tính lưỡng dụng cao.
+ Thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phòng
vào công nghiệp dân dụng và ngược lại.
+ Phát triển hệ thống phòng không công nghiệp và phát triển lực lượng tự
vệ để bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp trong cả thời bình và thời chiến
+ Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc gia phục vụ thời chiến; thực
hiện dự trữ chiến lược các nguyên, nhiên, vật liệu quý hiếm cho sản xuất quân sự.
• Hai là, kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp
- Hiện nay nước ta vẫn còn hơn 70% dân số sống ở nông thôn và làm nghề
nông, lâm ngư nghiệp. Phần lớn lực lượng, của cải huy động cho xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc là từ khu vực này.
- Nội dung kết hợp cần chú trọng:
+ Kết hợp phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển đảo và
lực lượng lao động để phát triển đa dạng các ngành trong nông, lâm, ngư nghiệp
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
+ Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp phải gắn vói việc giải quyết tốt các
vấn đề xã hội như xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, đền ơn

24


đáp nghĩa, nần cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn
mới văn minh, hiện đại. Bảo đảm an ninh lương thực và an ninh nông thôn, góp
phần tạo thế trận phòng thủ “thế trận lòng dân” vững chắc.
+ Phải kết hợp gắn việc động viên đưa dân ra lập nghiệp ở các đảo để xây
dựng các làng xã, huyện đảo vững mạnh với chú trọng đầu tư xây dựng phát triển
các hợp tác xã, các đôi tàu thuyền đánh cá xa bờ,…
+ Phải đẩy mạnh phát triển trồng rừng gắn với công tác định canh định cư,
xây dựng các cơ sở chính trị vững chắc ở các vùng rừng núi biên giới, đặc biệt là ở

Tây bắc, Tây nguyên và Tây nam bộ.
• Ba là, kết hợp trong giao thông vận tải, bưu điện, y tế, khoa học – công
nghệ, giáo dục và xây dựng cơ bản:
- Trong giao thông vận tải:
+ Phát triển hệ thống giao thông vận tải đồng bộ cả đường bộ, đường sắt,
đường không, đường thuỷ, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá trong nước
và mở rộng giao lưu với nước ngoài.
+ Trong xây dựng các mạng đường bộ, cần chú trọng mở rộng, nâng cấp các
tuyến đường trục Bắc – Nam với tuyến đường trục dọc Trường Sơn, đường Hồ Chí
Minh. Từ các tuyến đường này, phải phát triển các tuyến đường ngang nối liền giữa
các tuyến trục dọc với nhau và phát triển đến các huyện xã trong cả nước, nhất là
đến các vùng cao, vùng sâu, miền núi biên giới, xây dựng các tuyến đường vành đai
biên giới.
+ Trong thiết kế, thi công các công trình giao thông vận tải, đặc biệt là các
tuyến vận tải chiến lược, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời chiến,
nhất là cho các phương tiện cơ động của lực lượng vũ trang có trọng tải và lưu lượng
vận chuyển lớn, liên tục. Phải có kế hoạch làm nhiều đường tránh ở các nút giao
thông quan trọng, làm các bến phà, bến vượt ngầm bên cạnh các cây cầu, làm đường
hầm xuyên núi, cải tạo các hang động có sẵn làm kho trạm, nơi trú quân khi cần.
+ Phải thiết kế, xây dựng lại hệ thống đường ống dẫn dầu Bắc – Nam, chôn
sâu bí mật, có đường vòng tránh trên từng cung đoạn, bảo đảm hoạt động an toàn cả
thời bình và thời chiến.
+ Ở vùng đồng bằng ven biển, đi đôi với phát triển hệ thống đường bộ, cần

25


×