Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh thanh hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 104 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRNH XUN TNG

ĐồNG PHạM TRONG TộI LừA ĐảO CHIếM ĐOạT TàI SảN
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRNH XUN TNG

ĐồNG PHạM TRONG TộI LừA ĐảO CHIếM ĐOạT TàI SảN
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN KHC HI

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trịnh Xuân Tùng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM ....................................................................... 9
1.1.


Nhận thức về đồng phạm và khái niệm đồng phạm trong tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản ................................................................. 9

1.1.1. Nhận thức về đồng phạm ..................................................................... 9
1.1.2. Khái niệm đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .............. 14
1.2.

Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng
phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 .... 21

1.2.1. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm ............. 21
1.2.2.

Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm ......... 23

1.2.3. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm ................. 26
1.2.4. Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm ....... 27
1.3.

Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.......................................................... 29

Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN CÓ ĐỒNG PHẠM TẠI THANH HÓA ........................ 35
2.1.

Một vài nét về tình hình kinh tế, chính trị, an ninh ảnh
hưởng tới diễn biến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng
phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ................................................ 35



2.2.

Tình hình giải quyết và những kết quả đạt được trong công tác
xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm tại
tỉnh Thanh Hóa .................................................................................. 39

2.3.

Một số tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết các vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm tại tỉnh Thanh Hóa và
những nguyên nhân cơ bản ............................................................. 47

2.3.1. Một số tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết các vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có đồng phạm tại tỉnh Thanh Hóa ........................ 48
2.3.2. Những nguyên nhân cơ bản................................................................ 55
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ..................................... 60
3.1.

Sự cần thiết, căn cứ và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật,
hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về đồng phạm đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản....................... 60

3.1.1.

Sự cần thiết và căn cứ để tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự năm 2015 về đồng phạm đối với tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản .......................................................................................... 61

3.1.2. Hoàn thiện các quy định về phần chung của Bộ luật hình sự liên
quan đến đồng phạm đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .............. 70
3.1.3. Hoàn thiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong phần các tội
phạm của Bộ luật hình sự năm 1999 .................................................. 74
3.2.

Một số giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản ........................................................................................ 78

3.2.1.

Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp
trong giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm ... 78


3.2.2. Tăng cường công tác giám đốc kiểm tra, tổng kết xét xử, xây
dựng án lệ về đồng phạm đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản....... 82
3.3.

Một số giải pháp khác ...................................................................... 84

3.3.1. Tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi kinh nghiệm lập pháp
hình sự về đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản............... 84
3.3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung, các quy định về
đồng phạm đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng ................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 91


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS:

Trách nhiệm hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Thống kê các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản giai đoạn 2011-2016 trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa

40

Bảng 2.2. Thống kê các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có đồng phạm giai đoạn 2011 2016 trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

41

Bảng 2.3. Bảng những loại người đồng phạm trong tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản

42

Bảng 2.4. Bảng thống kê chế tài hình sự áp dụng đối với các bị
cáo đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

43

Bảng 2.5. Bảng thống kê kết quả xét xử phúc thẩm đối với các
bị cáo trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có
đồng phạm

46


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm diễn biến khá phức tạp ở nhiều

tỉnh, thành phố trên cả nước nói chung và tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Tính phức
tạp của loại tội phạm này thể hiện ở sự đa dạng ở phương thức, thủ đoạn, đặc
biệt là sự câu kết của các đối tượng phạm tội. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được
thực hiện bởi nhiều người thể hiện tính chất và mức độ phạm tội nguy hiểm
hơn so với một người thực hiện. Khi tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có sự tham
gia thực hiện bởi nhiều người và những hành vi này có mối liên hệ tương hỗ,
tác động lẫn nhau thì trường hợp đó được gọi là đồng phạm trong tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Đồng phạm nói chung và đồng phạm trong tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản nói riêng là hình thức phạm tội “đặc biệt”, đòi hỏi những
điều kiện riêng, khác với những trường hợp phạm tội riêng lẻ (về số lượng
người tham gia phạm tội, mối liên hệ giữa các đối tượng trong cùng vụ án cũng
như tội phạm mà cả nhóm hướng tới thực hiện). Đồng phạm trong tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản thường nguy hiểm hơn so với trường hợp một chủ thể thực
hiện bởi khi một nhóm người cùng cố ý thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội này sẽ tăng lên đáng kể
và hiệu quả đạt được mục đích phạm tội sẽ cao hơn, nhất là khi có sự câu kết
chặt chẽ về tổ chức và cách thức thực hiện, phát triển thành “phạm tội có tổ
chức”. Do đó việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những người đồng
phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có một số điểm khác với những
trường hợp phạm này do một cá nhân thực hiện.
Trong khoa học Luật hình sự, căn cứ vào các đặc điểm về mặt chủ
quan và khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đồng phạm trong tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể chia ra nhiều hình thức: đồng phạm có

1


thông mưu trước trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đồng phạm không có
thông mưu trước trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đồng phạm giản đơn
trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đồng phạm phức tạp trong tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra còn có một trường hợp đặc biệt về đồng phạm
trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đó là lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức.
Trong các hình thức đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì chỉ lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có tổ chức là tình tiết tăng nặng và tình tiết định khung hình
phạt. Chỉ trên cơ sở nắm vững về các vấn đề lý luận như hình thức đồng phạm
trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đặc điểm đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, cũng như hiểu rõ các quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản
hướng dẫn về đồng phạm và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì mới vận dụng tốt
khi giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm.
Tuy nhiên qua đánh giá thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử
trên cơ sở số liệu địa bàn tỉnh Thanh Hóa cho thấy nhận thức về đồng phạm
trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hiện nay vẫn còn một số tồn tại vướng
mắc giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Những khó khăn này đã gây khó
khăn cho việc giải quyết vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm. Do
quy định của pháp luật về chế định đồng phạm chưa được hoàn thiện, nhận
thức của các cơ quan tiến hành tố tụng về đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản còn hạn chế nên việc phân định giữa các hình thức đồng phạm,
xác định vai trò, tính chất, mức độ tham gia của từng người đồng phạm trong
một số vụ án còn chưa thống nhất, chính xác, ảnh hưởng đến công tác xét xử
của một số Tòa án tại tỉnh Thanh Hóa. Những tồn tại, hạn chế này còn do
nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, song việc xác định, đánh giá
đồng phạm trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản thiếu chính xác sẽ dẫn
đến việc định tội danh, phân hóa trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt
đối với các người đồng phạm nhiều khi bị đánh đồng, chưa lượng hóa được

2


hình phạt phù hợp với vai trò và các tình tiết của vụ án đối với họ, ảnh hưởng
đến trật tự pháp luật, quyền và nghĩa vụ của những người phạm tội, cũng như

công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Những phân tích trên cho thấy việc nghiên cứu đề tài “Đồng phạm
trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở
thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa) là quan trọng và cấp thiết trong việc trước
yêu cầu hoàn thiện và hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam nhằm bảo đảm xét xử các vụ án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
nói chung và các vụ án có đồng phạm về tội này nói riêng được nghiêm minh,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là những vấn đề có nội
dung phong phú và phức tạp được các luật gia và các nhà nghiên cứu luật
quan tâm chú ý và đề cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình
dưới góc độ luật hình sự, tội phạm học hoặc xã hội học pháp luật. Hiện nay, ở
nước ta có rất nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề đồng phạm nói chung
và đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng dưới các góc độ
khác nhau ở mức chuyên sâu hoặc khái quát hóa đã được công bố trên các
sách, tạp chí, luận văn luận án, nhưng tựu chung lại thì các nghiên cứu chủ
yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới góc độ tội phạm học, luật hình sự
và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình nghiên cứu
liên quan đến đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như: tiếp cận
dưới góc độ tội phạm học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới
của xã hội. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến đồng phạm trong tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản như: Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản
trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo sau đại học,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2011), Định tội
danh: lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
3


Một số vấn đề đồng phạm trong các tội xâm phạm sở hữu; Đối tượng của các

tội xâm phạm sở hữu; Vấn đề định tội danh trong các tội xâm phạm sở hữu,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật các số 11, 6, 2, 8 năm 1997 của PGS. TS.
Nguyễn Ngọc Chí; Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội
phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS.Trần Quang Tiệp (2007), Đồng
phạm trong luật Hình sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội; Lê Thúy Phượng
(1999), “Vấn đề định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong bộ luật hình sự năm
1999”, Tạp chí TAND; Lê Thị Sơn (2004), “Về dấu hiệu định lượng trong
BLHS”, Tạp chí luật học; Bùi Đăng Hiếu (2005), “Tiền một loại tài sản trong
quan hệ pháp luật hình sự”, Tạp chí Luật học; TS.Nguyễn Khắc Hải (2007)
“Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang
Nga”, Tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà Nội, Số 23/2007; TS.Nguyễn Khắc Hải
(2013), “Nhận diện tội phạm có tổ chức”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi
Bộ luật hình sự năm 1999, Khoa Luật ĐHQGHN.
Ngoài ra, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật
học chuyên ngành Tư pháp hình sự nghiên cứu có liên quan đến đồng phạm
trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như: Nguyễn Ngọc Chí (2000), "Trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu", Luận án tiến sĩ luật học, Viện
Nhà nước và pháp luật, Hà Nội; Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Lê Thị
Khanh (2002), Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh
sát nhân dân, Hà Nội; Phí Thành Trung (2010), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật
hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia
Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương (2011), Định tội danh đối với nhóm tội xâm
phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một số góc
4



độ về trường hợp đồng phạm hoặc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng chưa
công trình nào đi sâu vào nghiên cứu về đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản cả về phương diện lý luận và thực tiễn tại tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn tại tỉnh Thanh Hóa về đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
phân tích một cách khoa học và có căn cứ một số vấn đề chung có liên quan
đến đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để qua đó có được cái
nhìn thống nhất, tương đối đầy đủ và đóng góp về mặt khoa học để góp phần
giải quyết những vướng mắc đang được đặt ra khi xác định giải quyết các vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử về đồng phạm trong tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Cụ thể là:
- Khái niệm đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
- Một số sai lầm, thiếu sót trong thực tiễn xét xử và nguyên nhân của nó
đối với việc giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm tại
tỉnh Thanh Hóa.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về giới hạn vấn đề nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về đồng
phạm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam trong một tội phạm cụ thể đó
là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

5



Về giới hạn không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu
việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm trong việc xét
xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Về giới hạn thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu trong
giai đoạn 05 năm từ 2012 - 2016.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài nêu trên là thành tựu từ các chuyên ngành khoa
học pháp lý như: lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội
học pháp luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, tội phạm học, lĩnh
vực triết học, thành tựu từ các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách
chuyên khảo cũng như các bài đăng trên tạp chí và các báo của các nhà khoa
học – luật gia trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các
văn bản pháp luật của Nhà nước trong việc giải thích thống nhất các trường
hợp cụ thể trong thực tiễn xét xử có liên quan đến trường hợp trên trong các
văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do các cơ quan bảo vệ pháp luật ban
hành ở các mức độ khác nhau.
Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra
trong nghiên cứu là: phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật
biện chứng, phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lênin. Để từ đó xây
dựng, đề cập đến những vấn đề tương ứng trong các quan điểm về tư tưởng xây
dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế và bảo vệ các
quyền con người.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn đồng thời sử dụng các
phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra.
Các phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích –
chứng minh, logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích –
tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê,...Đặc
biệt trong đó tác giả nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ
6



thống, đối chiếu so sánh, lịch sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn,
phương pháp xã hội học,... để qua đó đưa ra được những kết luận khoa học
mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án cụ thể sao cho phù hợp
nhằm hoàn thiện và hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật hình sự có
liên quan đến vấn đề đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp xác định được
khái niệm, các đặc điểm của đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành; Trách nhiệm hình sự và hình
phạt đối trong vụ án có đồng phạm đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ đó
đưa ra những kiến nghị về mặt lập pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện quy
định về đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc xây dựng các
quy phạm pháp luật phù hợp, đầy đủ, có hệ thống sẽ là cơ sở pháp lý quan
trọng để giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu một cách khá toàn diện và có hệ thống về
việc áp dụng các quy định pháp luật về đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, phân tích những vấn đề chung về
giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh, từ đó tìm ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế trong việc giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, nêu lên những điểm bất cập trong các quy định của pháp luật hình sự hiện
hành về vấn đề này, đồng thời đưa ra những giải pháp, kiến giải để nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định về đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo Luật hình sự Việt Nam và trong thực tiễn áp dụng những quy định
này trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên,

7


có tính hệ thống và tương đối toàn diện về thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật về đồng phạm trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng
góp về mặt khoa học đã nêu trên.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các cơ quan
tiến hành tố tụng xác định và áp dụng đúng đắn, thống nhất các vấn đề về
định tội danh và quyết định hình phạt trong quá trình giải quyết vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có đồng phạm, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
các quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức cho
các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá
trình giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng phạm được
khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đồng
phạm tại tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và giải pháp bảo
đảm áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối
với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.


8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhận thức về đồng phạm và khái niệm đồng phạm trong tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Nhận thức về đồng phạm
Đồng phạm là một khái niệm thể hiện việc nhiều người tham gia vào
việc thực hiện tội phạm, phản ánh quy mô tội phạm. Nhưng không phải cứ có
nhiều người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó phải cố ý
cùng thực hiện một tội phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng không có
sự cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng phạm. Cùng cố ý
là có sự tiếp nhận về mặt ý chí giữa những người phạm tội. Dưới góc độ khoa
học luật hình sự, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về khái niệm đồng phạm
như sau: “Đồng phạm là hình thức phạm tội do cố ý được thực hiện với sự
tham gia của 2 người trở lên” [6, tr.458]. Theo đó để được coi là phạm tội
trong trường hợp đồng phạm đòi hỏi phải thỏa mãn các dấu hiệu khách quan
và các dấu hiệu chủ quan, tức là phải thỏa mãn “ba dấu hiệu khách quan và
hai dấu hiệu chủ quan có tính đặc trưng và bắt buộc” [64, tr.137].
Các dấu hiệu khách quan là sự tham gia của hai người trở lên vào việc
thực hiện tội phạm và có sự cùng chung hành động (hay liên hiệp hành động).
Sự tham gia của hai người trở lên vào việc thực hiện một tội phạm là dấu hiệu
bắt buộc thuộc về mặt khách quan của đồng phạm, nếu thiếu dấu hiệu về số
lượng người tham gia thực hiện một tội phạm thì sẽ không có cấu thành đồng
phạm. Tội phạm do một người thực hiện chỉ là trường hợp phạm tội riêng lẻ,
Cấu thành tội phạm độc lập, hậu quả phạm tội là do hành động và ý chí của
một người gây ra. Chỉ khi có từ hai hoặc nhiều người trở lên tham gia thực


9


hiện tội phạm thì mới có sự bàn bạc và cùng nhau hành động. Cùng chung
hành động (hay liên hiệp hành động) của những người tham gia vào việc thực
hiện tội phạm là dấu hiệu khách quan bắt buộc trong đồng phạm. Thực tiễn
cho thấy không phải bất cứ trường hợp nào cứ có hai hoặc nhiều người có
hành động phạm tội cố ý cùng một lúc, tại cùng một địa điểm thì có đồng phạm.
Đồng phạm đòi hỏi những người này phải cùng chung thực hiện một tội phạm
cố ý, có nghĩa là những hành vi có tính nguy hiểm đáng kể của họ được thực
hiện trong mối liên kết thống nhất, qua lại với nhau. Dấu hiệu chủ quan là sự
cùng cố ý của những người tham gia thực hiện tội phạm. Sự cùng cố ý của
những người tham gia thực hiện tội phạm: Dấu hiệu đặc trưng thuộc mặt chủ
quan của đồng phạm là phải có sự cùng cố ý của tất cả những người đồng
phạm để tham gia vào việc thực hiện tội phạm cố ý. Đây là dấu hiệu chủ quan
bắt buộc của đồng phạm, nếu thiếu dấu hiệu này sẽ không có đồng phạm. Sự
cùng cố ý được thể hiện cả về lý trí và ý chí. Về lý trí thì những người tham
gia trong đồng phạm phải hiểu rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình, cũng như hậu quả của nó [7, tr. 252-255]. Hoạt động phạm tội của
những người phạm tội phải được tất cả biết rõ và họ muốn những người
khác cùng mình hành động. Về ý chí, trên cơ sở tiếp tục cho những cơ sở
của lý trí, những người tham gia vào việc thực hiện tội phạm thể hiện mong
muốn có hoạt động phạm tội cùng nhau hoặc nếu hậu quả có xảy ra thì có ý
thức bỏ mặc. Nói cách khác, giữa những người đồng phạm đã cùng chung
hành động hay liên hiệp hành động trong việc cùng thực hiện một tội phạm.
Hành vi của mỗi người là một khâu cần thiết cho hoạt động phạm tội chung,
"nhằm thực hiện một tội phạm nhất định và để đạt được một kết quả phạm
tội thống nhất" [41, tr 196]. Hay nói một cách khác, phải có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi của mỗi người đồng phạm với hậu quả nguy hiểm cho

xã hội. Mối quan hệ nhân quả có thể mang tính chất trực tiếp như cung cấp

10


cho người thục hành công cụ, phương tiện phạm tội,… hoặc biểu hiện gián
tiếp thông qua nhận thức của người thực hiện như: xúi giục người thực hành,
giúp đỡ họ thực hiện tội phạm [67, tr.45]. Có thể khẳng định: nếu không có
mối quan hệ nhân quả nêu trên thì không xuất hiện đồng phạm (dấu hiệu
khách quan về mối quan hệ nhân quả). Những dấu hiệu chủ quan trong đồng
phạm bao gồm: có sự cố ý của những người tham gia thực hiện tội phạm và
động cơ - mục đích trong đồng phạm. Đồng phạm phải do cùng thực hiện tội
phạm với lỗi cố ý thể hiện trên hai phương diện: lý trí và ý chí. “Sự cùng cố ý
phạm tội làm cho ý chí của những người đồng phạm được thống nhất với
nhau và hành động phạm tội của mỗi người đều thống nhất trong sự chi phối
chung của sự cùng cố ý phạm tội” [63, tr.149]. Có thể có nhiều người đồng
phạm khác nhau như người tổ chức, người giúp sức, người xúi giục, người
thực hành với những hành vi tham gia vào việc thực hiện tội phạm tương ứng
như hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức cho việc thực hiện tội phạm. Tuy
nhiên là luôn phải có hành vi của người thực hành, hành vi của những người
đồng phạm khác chỉ thông qua hành vi của người thực hành để góp phần vào
kết quả chung của tội phạm. "Hành vi của những người đồng phạm khác chỉ
tạo ra khả năng phát sinh hậu quả, muốn chuyển khả năng ấy thành hiện thực
phải có hành vi của người thực hành" [62, tr.148].
Đồng phạm có thể phân loại thành đồng phạm thường, đồng phạm phức
tạp và đồng phạm đặc biệt. Trên phương diện lập pháp và thực tiễn thì đồng
phạm có tổ chức còn chưa được làm rõ và gặp nhiều quan điểm nhìn nhận
khác nhau. Phạm tội có tổ chức với tính chất là đồng phạm đặc biệt mà định
nghĩa pháp lý của nó được nhà làm luật Việt Nam ghi nhận trong pháp luật
hình sự hiện hành. Tuy nhiên phạm tội có tổ chức vẫn còn nhiều cách hiểu

khác nhau do sự ghi nhận còn chung chung, chưa làm rõ được sự “câu kết
chặt chẽ”. Có quan điểm cho rằng phạm tội có tổ chức là hình thức phạm tội đặc
11


biệt có sự câu kết chặt chẽ của những người cùng tham gia vào việc thực hiện tội
phạm hoặc của các thành viên cùng một tổ chức tội phạm [6, tr.460-461]. Sự câu
kết chặt chẽ của những người đồng phạm chính là đặc điểm chủ yếu nhất nói
lên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn cả của hình thức đồng
phạm này và nó thường có các dấu hiệu đặc trưng riêng về mặt khách quan và
chủ quan. Quan điểm khác lại cho rằng hình thức phạm tội có tổ chức được
thực hiện bởi những người đồng phạm đã tham gia vào một tổ chức tội phạm
được hình thành (hoặc không tham gia vào một tổ chức nào) với “phương
thức hoạt động có tính chất lâu dài, bền vững” [7, tr.267]. Cũng có quan điểm
nhận diện phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm đặc biệt – đó
chính là đồng phạm có tổ chức. Tính “có tổ chức” được thể hiện có sự bàn
bạc, phân công vai trò người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện hành
vi phạm tội, có kỷ luật, có quy ước hoạt động... trước khi thực hiện tội phạm
có vạch kết hoạch, có sự tính toán, cân nhắc kỹ càng, có đề ra các tình huống
xấu khi xảy ra … để cùng thống nhất hành động [69, tr.61]. Theo tính chất tồn
tại, phạm tội có tổ chức gồm: phạm tội có tổ chức một lần và phạm tội có tổ
chức kéo dài. “Phạm tội có tổ chức một lần (hoặc một số lần) là hình thức
phạm tội có tổ chức có sự câu kết chặt chẽ giữa những người phạm tội trong
thời gian tương đối ngắn để cùng nhau thực hiện một tội phạm hoặc một số
tội phạm” [39, tr.12]. Ở trường hợp này, những người đồng phạm mới chỉ
thực hiện tội phạm được một lần hoặc một số lần thì bị phát hiện, bị bắt và bị
truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng có thể thời gian câu kết để chuẩn bị phạm
tội đã diễn ra trong thời gian tương đối dài. Để tiếp cận khái niệm phạm tội có
tổ chức với tính chất là một hình thức phạm tội có tính nguy hiểm cao, trước
hết cần làm rõ đến khái niệm tội phạm có tổ chức bởi tội phạm có tổ chức

chính là hiện tượng tiêu cực mà trong đó những hoạt động phạm tội có tổ
chức (hay còn gọi là đồng phạm có tổ chức) được thực hiện bởi một nhóm
12


người có cơ cấu nhất định (câu kết với nhau) nhằm mục đích lợi nhuận hay
các mục đích khác. Ngoài những dấu hiệu mang tính chất của đồng phạm đã
nêu trên, phạm tội có tổ chức còn mang các nét đặc biệt so với đồng phạm nói
chung. Phạm tội có tổ chức không thể là trường hợp đồng phạm đơn giản, vì
nếu không có sự phân công vai trò thì không thể hiện được “tính có tổ chức”
của loại đồng phạm đặc biệt này. Cũng không thể đánh đồng phạm tội có tổ
chức với đồng phạm có thông mưu trước. Phạm tội có tổ chức và đồng phạm
có thông mưu trước là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất. Nội hàm của
khái niệm phạm tội có tổ chức chứa đựng những dấu hiệu của đồng phạm có
thông mưu và một số yếu tố khác. Nếu xét về tính chất cấu kết cũng như mức
độ nguy hiểm cho xã hội thì phạm tội có tổ chức có sự cấu kết chặt chẽ hơn
và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn hẳn. Điều này cho thấy: phạm tội có
tổ chức luôn là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao. Đồng
phạm có tổ chức có những đặc điểm cơ bản sau đây [42, tr.180-181]:
- Nhóm tội phạm trước hết phải có thông mưu trước, nhưng ngoài sự

bàn bạc, thỏa thuận trước về việc cùng thực hiện tội phạm, những người đồng
phạm thường chuẩn bị thực hiện và che giấu tội phạm một cách kỹ lưỡng với
phương pháp, thủ đoạn thường tinh vi, xảo quyệt.
- Nhóm tội phạm được hình thành với phương hướng hoạt động có tính

chất lâu dài, bền vững, thường có sự phân công vai trò thực hiện tội phạm
khác nhau giữa những người đồng phạm nhằm thực hiện nhiều tội, phạm tội
nhiều lần.
- Nhóm tội phạm ngoài ý đồ phạm tội thống nhất, phải có sự phối hợp


hoạt động giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm chịu
sự điều hành chung thống nhất, đều thừa nhận và sử dụng nhóm phạm tội như
là một công cụ trong hoạt động phạm tội của mình.

13


1.1.2. Khái niệm đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Lừa là thủ đoạn mưu mẹo hoặc thủ đoạn gian dối làm cho người khác
bị lầm mà tưởng thật. Trong đó, lừa đảo là lừa bằng thủ đoạn xảo trá để chiếm
đoạt của cải, tài sản [59]. Lừa đảo là hành vi gian dối để làm người khác tin
nhằm thực hiện những mục đích vụ lợi, trái pháp luật. Động cơ của người
thực hiện hành vi lừa đảo là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc làm
cho người khác hiểu sai sự thật mà tin tưởng ủng hộ mình. Để thực hiện thành
công công việc chiếm đoạt tài sản của người khác thì người có hành vi lừa
đảo thường sử dụng những lời nói gian dối như: thuyết trình, quảng cáo hay,
tốt… nhưng tất cả những việc làm đó không đúng với bản chất của vật hoặc
sự việc; người lừa đảo còn sử dụng các thủ đoạn và các hành vi gian dối khác
như: giả danh người có uy tín, có trách nhiệm, quyền hạn, có địa vị cao trong
xã hội hoặc làm giả các loại công văn, giấy tờ, chữ ký của những người có
thẩm quyền để làm cho người có tài sản tin tưởng vào họ và giao tài sản [20].
Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản
của nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân [7, tr. 217]. Chiếm đoạt là hành vi cố ý
chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác (hoặc của một
nhóm người) thành tài sản của mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm.
Hành vi chiếm đoạt có những đặc điểm sau:
- Chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện
quyền sở hữu, đồng thời tạo khả năng cho người phạm tội có thể thực hiện

được việc chiếm giữ, sử dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Hành vi
chiếm đoạt là một quá trình được bắt đầu từ khi người phạm tội thực hiện
hành vi chiếm đoạt và kết thúc khi đã tạo ra cho mình khả năng thực hiện các
quyền của quyền sở hữu và cũng có nghĩa là chủ sở hữu mất đi khả năng thực
hiện các quyền đó. Quá trình này dài hay ngắn tùy thuộc vào tính chất tài sản
và thủ đoạn chiếm đoạt.
14


- Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt phải còn nằm
trong sự quản lý của chủ sở hữu. Thiếu đặc điểm này thì tài sản không phải là
đối tượng của hành vi chiếm đoạt, như trường hợp tài sản của chủ sở hữu bị
thất lạc. Vì vậy, chỉ khi tài sản còn đang do chủ sở hữu quản lý mới là đối
tượng của hành vi chiếm đoạt, mới làm mất khả năng chiếm giữ, sử dụng định
đoạt tài sản của chủ sở hữu.
- Chiếm đoạt là hành vi được người phạm tội thực hiện có chủ đích nên
lỗi của tội này là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết tài sản thuộc sở hữu
của người khác và đang trong sự quản lý của họ, nhưng vẫn thực hiện hành vi
chiếm đoạt và mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình hoặc của
người khác mà mình quan tâm. Hành vi chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn những đặc điểm của hành vi chiếm đoạt, nếu
thiếu một trong các đặc điểm đó thì không được gọi là hành vi chiếm đoạt và
do đó không cấu thành tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Việc
xác định không đúng hành vi chiếm đoạt có thể dẫn đến xác định sai lầm giữa
phạm tội với vi phạm, giữa tội phạm này với tội phạm khác.
Như vậy, dấu hiệu chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua
hình thức mục đích chiếm đoạt hoặc hành vi chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt
là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm đối với tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.Tuy nhiên, xét về mặt khách quan hành vi chiếm đoạt là hành vi làm

cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó.Xét về mặt thực tế, chiếm đoạt là
quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có
tài sản đó; xét về mặt pháp lý, quá trình này không làm cho chủ sở hữu mất
quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền
cụ thể của quyền sở hữu.
15


Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý chuyển dịch một cách trái
pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác thành tài sản của
mình. Điểm cơ bản để phân biệt tội này với các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt tài sản khác được quy định trong Bộ luật Hình sự bởi đặc
điểm của hành vi chiếm đoạt tài sản, cụ thể là: trước khi thực hiện hành vi
bằng hình thức lừa đảo, người phạm tội có ý thức chiếm đoạt tài sản từ trước.
Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt phải là những tài sản
còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lý của người chủ tài sản.
Người phạm tội chủ đích sử dụng thủ đoạn gian dối nhằm làm cho
người bị hại trao nhầm tài sản.Vấn đề này được hiểu là người phạm tội sử
dụng mọi phương pháp đạt được mục đích chiếm đoạt tài tản bằng cách đưa
ra những thông tin không đúng sự thật như dùng lời nói dối trá, giấy tờ giả
mạo, giả danh người có chức vụ quyền hạn, giả danh các tổ chức để ký kết
hợp đồng không ngay thẳng hoặc kết hợp tất cả các cách làm nói trên. Với
những thủ đoạn này người phạm tội làm cho người chủ tài sản nhầm tưởng
giả là thật, tưởng kẻ gian là người ngay mà “tự nguyện” trao tài sản để họ
chiếm đoạt tài sản đó. Hành vi gian dối phải có trước hoặc đi liền với hành vi
chiếm đoạt. Tức là, phải bằng hành vi gian dối thì người chủ tài sản mới tin và
giao tài sản cho người phạm tội. Như vậy, để thực hiện được hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội phải có ý định chiếm đoạt tài sản từ

trước, sau đó mới dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu tài sản tin tưởng
trao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối của
người phạm tội là căn cứ để người bị hại “tự nguyện” trao tài sản.Như vậy,
đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn gian dối xuất hiện ngay từ
đầu, người phạm tội cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm làm cho
người khác tin đó là sự thật nhằm chiếm đoạt tài sản (thủ đoạn gian dối xuất
hiện trước hành vi chiếm đoạt). Sở dĩ có được long tin ở người quản lý tài sản

16


là do người phạm tội đã đưa ra các thong tin sai sự thật để tạo lòng tin ở
người quản lý tài sản. Hành vi gian dối có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi
chiếm đoạt và là điều kiện để hành vi chiếm đoạt thực hiện được. Mặt khác
hành vi chiếm đoạt cũng là mục đích và kết quả của việc thực hiện hành vi
gian dối [22, tr. 292].
Như vậy tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm sở hữu của người khác, có tính chất chiếm đoạt, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý, thông qua các thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu hoặc người
quản lý hợp pháp đối với tài sản tin nhầm, tưởng giả là thật mà trao tài sản
cho họ chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái pháp luật.
Tội phạm nói chung cũng như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng
không chỉ thực hiện bởi một người mà có thể được thực hiện bởi nhiều người
mà giữa họ đã có sự thống nhất ý chí cùng thực hiện một tội phạm, trường
hợp phạm tội đặc biệt này trong khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm.
“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một
tội phạm” (Điều 20 BLHS), do đó đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện tội phạm đó.
Với các phân tích trên cho thấy đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản là việc hai hay nhiều người có năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cố ý cùng tham gia vào việc thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác thông qua các thủ đoạn gian
dối làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với tài sản tin
nhầm, tưởng giả là thật mà trao tài sản cho họ chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt trái pháp luật.
Các dấu hiệu khách quan là sự tham gia của hai người trở lên vào việc
thực hiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và có sự cùng chung hành động (hay

17


×