I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN TH QUí
ĐồNG PHạM TRONG TộI TRộM CắP TàI SảN
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2016
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN TH QUí
ĐồNG PHạM TRONG TộI TRộM CắP TàI SảN
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN KHC HI
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Quý
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................ 8
1.1.
Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản .................................... 8
1.1.1.
Khái niệm đồng phạm.................................................................................... 8
1.1.2.
Khái niệm tội trộm cắp tài sản ....................................................................... 9
1.1.3.
Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản ........................................ 11
1.2.
Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ........................................ 13
1.2.1.
Khách thể của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ....................................... 13
1.2.2.
Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ............................. 16
1.2.3.
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ........................................... 19
1.2.4.
Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ................................. 20
1.3.
Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội
trộm cắp tài sản.......................................................................................... 21
Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN CÓ ĐỒNG
PHẠM TẠI HÀ GIANG ........................................................................... 29
2.1.
Một vài nét về tình hình kinh tế chính trị ảnh hưởng tới diễn biến
tội trộm cắp tài sản có đồng phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang............ 29
2.2.
Tình hình giải quyết và những kết quả đạt được trong công tác xét
xử các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm tại tỉnh Hà Giang ........... 31
2.3.
Một số tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết các vụ án trộm cắp
tài sản có đồng phạm tại tỉnh Hà Giang .................................................. 47
2.4.
Một số nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến thực tiễn
xét xử tội trộm cắp tài sản có đồng phạm tại Hà Giang ........................ 68
2.4.1.
Nguyên nhân về pháp luật ........................................................................... 68
2.4.2.
Nguyên nhân về áp dụng pháp luật ............................................................. 76
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỒNG PHẠM ĐỐI VỚI TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN .............................................................................. 79
3.1.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với tội
trộm cắp tài sản.......................................................................................... 79
3.2.
Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của BLHS Việt
Nam về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản ....................................... 88
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 96
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX:
Hội đồng xét xử
TAND:
Toà án nhân dân
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
UBND:
Ủy ban nhân dân
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1. Bảng so sánh các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội trộm
cắp tài sản từ năm 2010 -2015 trên địa bàn tỉnh Hà Giang
32
Bảng 2.2. Bảng so sánh các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội trộm
cắp tài sản có đồng phạm từ năm 2010 -2015 trên địa bàn
tỉnh Hà Giang
34
Bảng 2.3. Bảng những loại người đồng phạm trong tội trộm cắp
tài sản
36
Bảng 2.4. Bảng áp dụng hình phạt đối với các bị cáo đồng phạm
trong tội trộm cắp tài sản
39
Bảng 2.5. Bảng kết quả xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo trong
các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm
44
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trộm cắp tài sản là tội rất phổ biến trên địa bàn cả nước, trong đó có tỉnh Hà
Giang. Trộm cắp tài sản có thể do một người thực hiện, cũng có thể do nhiều người
thực hiện. Khi tội trộm cắp tài sản có sự tham gia thực hiện bởi nhiều người và những
hành vi này có sự liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau thì trường hợp đó được gọi là
đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Đồng phạm nói chung và đồng phạm trong tội
trộm cắp tài sản nói riêng là hình thức phạm tội “đặc biệt”, đòi hỏi những điều kiện
riêng, khác với những trường hợp phạm tội riêng lẻ (về số lượng người tham gia
phạm tội, mối liên hệ giữa các đối tượng trong cùng vụ án cũng như tội phạm mà cả
nhóm hướng tới thực hiện). So với tội trộm cắp tài sản do một người thực hiện, đồng
phạm trong tội trộm cắp tài sản thường nguy hiểm hơn vì khi một nhóm người cùng
cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ
tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ về tổ chức và cách thức thực hiện,
phát triển thành “phạm tội có tổ chức”, do đó việc xác định trách nhiệm hình sự đối
với những người đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản có một số điểm khác với
những trường hợp phạm tội trộm cắp do một cá nhân thực hiện.
Trong khoa học Luật hình sự, căn cứ vào các đặc điểm về mặt chủ quan và
khách quan của tội trộm cắp tài sản, đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản có thể
chia ra nhiều hình thức: đồng phạm có thông mưu trước trong tội trộm cắp tài sản,
đồng phạm không có thông mưu trước trong tội trộm cắp tài sản; đồng phạm giản
đơn trong tội trộm cắp tài sản và đồng phạm phức tạp trong tội trộm cắp tài sản.
Ngoài ra còn có một trường hợp đặc biệt về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản,
đó là trộm cắp tài sản có tổ chức. Trong các hình thức đồng phạm trộm cắp tài sản
thì chỉ trộm cắp tài sản có tổ chức là tình tiết tăng nặng và tình tiết định khung
hình phạt. Chỉ trên cơ sở nắm vững về các vấn đề lý luận như hình thức đồng
phạm trong tội trộm cắp tài sản, đặc điểm đồng phạm trộm cắp tài sản, cũng như
hiểu sâu sắc các quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn về đồng
1
phạm và tội trộm cắp tài sản thì mới vận dụng tốt khi giải quyết các vụ án trộm
cắp tài sản có đồng phạm.
Tuy nhiên thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử cho thấy nhận thức về
đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản hiện nay chưa được thống nhất giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng, vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến trái ngược nhau. Những
ý kiến khác nhau này đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án trộm cắp tài sản có
đồng phạm. Do quy định của pháp luật về chế định đồng phạm chưa được hoàn
thiện, nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng về đồng phạm trong tội trộm cắp
tài sản còn hạn chế nên việc phân định giữa các hình thức đồng phạm, xác định vai
trò, tính chất, mức độ tham gia của từng người đồng phạm còn chưa thống nhất,
chính xác, ảnh hưởng đến công tác xét xử của một số Tòa án tại tỉnh Hà Giang.
Những tồn tại, hạn chế này còn do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan,
song việc xác định, đánh giá đồng phạm trong các vụ án trộm cắp tài sản thiếu
chính xác sẽ dẫn đến việc định tội danh, phân hóa trách nhiệm hình sự và quyết
định hình phạt đối với các người đồng phạm nhiều khi bị đánh đồng, chưa lượng
hóa được hình phạt phù hợp với vai trò và các tình tiết của vụ án đối với họ.
Những luận điểm nêu trên đã chứng tỏ lý do nghiên cứu đề tài “Đồng phạm
trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn địa
bàn tỉnh Hà Giang) là quan trọng và cấp thiết trong việc hoàn thiện và áp dụng
đúng pháp luật hình sự nhằm bảo đảm xét xử vụ án hình sự được nghiêm minh,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản là những vấn đề có nội dung phong
phú và phức tạp được các luật gia và các nhà nghiên cứu luật quan tâm chú ý và đề
cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình dưới góc độ luật hình sự, tội
phạm học hoặc xã hội học pháp luật. Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều cách tiếp cận,
nghiên cứu vấn đề đồng phạm nói chung và đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
nói riêng dưới các góc độ khác nhau ở mức chuyên sâu hoặc khái quát hóa đã được
công bố trên các sách, tạp chí, luận văn luận án, nhưng tựu chung lại thì các nghiên
2
cứu chủ yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới góc độ tội phạm học, luật hình sự
và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình nghiên cứu liên
quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: tiếp cận dưới góc độ tội phạm
học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình
nghiên cứu liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: Lê Văn Cảm
(2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách
chuyên khảo sau đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Cảm và Trịnh Quốc
Toản (2011), Định tội danh: lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội; TS.Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong luật Hình sự
Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội; Đặng Xuân Mai (1989), Làm gì để phòng chống
tội phạm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2010), Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 phần các tội phạm,
Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học BLHS
phần các tội phạm, Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh;Viện nghiên cứu khoa học
pháp lý (1993), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Nguyễn Văn Hảo (1962), Bộ luật hình sự Việt Nam, Bộ Tư Pháp, Sài Gòn;
Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam, (Quyển I – Phần chung), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội;Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình luật hình sự
Việt Nam, tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội…
Ngoài ra, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học
chuyên ngành Tư pháp hình sự nghiên cứu có liên quan đến đồng phạm trong tội
trộm cắp tài sản như: Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh
phòng chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Lê Thị
Khanh (2002), Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân,
Hà Nội; Phí Thành Trung (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương
3
(2011), Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai
đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội,
Hà Nội… và một số bài viết, nghiên cứu khác có liên quan như: Lê Văn Cảm (2005)
“Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm”, Tạp chí TAND; Lê Thúy
Phượng (1999), “Vấn đề định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong bộ luật hình sự năm
1999”, Tạp chí TAND; Lê Thị Sơn (2004), “Về dấu hiệu định lượng trong BLHS”,
Tạp chí luật học; Bùi Đăng Hiếu (2005), “Tiền một loại tài sản trong quan hệ pháp
luật hình sự”, Tạp chí Luật học; Bộ Tư pháp (1998),“Luật hình sự của một số nước
trên thế giới”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề; TS.Nguyễn Khắc Hải
(2007) “Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang
Nga”, Tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà Nội, Số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ
chức”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999…
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một số góc độ về
trường hợp đồng phạm hoặc tội trộm cắp tài sản, nhưng chưa công trình nào đi sâu
vào các khía cạnh đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản cả về phương diện lý luận
và thực tiễn tại tỉnh Hà Giang.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề mặt lý luận và thực
tiễn tại tỉnh Hà Giang về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản, phân tích một cách
khoa học và có căn cứ một số vấn đề có liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp
tài sản để qua đó có được cái nhìn thống nhất, tương đối đầy đủ và đóng góp về mặt
khoa học để góp phần giải quyết những vướng mắc đang được đặt ra khi xác định
giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự
Việt Nam và thực tiễn xét xử về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Hà Giang.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:
4
- Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
- Các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
- Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
- Thực tiễn xét xử và một số tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân đối với việc
giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm tại tỉnh Hà Giang
6. Phạm vi nghiên cứu
Về giới hạn vấn đề nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về đồng phạm
theo quy định của Luật hình sự Việt Nam trong một tội phạm cụ thể đó là tội trộm
cắp tài sản.
Về giới hạn không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc áp
dụng các quy định của pháp luật đồng phạm trong việc xét xử tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Về giới hạn thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu trong giai
đoạn 6 năm từ 2010 - 2015.
7. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài nêu trên là thành tựu từ các chuyên ngành khoa học
pháp lý như: lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp
luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, tội phạm học, lĩnh vực triết học,
thành tựu từ các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách chuyên khảo cũng
như các bài đăng trên tạp chí và các báo của các nhà khoa học – luật gia trong nước
và quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước
trong việc giải thích thống nhất các trường hợp cụ thể trong thực tiễn xét xử có liên
quan đến trường hợp trên trong các văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do các
cơ quan bảo vệ pháp luật ban hành ở các mức độ khác nhau.
Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra trong
nghiên cứu là: phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng,
phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Để từ đó xây dựng, đề cập đến
những vấn đề tương ứng trong các quan điểm về tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp
quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế và bảo vệ các quyền con người.
5
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn đồng thời sử dụng các
phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra. Các
phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích – chứng minh,
logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương
pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê,...Đặc biệt trong đó tác giả
nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ thống, đối chiếu so sánh, lịch
sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn, phương pháp xã hội học,... để qua đó đưa
ra được những kết luận khoa học mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án
cụ thể sao cho phù hợp nhằm hoàn thiện và hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ
luật hình sự có liên quan đến vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.
8. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp xác định được khái
niệm, các đặc điểm của đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản; Dấu hiệu pháp lý của
tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999; Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội trộm cắp tài
sản từ đó đưa ra những kiến nghị về mặt lập pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện quy
định về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Việc xây dựng các quy phạm pháp
luật phù hợp, đầy đủ, có hệ thống sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết vấn
đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu một cách khá toàn diện và có hệ thống về việc
áp dụng các quy định pháp luật về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Hà Giang, phân tích những vấn đề chung về giải quyết vấn đề đồng phạm trong
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh, từ đó tìm ra những tồn tại, hạn chế, nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn, nêu lên những điểm bất cập trong các quy định của
pháp luật hình sự hiện hành về vấn đề này, đồng thời đưa ra những giải pháp, kiến
giải để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về đồng phạm trong tội trộm cắp tài
sản theo Luật hình sự Việt Nam và trong thực tiễn áp dụng những quy định này trên
địa bàn tỉnh Hà Giang.
6
9. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, có tính
hệ thống và tương đối toàn diện về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về
đồng phạm trong vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng xác định và áp dụng đúng đắn, thống nhất các vấn đề về định tội danh
và quyết định hình phạt trong quá trình giải quyết vụ án trộm cắp tài sản có đồng
phạm, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành
cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng
dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên
ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn
còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức cho các cán bộ thực tiễn đang công
tác tại các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án trộm cắp
tài sản có đồng phạm được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
theo Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản có đồng phạm tại Hà Giang.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và giải pháp bảo đảm
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với tội
trộm cắp tài sản.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm đồng phạm
“Đồng” theo Từ điển tiếng Việt nghĩa là cùng như nhau, không thể khác
được. “Phạm” là làm tổn hại đến cái cần tôn trọng, mắc phải điều cần tránh. Đồng
phạm nghĩa là cùng phạm tội hiểu theo nghĩa của luật hình sự” [3, tr. 245].
Nghiên cứu pháp luật hình sự các nước, chúng ta thấy quan niệm không
giống nhau về khái niệm đồng phạm. Điểm qua quy định của một số nước trên thế
giới quy định về khái niệm đồng phạm thấy rằng:
Bộ luật hình sự (BLHS) Thụy Điển quy định về người đồng phạm là người
phối hợp với người khác cùng thực hiện một hành vi phạm tội hoặc một người tìm
cách xúi giục người khác phạm tội hoặc đề nghị người khác phạm tội. “Khi xét xử
từng người đồng phạm phải căn cứ vào việc người đó tham gia thực hiện tội phạm
do cố ý hay vô ý” (Điều 4 – Chương 23). Như vậy, luật hình sự một số nước quan
niệm đồng phạm có cả trong những tội phạm thực hiện do lỗi vô ý.
BLHS Pháp cũng quy định về chính phạm và đồng phạm (tòng phạm). Theo
đó, chính phạm là người thực hiện các hành vi bị coi là tội phạm hoặc chuẩn bị thực
hiện một trọng tội hoặc khinh tội trong trường hợp luật quy định (Điều 121.4).
Người có ý thức giúp đỡ hoặc trợ lực và đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn
bị hoặc thực hiện tội phạm bị coi là đồng phạm của một trọng tội hoặc khinh tội.
Người dùng tặng vật, hứa hẹn, đe dọa, dùng mệnh lệnh, lạm dụng chức vụ hoặc
quyền hạn để xúi giục hoặc có các chỉ dẫn để cho người khác thực hiện tội phạm
cũng bị coi là đồng phạm (Điều 121.7).
BLHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1979 tại Điều 22 quy định:
“Hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”. Theo Điều
33 BLHS của Liên Bang Nga cũng có quy định: “Hai hay nhiều người cùng cố ý
8
thực hiện một tội cố ý là đồng phạm”. Như vậy pháp luật hình sự của các nước trên
thế giới có những quy định rất đa dạng về đồng phạm.
Tại Việt Nam, trước khi ban hành BLHS năm 1985 thì chưa có một văn bản
pháp luật hình sự nào quy định thống nhất về khái niệm đồng phạm đối với tội
phạm nói chung. Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc xử lý về hình sự đối với
những trường hợp nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm, BLHS đã có điều
luật riêng quy định về đồng phạm. Khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự 1999 quy định
đồng phạm là trường hợp “có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật hình sự, có thể đưa ra định nghĩa khoa
học về khái niệm đồng phạm như sau:“Đồng phạm là hình thức phạm tội do cố ý
được thực hiện với sự tham gia của 2 người trở lên” [5, tr. 458].
1.1.2. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản là một loại tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất phổ
biến trong xã hội. Hiện nay trên thế giới tồn tại hai khuynh hướng khi quy định về
tội trộm cắp tài sản trong văn bản pháp luật hình sự. Khuynh hướng thứ nhất không
đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội trộm cắp tài sản mà mặc nhiên thừa
nhận nó. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là điển hình cho khuynh hướng này, Điều
264 Bộ luật hình sự nước này quy định: “Người nào trộm cắp tài sản, tiền bạc công
hoặc tư, thì bị phạt đến ba năm tù”.
Khuynh hướng thứ hai có quy phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài
sản. Các nước như Liên bang Nga, Cộng hòa liên băng Đức, Nhật Bản, Malaixia,
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào… đều thuộc khuynh hướng này. Điều 158 Liên
bang Nga năm 1986 quy định: “Trộm cắp là (hành vi) bí mật chiếm đoạt tài sản của
người khác” [2, tr. 32]. Dựa trên cơ sở khái niệm này có thể xác định dấu hiệu cơ
bản của tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản; sự chiếm đoạt tài sản
được thể hiện một cách bí mật; tài sản bị chiếm đoạt phải là tài sản của người khác.
Điều 142 BLHS của Cộng hòa liên băng Đức được ban hành năm 1871 và được sửa
đổi bổ sung nhiều lần phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội đưa ra khái
niệm của tội trộm cắp tài sản: “Người nào lấy đi vật là động sản của người khác, với
9
mục đích chiếm đoạt vật này, thì bị phạt tù đến năm năm hoặc phạt tiền”. Khái niệm
này cho thấy đối tượng của tội trộm cắp tài sản phải là động sản, bất động sản
không thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Điều 253 BLHS Nhật Bản
ban hành năm 1907 đã sửa đổi bổ sung nhiều lần cũng quy định: “Người nào lấy
cắp tài sản của người khác thì bị phạt tù đến 10 năm”. Như vậy, bộ luật chỉ xác
định đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản của người khác, không
mô tả thêm bất kỳ dấu hiệu pháp lý nào khác của tội phạm. Từ những dẫn chứng
trên ta thấy rõ một số nét tương đồng cơ bản trong pháp luật hình sự ở một số nước.
Sự khác biệt xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống lập pháp hình sự
và kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm của từng nước.
Tại Việt Nam, trong các bộ luật phong kiến trước đây đều đã từng thể hiện rõ
cả hai khuynh hướng này. Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long tuy có quy định
nhiều về tội trộm cắp cụ thể nhưng không có quy phạm định nghĩa về tội này.
Ngược lại, Hình Luật Canh Cải và Hoàng Việt Luật Lệ lại có quy định về khái niệm
tội trộm cắp tài sản. Ví dụ Điều 381 Hình Luật Canh Cải quy định: “Người nào
dùng sự gian mà lấy đồ (vật) của người ta, thì phạm tội ăn trộm” [13, tr. 141-149].
Các văn bản pháp luật hình sự của nhà nước ta sau Cách mạng Tháng 8 lại thể hiện
khuynh hướng thứ nhất, không có quy phạm định nghĩa về tội trộm cắp tài sản, chỉ
quy định tội danh một cách đơn giản. Cách quy định này thể hiện rõ trong các Điều
132, 155 Bộ luật hình sự năm 1985 và Điều 138 BLHS năm 1999.
Giáo trình trường Đại học luật Hà Nội đưa ra định nghĩa về tội trộm cắp tài
sản: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản có chủ” [69, tr. 383];
Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm, Tập 2 – Đinh Văn Quế “Trộm cắp tài
sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác” [25, tr. 196]. Khái niệm
trên không thể hiện rõ một số dấu hiệu pháp lý khác của tội trộm cắp tài sản như dấu
hiệu về lỗi, dấu hiệu về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể tội phạm.
Để đưa ra được khái niệm về tội trộm cắp tài sản, trước hết cần khẳng định
tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm mà theo
TSKH.PGS Lê Cảm là phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm của nó là:
10
a) bình diện khách quan – tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội; b) bình diện pháp lý – tội phạm là hành vi trái pháp luật hình
sự; c) bình diện chủ quan- tôi phạm là hành vi do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách có lỗi [4, tr.105].
Tổng kết các quan điểm trên ta có thể đưa ra một khái niệm về tội trộm cắp
tài sản như sau: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc
quyền sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý.
1.1.3. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
Tội phạm nói chung cũng như tội trộm cắp tài sản nói riêng không chỉ thực
hiện bởi một người mà có thể được thực hiện bởi nhiều người mà giữa họ đã có sự
thống nhất ý chí cùng thực hiện một tội phạm, trường hợp phạm tội đặc biệt này
trong khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm.
“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm” (Điều 20 BLHS), do đó đồng phạm trộm cắp tài sản là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của nước ta, chúng ta thấy vấn đề đồng
phạm trong tội trộm cắp tài sản đã được luật hình sự Việt Nam quy định từ rất sớm.
Trong thời kỳ phong kiến, Bộ luật Gia Long đã có quy định về trường hợp đồng
phạm trong tội trộm cắp tài sản tại Điều 238: “10 người cùng ăn trộm của cải một
nhà, tính tang của (giá trị tang vật) đến 40 lạng bạc dẫu chia nhau, mỗi người được 4
lạng, nhưng mà tính gộp một chỗ thì 10 người đều phải ăn trộm 40 lạng” nghĩa là đối
với giá trị tài sản bị chiếm đoạt được tính gộp lại và những người đồng phạm đều
phải chịu trách nhiệm chung về tội phạm. Ở thời Pháp thuộc, Hình Luật Canh Cải bên
cạnh việc đưa ra quy định về khái niệm tội trộm cắp tài sản tại Điều 379 còn quy định
về trường hợp “Trộm cắp tài sản có từ hai người trở lên tham gia” là tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự của Tội trộm cắp tài sản. Sau này trong Hình luật An Nam
và Hoàng Việt Luật Lệ cũng sao chép lại quy định này từ Hình Luật Canh Cải.
11
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, pháp luật hình sự nước ta đã có sự
phân biệt giữa các hình thức đồng phạm khác như: “Trộm cắp phạt tù từ ba tháng
đến ba năm; cướp đường hay trộm có tổ chức, có bạo lực, có dùng vũ khí để dọa
nạt thì phạt tù từ ba đến mười năm” (Thông tư 442 – TTg của Thủ Tướng Chính
Phủ ngày 19/01/1955 về trừng trị một số tội phạm) để phân biệt với các hình thức
đồng phạm đơn giản, “phạm tội có tổ chức” trở thành tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Tinh thần này vẫn được Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình
sự năm 1999 giữ vững.
Trong thực tế, đồng phạm trong trộm cắp tài sản được thể hiện dưới những
hình thức khác nhau như đồng phạm giản đơn, đồng phạm phức tạp và phạm tội có
tổ chức trong đó phạm tội trộm cắp tài sản có tổ chức là hình thức đồng phạm rất
phổ biến, gây thiệt hại lớn cho xã hội.
Đồng phạm đơn giản là hình thức đồng phạm không có sự thông mưu trước
của những người cùng thực hiện tội phạm, tất cả những người đồng phạm đều có
vai trò là người thực hành. Có nghĩa là, mỗi người đồng phạm đều thực hiện hành vi
khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của Điều 138 BLHS.
Đồng phạm phức tạp là hình thức đồng phạm có sự phân công vai trò của
những người cùng tham gia thực hiện tội phạm, trong đó ngoài một hoặc một số
người có vai trò là người thực hành, còn có sự tham gia của những người đồng
phạm khác như người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức. Ở hình thức
đồng phạm phức tạp chỉ có một hoặc một số người đồng phạm (người đồng thực
hành) thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999).
Theo quy định tại khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 thì trong đồng phạm có
tổ chức, giữa những người cùng thực hiện tội phạm phải có sự câu kết chặt chẽ với
nhau, có sự phân công vai trò, nhiệm vụ cụ thể, có sự tính toán và chuẩn bị kỹ càng,
chu đáo trong việc cùng tham gia thực hiện tội phạm.
Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC)
tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16/11/1988 hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số
12
02/HĐTP ngày 05/01/1986 khi giải thích khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 về
"Phạm tội có tổ chức" thì phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm, sự câu kết này, theo hướng dẫn của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, có thể thể hiện dưới các dạng sau:
a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như đảng phái,
hội đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… có những người chỉ huy, cầm đầu. Tuy
nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập
trung những người chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội;
b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế
hoạch đã thống nhất trước;
c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần nhưng đã tổ chức
thực hiện tội phạm theo một kế hoạch đã được tính toán kỹ càng, chu đáo, có sự chuẩn
bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm.
Chính vì tính nguy hiểm cao hơn của hình thức đồng phạm này so với hình thức
đồng phạm thông thường nên Điều 138 BLHS năm 1999 quy định tình tiết “phạm tội
có tổ chức” là tình tiết định khung tăng nặng (điểm a Khoản 2 Điều 138 BLHS).
Ngoài ra, đối với đồng phạm trộm cắp tài sản, không chỉ có đồng phạm hành
động mà còn có đồng phạm không hành động, đó là trường hợp những người đồng
phạm trộm cắp tài sản không hành động phạm tội, ví dụ: A đã thỏa thuận với B là
bảo vệ của cơ quan không khóa cửa kho để đến đêm A vào kho lấy trộm tài sản của
cơ quan. Trong trường hợp này A và B là đồng phạm trộm cắp tài sản, A là người
thực hành còn B là người giúp sức (không hành động).
Với các phân tích trên cho thấy đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản là việc
hai hay nhiều người cố ý cùng lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của
người khác.
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm
Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp
13
của các tổ chức và của công dân trong xã hội, chống lại mọi hành vi phạm tội. Tội
trộm cắp tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu của tổ chức và của công dân, đó là các
quyền được bảo hộ trong Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh việc xâm phạm quyền
sở hữu, tội phạm còn gây nguy hại đến trật tự công cộng. Khi tội trộm cắp tài sản
xảy ra thì không chỉ người chủ sở hữu mất tài sản mà các hoạt động khác như sản
xuất, kinh doanh, sinh hoạt bình thường của chủ sở hữu cũng có thể bị ảnh hưởng
và mất trật tự an toàn xã hội nơi xảy ra tội phạm [20, tr. 63]; [22, tr. 20]; [32, tr. 47].
Luật dân sự quy định rõ, trong nội dung quyền sở hữu gồm ba quyền là:
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Khi xâm phạm đến quyền sở
hữu của chủ tài sản, tội trộm cắp tài sản đồng thời xâm phạm đến cả ba quyền trên
hoặc một trong ba quyền trên. Quyền sở hữu về tài sản được nhà nước bảo vệ thông
qua các quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Do vậy, khách thể
của tội trộm cắp tài sản chính là sự xâm phạm vào quyền sở hữu hợp pháp của nhà
nước, cơ quan, tổ chức, công dân. Tùy theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của sự
chiếm đoạt mà có các hình thức xử lý khác nhau về chế tài hình sự. Khi có hành vi
trộm cắp tài sản (hành vi chiếm đoạt tài sản) làm cho chủ sở hữu tài sản không có
khả năng thực hiện được các quyền năng đó của mình trên thực tế, nghĩa là quyền
sở hữu tài sản của họ bị xâm phạm.
Điều 105, Bộ luật dân sự Việt Nam quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
Vật là một hình thức tài sản và có thể trở thành đối tượng tác động của tội
trộm cắp tài sản. Khi là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản, vật phải nằm
trong sự chiếm hữu của con người. Đối với trường hợp người chủ sở hữu chủ
động từ bỏ quyền sở hữu của mình và dịch chuyển tài sản ra khỏi phạm vi quản
lý, thì tài sản này được coi là tài sản vô chủ, hành vi lấy đi loại tài sản này không
bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản [18, tr. 25]. Hành vi lấy đi tài sản của mình,
do mình quản lý hoặc tài sản không còn nằm trong sự quản lý của chủ tài sản
như tài sản bị bỏ quên, đánh rơi, tài sản vô chủ thì không phải là hành vi trộm
cắp tài sản. Các hành vi này có thể cấu thành tội khác như tội chiếm giữ trái
phép tài sản (Điều 141 BLHS).
14
Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản còn có thể là tiền, các
loại giấy tờ trị giá được bằng tiền. Tiền bao gồm tiền Việt Nam và tiền nước ngoài.
Những loại tiền cũ có giá trị văn hóa [14, tr. 37].
“giấy tờ có giá”, chỉ có giấy tờ có giá vô danh mới có thể trở thành đối
tượng tác động của tội trộm cắp tài sản vì khi lấy nó người phạm tội mới thực hiện
được quyền của chủ sở hữu, còn với giấy tờ có giá ghi danh chỉ có chủ sở hữu mới
có thể thực hiện được quyền sở hữu của mình nó không thể bị dịch chuyển một cách
trái phép bởi hành vi chiếm đoạt. Đối với tài sản là “quyền tài sản” như quyền đòi
nợ..., nó tồn tại dưới dạng vô hình không nhìn thấy sờ thấy nó gắn liền với một chủ
thể nhất định, trình tự xác lập thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản đó tuân theo
quy định pháp luật và không thể bị dịch chuyển trái phép bởi hành vi chiếm đoạt
nên “quyền tài sản” cũng không phải là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.
Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải tồn tại dưới dạng
một động sản theo quy định của BLDS. Những tài sản thuộc loại bất động sản có
tính chất vật lý cố định không di dời được như đất đai, nhà cửa... không là đối tượng
tác động của tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên có một số tài sản nếu tách riêng thì nó
là động sản nhưng luật dân sự quy định là bất động sản do công dụng của nó như
cánh cửa gắn liền với ngôi nhà, cây cối trồng trên đất... vẫn có thể là đối tượng tác
động của tội trộm cắp tài sản. Đối với tài sản đặc thù pháp luật có quy định riêng
như: tàu bay, tàu thuỷ, vũ khí quân dụng, phương tiện kĩ thuật quân sự, đất đai,
chiến lợi phẩm... không thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản dù nó có
bị hành vi phạm tội xâm hại tới, mà nó sẽ là đối tượng tác động của các tội phạm
khác như tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ (Điều 221 BLHS), tội chiếm đoạt vũ khí
quân dụng phương tiện kĩ thuật quân sự (Điều 230 BLHS)...
Đối với tội trộm cắp tài sản, hành vi phạm tội là hành vi chiếm đoạt tài sản
của người khác, đó là sự dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản của người khác
thành tài sản của mình làm biến đổi tình trạng bình thường của tài sản. Tài sản có
thể thuộc quyền sở hữu của công dân Việt Nam, của người nước ngoài của các tổ
chức trong nước và quốc tế tại Việt Nam, của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
15
Việt Nam cũng như của các nước khác tại Việt Nam đều được pháp luật hình sự
Việt Nam bảo vệ.
Đối với hành vi trộm cắp tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài
sản thì khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ sở hữu tài sản, đối với những
tài sản không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản như: tài sản do chiếm
hữu bất hợp pháp, tài sản do phạm tội mà có... trong trường hợp này khách thể của
tội trộm cắp tài sản là quan hệ xã hội liên quan đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi
lén lút lấy đi tài sản của người khác với mục đích chiếm đoạt và tài sản này là bất
hợp pháp thì về tính chất pháp lý hành vi trên vẫn cấu thành tội trộm cắp tài sản và
người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Các quan hệ sở hữu tài sản, quan hệ xã hội liên quan đến trật tự an toàn xã
hội (đối với những tài sản không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản)
chính là khách thể trong vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm bị người thực hành
xâm hại. Do đó khách thể của tội trộm cắp tài sản (có nhiều người tham gia) cũng
chính là khách thể của tội trộm cắp tài sản (do một người thực hiện).
1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm
Nghiên cứu mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản, chúng ta lần lượt
nghiên cứu về hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội trộm
cắp tài sản.
Thứ nhất, hành vi khách quan đặc trưng của tội trộm cắp tài sản. Điều 138 Bộ
luật hình sự không mô tả thế nào là hành vi trộm cắp tài sản mà chỉ quy đinh: Người
nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ… thì… Như vậy, hành vi khách
quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi trộm cắp, biểu hiện cơ bản nhất trong mặt
khách quan của tội phạm. Hành vi khách quan đặc trưng của tội trộm cắp tài sản là
hành vi lén lút lấy đi tài sản của người khác với mục đích chiếm đoạt tài sản của
người đó. Lén lút có nghĩa là người phạm tội có ý thức che giấu hành vi phạm tội của
mình đối với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản khi phạm tội. Trường hợp người
lấy tài sản chỉ che giấu hành vi phạm tội của mình đối với người chủ sở hữu hoặc
16
người quản lý, bảo vệ tài sản nhưng lại để người khác thấy được hành vi phạm tội của
mình thì vẫn phạm tội trộm cắp tài sản [70, tr. 176]. Trong nhiều trường hợp, người
phạm tội có ý định trộm cắp tài sản và khi đang thực hiện tội phạm đó thì bị phát
hiện, người phạm tội không thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách lén lút nữa
mà thực hiện hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn khác thì hành vi phạm tội có thể cấu
thành các tội khác như tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS), tội cưỡng đoạt tài sản
(Điều 135 BLHS), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137 BLHS)…
Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác phải do hai người trở lên
cùng tham gia thực hiện thì mới được coi là đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.
Họ có thể tham gia tội trộm cắp tài sản với một trong các hành vi sau: hành vi thực
hành tội trộm cắp tài sản, người có hành vi này gọi là người thực hành; hành vi tổ
chức việc thực hiện tội trộm cắp tài sản, người có hành vi này gọi là người tổ chức;
hành vi xúi giục người khác thực hiện tội trộm cắp tài sản, người có hành vi này gọi
là người xúi giục; hành vi giúp người khác thực hiện tội trộm cắp tài sản, người có
hành vi này gọi là người giúp sức, ví dụ: A có ý định trộm cắp tài sản nên bàn với B
và nhờ B đánh hộ chìa khóa để mở cửa vào nhà người khác trộm cắp tài sản. Trong
trường hợp này A và B là đồng phạm trộm cắp tài sản, A là người thực hành còn B
là người giúp sức.
Vấn đề phạm tội có tổ chức là trường hợp đặc biệt của đồng phạm có tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp phạm tội thông thường vì
chúng thể hiện sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Về
mặt khách quan thì phạm tội có tổ chức thường có một số đông người tham gia thực
hiện hành vi trộm cắp tài sản, có sự phân công vai trò, nhiệm vụ cụ thể, có sự tính
toán và chuẩn bị kỹ càng, chu đáo trong hoạt động phạm tội.
Thứ hai, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của trộm cắp tài sản là những thiệt
hại do người phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra do khách thể của tội phạm. Tội
trộm cắp tài sản xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu của người chủ tài sản, đó là
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Những hành vi chỉ được coi là phạm tội trộm cắp tài sản trong những trường
hợp giá trị tài sản họ chiếm đoạt từ hai triệu đồng trở lên, hoặc nếu giá trị tài sản bị
17
chiếm đoạt dưới hai triệu đồng thì phải thỏa mãn một trong những điều kiện là gây
hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị sử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã
bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Tội trộm
cắp tài sản chỉ coi là hoàn thành khi người thực hiện hành vi trộm cắp đã chiếm đoạt
được tài sản, còn khi họ chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của họ chưa cấu
thành tội phạm.
Phạm tội trộm cắp tài sản do chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai triệu đồng trở
lên là trường hợp người phạm tội một lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá
trị từ hai triệu đồng trở lên.
Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản, nhưng
mỗi lần giá trị tài sản dưới hai triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp
khác để truy cứu trách nhiệm hình sự. (gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành
chính, đã bị kết án nhưng chưa xóa án tích..), đồng thời trong các hành vi trộm cắp đó
chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, thì
người thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản phải bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội trộm cắp tài sản theo tổng số giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu
thuộc một trong các trường hợp: các hành vi trộm cắp tài sản được thực hiện một
cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, việc thực hiện các hành vi trộm cắp tài
sản có tính chuyên nghiệp, lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu làm nguồn sống
chính, với mục đích trộm cắp tài sản, nhưng do điều kiện hoàn cảnh khách quan nên
việc trộm cắp tài sản phải thực hiện trong nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị xâm
phạm mỗi lần dưới hai triệu đồng. Trong các trường hợp nêu trên, nếu chỉ căn cứ vào
các hành vi vi phạm nhiều lần, thì không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự (TNHS) (phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, phạm tội nhiều lần) quy định tại
các điểm b và g khoản 1 Điều 48 BLHS hiện hành [21, tr.217].
Ngoài dấu hiệu hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm, mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản còn dấu hiệu thứ ba, mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm [4, tr.11-14].
18