I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN VIT H
Kiểm sát việc giải quyết tin báo tố giác về
tội phạm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2017
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN VIT H
Kiểm sát việc giải quyết tin báo tố giác về
tội phạm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN NGC CH
H NI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong khóa luận tốt nghiệp đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật- Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Việt Hà
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ
TỘI PHẠM VÀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ
GIÁC VỀ TỘI PHẠM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.............. 8
1.1.
Khái quát về tin báo, tố giác về tội phạm trong pháp luật tố
tụng hình sự ........................................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm ................................................ 8
1.1.2. Vai trò của tin báo, tố giác về tội phạm ............................................. 15
1.2.
Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện
kiểm sát nhân dân ............................................................................ 19
1.2.1. Khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp............................................... 19
1.2.2. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
của Viện kiểm sát nhân dân ............................................................... 25
1.2.3. Đặc điểm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
của Viện kiếm sát nhân dân ............................................................... 27
1.3.
Quy định về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của
Viện kiểm sát nhân dân trước Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ......... 32
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988 ...................................... 32
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003 ...................................... 34
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 37
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2003 VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ
GIÁC VỀ TỘI PHẠM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
TỈNH PHÚ THỌ .............................................................................. 38
2.1.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về kiểm sát
việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát
nhân dân ............................................................................................ 38
2.1.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân ........................................... 38
2.1.2. Quy định về chủ thể và đối tượng của hoạt động kiểm sát việc giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân ............ 40
2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn kiểm sát việc giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân ........................ 46
2.2.
Thực trạng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm của Viện kiểm sát nhân dâ tỉnh Phú Thọ ............................ 55
2.2.1. Một số đặc điểm về tỉnh Phú Thọ ...................................................... 55
2.2.2. Thực trạng công tác giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ .............................................................................................. 57
2.2.3. Thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ .......................... 59
2.2.4. Những hạn chế, tồn tại của công tác kiểm sát việc giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm ..................................................................... 71
2.2.5. Nguyên nhân của thực trạng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
gíac về tội phạm ................................................................................. 78
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 83
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ
TỘI PHẠM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ....................... 84
3.1.
Những điểm mới về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015............................................................................... 84
3.2.
Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ............ 91
3.3.
Một số giải pháp về tổ chức, thực hiện nhằm nâng cao hiệu
quả công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm của Viện kiểm sát nhân dân.................................................. 92
3.3.1. Những kiến nghị về đảm bảo công tác nghiệp vụ .............................. 92
3.3.2. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát............................................................................................... 94
3.3.3. Kiến nghị bảo đảo điều kiện vật chất và nhân lực cho hoạt động
của ngành kiểm sát nhân dân ............................................................. 95
3.3.4. Tăng cường công tác tổ chức, chỉ đạo, điều hành về nghiệp vụ
kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm................................. 96
3.3.5. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm sát việc
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ............................................... 98
Kết luận chương 3 ....................................................................................... 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 103
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS:
Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT:
Cơ quan điều tra
KSV:
Kiểm sát viên
THQCT:
Thực hành quyền công tố
TTHS:
Tố tụng hình sự
VKS:
Viện kiểm sát
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Số liệu thụ lý án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ
năm 2011 đến 2016
57
Bảng 2.2: Kết quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2011 đến năm 2016
58
Bảng 2.3: Tổng số tin báo, tố giác về tội phạm Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Phú Thọ đã kiểm sát việc giải quyết
60
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc với dân số khoảng
1,3 triệu người, 13 đơn vị hành chính cấp huyện và 277 đơn vị hành chính
cấp xã. Tỉnh có diện tích tự nhiên không lớn nhưng có vị trí địa lý thuận
lợi, là đầu mố i giao thông với nhiều tuyế n đư ờng huyế t ma ̣ ch chạy qua như
đường bô ̣, đường sắ t , đường thủy nô ̣i điạ , là trung tâm kinh tế của các tỉnh
trong vùng kinh tế tro ̣ng điể m Tây Bắ c Bô ̣ , có hệ thống núi đồi tạo nên vị
trí quốc phòng quan trọng , cửa ngõ của thủ đô Hà Nô ̣i
. Những năm gần
đây, Phú Thọ đã có những bư ớc phát triển vượt bậc về kinh tế, chính trị, xã
hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị được đầu tư tương đối hoàn chỉnh, đồng
bộ theo cấu trúc của một đô thị hiện đại. Đời sống nhân dân, trình độ dân
trí ngày càng được nâng cao.
Cùng với sự phát triển, Phú Thọ cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề xã
hội nảy sinh, đặc biệt tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, có chiều hướng
gia tăng. Trung bình mỗi năm, cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh tiếp nhận
hơn 2.000 tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, trong đó khởi tố
hình sự khoảng hơn 1.000 vụ. Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) hai cấp tỉnh
Phú Thọ với chức năng là cơ quan tiến hành tố tụng thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Trong đó, kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm là một trong những hoạt động quan trọng
của ngành Kiểm sát nhân dân. Thực hiện tốt công tác này, đảm bảo hoạt động
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Cơ quan điều tra
(CQĐT) đúng trình tự pháp luật, có căn cứ, khách quan và triệt để; mọi hành
vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; bảo đảm sự tuân thủ
1
pháp luật của CQĐT và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
Sự ra đời của thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-VKSNDTC-BCABQP-BNNPTNT-BTC hướng dẫn quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS) về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố... là một bước ngoặt quan trọng trong hành lang pháp lý nhằm giúp
các cơ quan thống nhất nhận thức, áp dụng pháp luật, nâng cao chất lượng
hiệu quả trong công tác tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố, đảm bảo đúng quy định tại Điều 103 BLTTHS năm 2003.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, xuất phát từ một số nguyên nhân chủ
quan và khách quan khác nhau, công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm của VKSND các cấp tỉnh Phú Thọ đã bộc lộ những khó
khăn, vướng mắc nhất định như: vẫn chưa quản lý chặt chẽ, đầy đủ các tin báo,
tố giác về tội phạm; tình trạng vi phạm pháp luật về tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm của CQĐT vẫn còn xẩy ra nhưng chưa khắc
phục một cách hiệu quả; chất lượng công tác kiểm sát còn hạn chế, các cơ
quan tiến hành tố tụng trên địa bàn vẫn còn lúng túng khi thực hiện, dẫn đến
quá trình phối hợp giải quyết, đôi khi không có sự thống nhất, tình hình tội
phạm ẩn còn nhiều, lượng tin tồn, tin quá hạn giải quyết vẫn chiếm tỷ lệ
không nhỏ. Điều này chưa phát huy tốt nhất vai trò của Viện kiểm sát (VKS)
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Từ những lý do nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài "Kiểm sát
việc giải quyết tin báo tố giác về tội phạm trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ )" làm đề tài luận văn
thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm là giai
2
đoạn tiền đề, đóng vai trò then chốt, quyết định việc khởi tố hay không khởi
tố vụ án hình sự, đảm bảo thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố
(THQCT) và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các giai đoạn tiếp theo.
Vì vậy, vấn đề này đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu đặc
biệt là các cán bộ làm công tác chuyên môn như:
Các công trình nghiên cứu khoa học là luận văn thạc sĩ: Dương Tiến
Mạnh, Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Khoa Luật trường ĐH Quốc Gia HN, 2015; Ngô Quốc
Hưng, Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và thực tiễn công tác trên địa bàn thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên,
Khoa Luật trường ĐH Quốc Gia HN, 2016; Hà Thị Thu Phương, Kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Yên Bái, Học viện Khoa học xã hội
VN, 2017;... Các công trình này nghiên cứu dưới góc độ luật tố tụng hình sự
và hoạt động kiểm sát nói chung.
Các bài viết, công trình nghiên cứu được đăng trên báo, tạp chí: ThS.
Nguyễn Duy Giảng, Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác
kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo
yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, số 18-20/2008; Phạm Đình Sự,
Những kinh nghiệm tổ chức, thực hiện và biện pháp trong công tác kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm
sát, số 12/2009; Lưu Trọng Nguyên, Một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm sát, số 12/2009; Nguyễn Quang Thành,
Nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp giữa viện kiểm sát nhân dân thành
phố Hà Nội với Cục điều tra trong việc phát hiện và giải quyết tố giác, tin
báo về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, Tạp chí kiểm sát số 11/2012;...
3
Các bài viết này mới luận giải một số vấn đề mang tính lý luận căn bản về
giải quyết tin báo, tố giác và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác của
VKSND và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm mà chưa đi sâu phân tích thực trạng, nguyên
nhân của thực trạng công tác này.
Qua nghiên cứu tình hình trên cho thấy chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm đặc biệt là trên cơ sở một địa bàn cụ thể là tỉnh Phú
Thọ. Chính vì vậy, việc tác giả chọn vấn đề kiểm sát việc giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực
tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ) làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của hoạt động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và áp
dụng chúng trong thực tiễn tại tỉnh Phú Thọ. Từ đó luận văn đưa ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề trên theo pháp luật tố tụng hình sự
(TTHS) Việt Nam trong bối cảnh BLTTHS năm 2015, cũng như đề xuất
những giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn áp
dụng của VKSND tỉnh Phú Thọ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổng hợp các quan điểm của các tác giả về chức năng kiểm sát việc
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND, làm sáng tỏ một số vấn
đề chung như: Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm; phân biệt tin báo, tố
giác về tội phạm với các khiếu nại, tố cáo;
4
- Khái quát sự phát triển của chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm của VKSND từ khi có BLTTHS năm 1988 đến nay để rút
ra những nhận xét, đánh giá;
- Phân tích cơ sở lý luận, khái niệm, thẩm quyền, căn cứ pháp luật giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm;
- Phân tích các quy định cụ thể về chức năng kiểm sát việc giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm trong BLTTHS hiện hành và các văn bản có liên
quan của Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát việc giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND tỉnh Phú Thọ đồng thời phân
tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên
nhân cơ bản của nó;
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về
chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong BLTTHS
hiện hành và các văn bản có liên quan, cũng như những giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng trong thực tiễn tại tỉnh Phú Thọ.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chức
năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong luật TTHS
Việt Nam và những văn bản hướng dẫn khác có liên quan, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên của VKSND trên điạ
bàn Phú Thọ , những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế để đề xuất những giải
pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn.
Luận văn không nghiên cứu về thực tiễn kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm của Viện kiểm sát quân sự các cấp.
Về phạm vi nghiên cứu thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện
công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong 06 năm
(2011 – 2016) trên địa bàn tỉnh Phú Tho ̣.
5
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh,
đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống
kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật TTHS và luận
chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và
thực tiễn liên quan chức năng của VKS trong TTHS Việt Nam. Những điểm
mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong nước về công tác kiểm sát
việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND từ đó xây dựng khái
niệm về tin báo, tố giác về tội phạm tạo cơ sở áp dụng pháp luật thống nhất và
có căn cứ. Đồng thời luận văn chỉ ra những đặc điểm công tác kiểm sát việc
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND;
- Qua nghiên cứu thực tiễn kiểm sát việc giải quyết tin báo tố giác về tội
phạm của VKSND, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác kiểm sát này của VKSND.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
6
dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp
luật, học viên và người làm thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tin báo, tố giác về tội phạm và
kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân
dân.
Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2002 về kiểm sát
việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và thực tiễn thi hành tại tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát việc giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM
VÀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC
VỀ TỘI PHẠM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái quát về tin báo, tố giác về tội phạm trong pháp luật tố
tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm
Theo luật TTHS, trình tự giải quyết một vụ án hình sự được bắt đầu từ
giai đoạn điều tra, truy tố đến giai đoạn xét xử. Điều 100 Bộ luật TTHS năm
2003 quy định: "Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu
tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: 1.
Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3. Tin báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng;..." [35, tr. 36.]. Như vậy, khởi tố vụ án hình
sự là giai đoạn đầu tiên trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự, thể hiện
quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với người phạm tội, hành vi
do người phạm tội gây ra. Việc khởi tố vụ án hình sự đúng, kịp thời có ý
nghĩa quan trọng, là tiền đề mở ra hàng loạt những hoạt động tố tụng sau này.
Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự là khi xác định có dấu hiệu của tội
phạm xảy ra dựa trên năm cơ sở được quy định tại Điều 100 Bộ luật TTHS,
trong số đó tố giác của công dân, tin báo của cơ quan, tổ chức, tin báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng là những căn cứ rất quan trọng. Để làm rõ
vấn đề này, chúng ta cần tìm hiểu thế nào là tố giác, tin báo về tội phạm.
Theo Từ điển tiếng Việt thì các thuật ngữ: Tố cáo, tin báo, tố giác được
hiểu là:
Khái niệm “Tố cáo” được hiểu với hai nghĩa: Thứ nhất, tố cáo là báo
cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm
8
pháp nào đó. Thứ hai, tố cáo là vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho
mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn [28, tr.1199].
Khái niệm “Tố giác” được hiểu là báo cho cơ quan chính quyền biết
người hoặc hành động phạm pháp nào đó [28, tr.1200].
Khái niệm “Tin” cũng được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất là, điều được
truyền đi, báo đi cho biết sự việc, tình hình xảy ra. Thứ hai là, sự truyền đạt,
sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung quanh và
những quá trình xảy ra trong nó.
Khái niệm “Báo” được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất là, cho biết việc
gì đó đã xảy ra. Thứ hai là, cho người có trách nhiệm nào đó biết về việc xảy
ra có thể hại đến trật tự an ninh chung… là dấu hiệu biết trước.
Đối với tin báo về tội phạm thì có nhiều cách hiểu: có quan điểm xác
định: chỉ có tin báo do nhân dân, đài báo, cơ quan, tổ chức cung cấp, kiến
nghị mới là tin báo, tố giác về tội phạm; hoặc có quan điểm cho rằng mọi
thông tin liên quan đến tội phạm đều là tin báo, tố giác.
Trên bình diện pháp lý, Luật Tố cáo năm 2011 quy định:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm
pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, cơ quan, tổ chức (khoản 1 Điều 2) [36, tr.1].
Tố cáo ở đây là khái niệm chung, là việc công dân thực hiện quyền
của mình báo tin về tất cả các hành vi vi phạm pháp luật nói chung cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết. Tùy theo lĩnh vực pháp luật bị
vi phạm mà người ta phân biệt các loại tố cáo khác nhau. Tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết theo quy định của pháp luật về TTHS (khoản 3 Điều 31) [36, tr.15].
9
Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định của pháp
luật về TTHS (khoản 1 Điều 3).
Tố cáo và tố giác về tội phạm có những điểm khác biệt nhất định:
- Thứ nhất, về nội hàm của khái niệm: tố cáo hành vi vi phạm pháp
luật, không phân biệt tính chất, mức độ vi phạm; tố giác về tội phạm chỉ bao
gồm hành vi vi phạm pháp luật có thể cấu thành tội phạm đã được qui định
trong Bộ luật hình sự. Do đó, khái niệm tố cáo rộng hơn và bao hàm cả khái
niệm tố giác về tội phạm theo luật TTHS.
- Thứ hai, về quyền của chủ thể thực hiện: tố cáo là quyền của công
dân, tố giác về tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân.
Theo Khoản 1 Điều 25 BLTTHS năm 2003: “Các tổ chức, công dân có
quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức” [35, tr.5].
- Thứ ba, việc phát sinh quan hệ pháp luật: tố cáo hành vi vi phạm pháp
luật chỉ phát sinh sau khi công dân thực hiện quyền tố cáo, tố giác về tội phạm
thì phát sinh ngay sau khi công dân biết về tội phạm. Công dân có quyền
quyết định việc mình sẽ tố cáo hay không một hành vi vi phạm pháp luật
nhưng bắt buộc phải tố giác nếu đã biết rõ về một tội phạm qui định tại Điều
313 BLHS năm 1999 đang được chuẩn bị hoặc đã được thực hiện. Công dân
có thể bị truy cứu trách nhiệm HS về tội: “Không tố giác tội phạm” theo điều
314 BLHS, nếu biết mà không tố giác tội phạm.
Như vậy, trong TTHS, tố cáo hành vi phạm tội được hiểu là tố giác về
tội phạm. Đây chính là một trong những nội dung khái niệm tố giác, tin báo
về tội phạm.
Ở phương diện điều tra tội phạm, tố giác, tin báo về tội phạm là những
thông tin ban đầu, có ý nghĩa rất lớn cho các cơ quan pháp luật xem xét tính
10
chất nghiêm trọng hay không của sự việc đã được những chủ thể báo tin, tố
giác đến; tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin đến đâu; có dấu hiệu
của tội phạm hay không… là căn cứ để CQĐT mở ra những hoạt động điều
tra, xác minh theo luật định.
Theo quy định tại điều 101 BLTTHS năm 2003 quy định “Công dân
có thể tố giác tội phạm với CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ
quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận
phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác…” [35, tr.37]. Như vậy, tại
Điều 101 BLTTHS năm 2003 không nêu lên được khái niệm tố giác tội
phạm mà chỉ nêu lên công dân có thể tố giác hành vi phạm tội với cơ quan
chức năng có thẩm quyền.
Theo giáo trình luật TTHS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội
thì “tố giác tội phạm là việc công dân tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của
một người nào đó mà họ cho rằng đó là tội phạm” [48, tr.245]. Kể từ khi
BLTTHS năm 2003 có hiệu lực cho đến năm 2013 thì chưa có một văn bản
hướng dẫn định nghĩa tố giác, tin báo về tội phạm. Có nhiều cách hiểu về tố
giác, tin báo tội phạm. Có quan điểm xác định: chỉ có tin báo do nhân dân, đài
báo, cơ quan, tổ chức các cấp, kiến nghị mới là tố giác, tin báo về tội phạm;
hoặc có quan điểm cho rằng: mọi thông tin liên quan đến tội phạm đều là tin
báo, tố giác. Có quan điểm nêu:
Tố giác về tội phạm là việc công dân tố giác về hành vi tội
phạm được quy định trong BLHS, còn tin báo về tội phạm là những
thông tin về tội phạm được quy định trong BLHS do cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội cung cấp cho cơ quan có trách
nhiệm tiếp nhận và giải quyết; do các phương tiện thông tin đại
chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú [53, tr.14].
11
Quan điểm khác cho rằng: “Tố giác về tội phạm là việc cá nhân
phát hiện, tố cáo người phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ
quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 100, Điều 101
và Điều 103 của BLTTHS. Tin báo về tội phạm là việc các cơ quan, tổ chức
báo tin hoặc đăng tin có nội dung phản ánh về tội phạm xảy ra cho cơ quan có
thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 2, 5 Điều 100, Điều 101
và Điều 103 của BLTTHS” [44, tr.12].
Khắc phục vướng mắc này, năm 2013, liên ngành tư pháp trung ương
đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-VKSTC-BCA-BNNPTNTBTC-BQP ngày 02/8/2013 hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS về tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố (sau đây gọi
tắt là Thông tư số 06) giải thích cụm từ này.
Theo đó:
Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu
hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho
cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.
Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu
hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ
quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp
nhận, giải quyết [67, tr.1].
Mọi cá nhân đều có quyền tố giác về tội phạm, mọi cơ quan, tổ chức
đều có quyền thông tin cho với các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Đây đều
là cơ sở xác minh có hay không có dấu hiệu tội phạm để từ đó khởi tố hay
không khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, trong khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm đều đã chỉ ra, tin
báo, tố giác đều là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm, do các
chủ thể khác nhau (cá nhân hay cơ quan, tổ chức) cung cấp cho cơ quan, cá
nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.
12
Trên cơ sở phân tích trên đây, có thể rút ra các định nghía tin báo và tố
giác về tội phạm như sau:
Tin báo về tội phạm là việc các cơ quan, tổ chức cung cấp hoặc các
phương tiện thông tin đại chúng thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm xảy
ra cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo qui định của pháp luật tố tụng
hình sự.
Tố giác về tội phạm được hiểu là việc cá nhân trực tiếp phát hiện người
phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm và tố cáo đến cơ quan có thẩm
quyền giải quyết theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.
Ngoài ra, cần phân biệt tin báo, tố giác về tội phạm với kiến nghị khởi
tố, đơn thư tố cáo nặc danh, đơn thư tố cáo của công dân về hành vi vi phạm
pháp luật thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ “kiến nghị” được hiểu là “Nêu
lên ý kiến đề nghị về một việc chung để cơ quan có thẩm quyền xét”. “Yêu
cầu” là “nêu ra điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng
đó là việc thuộc nghĩa vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người
ấy” [28, tr.1251]. Hai thuật ngữ này đều có ý chung là đề nghị một cơ quan,
một người nào đó làm một việc thuộc nhiệm vụ, quyền năng của họ.
Dưới góc độ pháp lý, BLTTHS 1988 và BLTTHS 2003 đều không quy
định khái niệm thế nào là kiến nghị khởi tố. Có quan điểm cho rằng: “Kiến
nghị khởi tố là văn bản kiến nghị khởi tố cùng hồ sơ, tài liệu về hành vi vi
phạm pháp luật có dấu hiệu của tội phạm được phát hiện thông qua hoạt
động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng được gửi đến cơ quan
Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát nhân dân” [60, tr.28]. Quan điểm này
chưa xác định rõ chủ thể của kiến nghị khởi tố. Quan điểm khác cho rằng:
“Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan Nhà nước thông qua công tác kiểm
13
tra, thanh tra phát hiện có hành vi phạm tội, hành vi có dấu hiệu tội phạm và
có văn bản, kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền
để xem xét, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội” [71, tr.12]. Quan điểm
này xác định chủ thể của kiến nghị khởi tố kiến nghị khởi tố là các cơ quan
Nhà nước. Cả hai quan điểm trên đều cho rằng thông qua công tác thanh tra,
kiểm tra phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm mới có kiến nghị khởi tố.
Khái niệm “kiến nghị khởi tố” được quy định tại Thông tư liên tịch số
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC
ngày
02/8/2013
hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố ở Điều 3: “Kiến nghị
khởi tố là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát
hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị Cơ quan điều tra
xem xét khởi tố vụ án hình sự” [67, tr.1]. Đến BLTTHS 2015, Khoản 3, Điều
144 quy định: “Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu
hiệu tội phạm” [39, tr.123]. Như vậy, kiến nghị khởi tố là quyền của cơ quan
nhà nước, thể hiện bằng văn bản kiến nghị gửi đến Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để điều tra, xử lý tội phạm, người
phạm tội. Kiến nghị khởi tố là một dạng đặc biệt của tin báo về tội phạm.
Trong thực tiễn các văn bản kiến nghị khởi tố thường là của cơ quan Thanh
tra, Tòa án. Về lý luận, cần phân biệt trường hợp nào cơ quan Nhà nước là
chủ thể của tin báo tội phạm và trường hợp nào là chủ thể của kiến nghị khởi
tố. “Cơ quan Nhà nước là chủ thể của kiến nghị khởi tố trong trường hợp
thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, xét xử… phát hiện hành vi có dấu hiệu
tội phạm thì thu thập hồ sơ, tài liệu liên quan, kèm theo văn bản kiến nghị
khởi tố gởi đến CQĐT, VKSND cùng cấp đề nghị khởi tố vụ án. Cơ quan
14
Nhà nước là chủ thể của tin báo về tội phạm trong trường hợp thông qua công
tác quản lý hoặc công tác khác, phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm trong
lĩnh vực mình quản lý thì cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền để
xem xét, giải quyết” [40, tr.12].
Đối với đơn thư tố cáo nặc danh, đơn thư tố cáo của công dân về hành
vi vi phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước, về
bản chất đều là hoạt động cung cấp thông tin giống như tin báo, tố giác tội
phạm nhưng do chủ thể không rõ tên tuổi, địa chỉ thực hiện hoặc phạm vi tố
cáo chỉ liên quan đến vi phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước.
Trình tự giải quyết không được quy định chặt chẽ như đối với tin báo, tố giác
tội phạm. Nhưng khi cơ quan chức năng được cung cấp thông tin và có chứng
cứ để xác minh nguồn thông tin đó thì phải có trách nhiệm xử lý, xem xét và
giải quyết để tránh bỏ lọt, không xử lý hành vi vi phạm bị tố giác.
1.1.2. Vai trò của tin báo, tố giác về tội phạm
Thứ nhất, tin báo, tố giác về tội phạm giúp cơ quan có thẩm quyền kịp
thời phát hiện, nhanh chóng xử lý hành vi phạm tội, tránh bỏ lọt tội phạm
Trong giai đoạn hiện nay, tội phạm ngày càng có xu hướng gia tăng và
diễn biến phức tạp. Hành vi, thủ đoạn phạm tội tinh vi, đa dạng, dưới nhiều
hình thức. Bộ luật hình sự quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ việc tội phạm được thực
hiện bởi những người có đầy đủ năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành
15
vi trong bối cảnh nền kinh tế thị trường nảy sinh nhiều mối quan hệ mới, hình
thức mới mà pháp luật không dự trù hết được nên nhiều loại tội phạm mới, có
tính chất nguy hiểm, công nghệ cao xuất hiện. Các cơ quan nhà nước lại
không đảm bảo hết việc nắm bắt thông tin về tình hình tội phạm đang diễn ra
trong xã hội mà chỉ hạn chế về một số lượng thông tin nhất định. Để các cơ
quan nhà nước nắm bắt đầy đủ thông tin về tình hình tội phạm cần phải có sự
tố giác của công dân, tin báo về tội phạm.
Tố giác tội phạm là cơ sở xác định có dấu hiệu tội phạm theo quy định
tại Điều 100 BLTTHS năm 2003 như sau:
“Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm.
Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: Tố giác của
công dân...” [35, tr.36].
Như vậy, khi một vụ án hình sự đã diễn ra hoặc đang diễn ra, nếu công
dân biết được thì phải tố giác với cơ quan có thẩm quyền. Nếu cấu thành tội
phạm thì cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự ngay từ khi tiếp
nhận thông tin tố giác tội phạm, và phải ghi rõ những thông tin cần thiết về
thông tin tố giác tội phạm của công dân.
Việc tố giác, tin báo về tội phạm giúp cho các cơ quan có thẩm quyền
phát hiện nhanh tội phạm. Một số loại tội phạm xảy ra bất ngờ trong xã hội
mà các cơ quan có thẩm quyền không biết được như: tội giết người, cướp tài
sản, cố ý gây thương tích, tố giác tội phạm giúp cho các cơ quan có thẩm
quyền nhanh chóng đến hiện trường nơi xảy ra vụ án để thu thập xác minh
làm rõ sự việc phạm tội. Trong một số trường hợp người phạm tội sau khi gây
án xong lại bỏ trốn khỏi hiện trường, gây khó khăn cho việc truy bắt hung thủ
gây án cũng như công tác điều tra phá án.
Tố giác, tin báo tội phạm sẽ hạn chế xảy ra tình trạng tội phạm ẩn.
Nguyên nhân của vấn đề bỏ lọt tội phạm có nhiều, song cơ bản tập trung
16
vào: Chủ thể của hành vi phạm tội đã sử dụng thủ đoạn gây án mới tinh vi
nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng như tính toán kỹ lưỡng
trước, trong và sau khi gây án; hợp thức hóa hành vi phạm tội; xóa sạch mọi
dấu vết hành vi phạm tội. Người bị hại, nhân chứng không muốn tố giác
hành vi phạm tội, cung cấp tài liệu về hành vi phạm tội với cơ quan chức
năng do tính chất hậu quả hành vi phạm tội không lớn; do mối quan hệ ruột
thịt, dòng họ, quan hệ công tác, cấp trên, cấp dưới, sợ ảnh hưởng đến danh
dự, nhân phẩm, sợ bị trả thù. Để khắc phục tình trạng lọt tội phạm, thực hiện
được nguyên tắc tối cao của pháp luật là “mọi hành vi phạm tội đều phải
được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”. Vì vậy, việc tố giác tội
phạm sẽ góp phần làm cho các hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp
thời, xử lý đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai, tin báo, tố giác về tội phạm góp phần quan trọng trong công
tác đấu tranh, phòng chống tội phạm của công dân
Mọi hành vi vi phạm pháp luật, mọi hoạt động của tội phạm đều xuất
phát từ đời sống xã hội, từ trong dân. Công dân là tai mắt của cơ quan công
an. Phần lớn các tin báo, tố giác về tội phạm do công dân cung cấp. Nếu công
dân không tố giác thì các cơ quan chức năng chậm tiếp cận nguồn tin, khó
khăn trong việc ngăn chặn tội phạm, thu thập các chứng cứ, dấu vết quan
trọng, xử lý tội phạm. Công dân và các cơ quan có thẩm quyền có mối quan
hệ chặt chẽ. Khi công dân tố giác đều muốn các cơ quan phải giải quyết đúng
quy định pháp luật và nhanh chóng. Để tạo được niềm tin của nhân dân, đẩy
mạnh công tác phòng ngừa tội phạm các cơ quan chức năng cần tăng cường
thực hành chức năng, nhiệm vụ của mình. Chính vì thế, tố giác, tin báo về tội
phạm không chỉ giúp cơ quan có thẩm quyền kịp thời xử lý nhanh chóng,
tránh bỏ bọt tội phạm mà còn giúp cho mối quan hệ giữa các cơ quan nhà
nước và công dân gắn bó hơn, cùng đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
17