Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Tự do ý chí giao kết hợp đồng trong bộ luật dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ THÚY KIỀU

TỰ DO Ý CHÍ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRONG
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017
i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TỰ DO Ý CHÍ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRONG
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Thắng

Hà Nội – 2017
ii




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Thúy Kiều

iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ..............................................................................................................
MỤC LỤC ..........................................................................................................................
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................
Chƣơng 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỰ DO Ý CHÍ TRONG GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG .............................................................................................................................. 1
1.1. Khái luận về hợp đồng và giao kết hợp đồng ........................................................... 1
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng và bản chất của hợp đồng ................................................ 1
1.1.2. Giao kết hợp đồng .................................................................................................. 8
1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa và vai trò của tự do ý chí ...................................................... 16
1.3. Mối quan hệ giữa tự do ý chí và giao kết hợp đồng ............................................... 26
1.3.1. Mối quan hệ giữa nguyên tắc tự do ý chí và các quy định về giao kết hợp đồng.
........................................................................................................................................ 26
1.3.2. Mối quan giữa nguyên tắc tự do ý chí và các nguyên tắc khác liên quan tới giao

kết hợp đồng ................................................................................................................... 28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1............................................................................................... 30
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG TỰ DO Ý CHÍ TRONG CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 .............................................................. 31
2.1. Vấn đề chuyển hóa học thuyết tự do ý chí thành nguyên tắc tự do ý chí của Bộ luật
Dân sự 2015 ................................................................................................................... 31
2.1.1. Ghi nhận nguyên tắc tự do ý chí trong giao kết hợp đồng (tự do hợp đồng) ....... 31
2.1.2. Nội hàm của nguyên tắc tự do ý chí ..................................................................... 34
2.2. Nội dung tự do ý chí trong các quy định về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng. . 37
2.2.1. Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng .................................................................... 37

iv


2.2.2. Đại diện trong giao kết hợp đồng ......................................................................... 42
2.3. Nội dung tự do ý chí trong các quy định về đề nghị, chấp nhận giao kết hợp đồng.
........................................................................................................................................ 47
2.3.1. Đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng ............................................................. 48
2.4. Nội dung tự do ý chí trong các quy định về điều kiện có hiệu lực và hợp đồng vô
hiệu ................................................................................................................................. 59
2.4.1. Điều kiện về chủ thể ............................................................................................. 60
2.4.2. Điều kiện về sự tự nguyện của chủ thể ................................................................ 62
2.4.3. Nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không
trái đạo đức xã hội. ......................................................................................................... 68
2.4.4. Hình thức hợp đồng - điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trƣờng hợp pháp
luật quy định. .................................................................................................................. 70
Kết luận chƣơng 2 .......................................................................................................... 77
CHƢƠNG 3: NHỮNG BẤT CẬP CỦA CHẾ ĐỊNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 NHÌN TỪ GIÁC ĐỘ TỰ DO Ý CHÍ VÀ CÁC
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .......................................................................................... 78

3.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tự do ý chí trong giao kết hợp đồng ....................... 78
3.2. Một số bất cập của chế định giao kết hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2015 nhìn từ
giác độ tự do ý chí. ......................................................................................................... 83
3.2.1. Về nguyên tắc tự do, tự nguyên, cam kết, thỏa thuận (Khoản 2, Điều 3, BLDS
2015)............................................................................................................................... 83
3.2.2. Về chủ thể giao kết hợp đồng .............................................................................. 84
3.2.3. Về đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng ........................................................ 85
3.2.4. Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ................................................................ 86
3.2.5. Hợp đồng vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể ....................... 91
v


3.3. Phƣơng hƣớng và một số đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về
tự do ý chí trong giao kết hợp đồng ............................................................................... 95
3.3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tự do ý chí trong giao kết hợp
đồng. ............................................................................................................................... 95
3.3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tự do ý chí trong giao kết
hợp đồng. ........................................................................................................................ 97
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3............................................................................................. 102
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 105

vi


MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hợp đồng là một trong những chế định pháp lý có bề dày lịch sử. Ngay từ khi xã
hội loài ngƣời có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hoá thì

hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài
sản. Tuy nhiên, để tạo môi trƣờng kinh doanh thuận lợi đồng thời đảm bảo về mặt pháp
lý cho các chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng thì các bên buộc phải tuân thủ triệt để
các nguyên tắc giao kết hợp đồng, đặc biệt là nguyên tắc tự do ý chí trong giao kết hợp
đồng. Pháp luật cho phép mọi cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện tƣ cách chủ thể tham
gia giao kết các giao dịch dân sự hay hợp đồng, nếu muốn, trên cơ sở nhà nƣớc tôn
trọng quyền tự do ý chí của công dân.
Về nguyên tắc, một hệ quả pháp lý từ giao dịch dân sự chỉ có thể nảy sinh (không
quan trọng đó là hệ quả hƣởng quyền, lợi ích nhất định hay tự nguyện gánh vác nghĩa
vụ nào đó) nếu nhƣ ý chí nội tâm của chính chủ thể tham gia muốn vậy. Cho nên, mọi
giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng luôn là những hành vi mang tính ý
chí. Xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận trong pháp luật dân sự, tƣ do ý chí là nền
tảng hình thành quan hệ hợp đồng, từ đó làm phát sinh ra các nghĩa vụ pháp lý. Và nhƣ
V.A. Rijasenchev - luật gia ngƣời Nga đã từng nói: “Bản chất của giao dịch dân sự là
sự thống nhất giữa ý chí - yếu tố chủ quan và thể hiện ý chí - yếu tố khách quan”,
không thể nghi ngờ rằng, thƣơng mại không thể phát triển nếu các thỏa thuận đƣợc lập
ra một cách tự do mà không đƣợc thi hành một cách bình thƣờng. Vì vậy dù ở hệ thống
pháp luật nào, ngƣời ta đều thừa nhận nền tảng của luật hợp đồng là tự do ý chí, có
nghĩa là ý chí là vấn đề trọng yếu của hợp đồng.
Nhận thức đƣợc ý nghĩa và tầm quan trọng của nguyên tắc tự do ý chí trong giao
hợp đồng, nhất là trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, ngƣời viết đã lựa chọn đề tài:
“Tự do ý chi giao kết hợp đồng trong BLDS 2015” làm luận văn thạc sỹ, với các lý do
cơ bản sau:
Thứ nhất, tự do ý chí trong giao kết hợp đồng là một trong những nguyên tắc
quan trọng nhất trong việc thiết lập các giao dịch dân sự. Có thể nói, nền kinh tế càng
phát triển, xã hội càng văn minh thì chế định hợp đồng càng đƣợc coi trọng và càng
1


đƣợc hoàn thiện hơn. Điều này xuất phát từ việc pháp luật hiện đại thừa nhận quyền

bình đẳng của con ngƣời trƣớc pháp luật và quyền tự do cá nhân. Ngày nay, nhất là
trong nền kinh tế hội nhập - nơi mà mọi dịch vụ, hàng hóa phải đƣợc tự do chuyển dịch
trong thị trƣờng thì phần lớn các quan hệ xã hội đều đƣợc điều chỉnh bằng hợp đồng.
Vai trò, vị trí của chế định hợp đồng và việc tuân thủ nguyên tắc tự do hợp đồng vì thế
ngày càng đƣợc khẳng định trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, Sau nhiều năm đổi mới, hệ thống các văn bản về hợp đồng đƣợc xây
dựng và hoàn thiện theo hƣớng ngày càng bảo đảm quyền tự do ý chí trong giao kết
hợp đồng góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển tuy nhiên bên cạnh đó vẫn
còn nhiều hạn chế, dẫn đến cản trở việc hình thành các giao lƣu kinh tế - thƣơng mại.
Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta hiện nay với sự đan xen phức tạp
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, tự do ý chí dƣờng nhƣ không giải quyết ổn thỏa một
số giao dịch mà đời sống thực tiễn đặt ra. Vì lẽ đó, chúng ta cần thiết phải đƣa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa nguyên tắc này cho phù hợp với điều kiện kinh tếxã hội của nƣớc ta hiện nay.
Thứ ba, với sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2015, nhiều vấn đề liên quan đến tự do ý
chí của chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự cũng nhƣ thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật về tự do ý chí trong đời sống xã hội đã có nhiều thay đổi. Điều này
dẫn tới sự khó khăn khi tiếp cận các quy định về tự do ý chí trên cơ sở khoa học pháp
lý.
Xuất phát từ tình hình trên, việc nghiên cứu toàn diện các mặt lý luận và thực tiễn
quy định pháp luật Việt Nam về ý chí và tự do ý chí trong quan hệ pháp luật dân sự là
một trong những vấn đề có nghĩa pháp lý và thực tiễn sâu sắc. Chính vì vậy, ngƣời viết
đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tự do ý chí giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
2015” cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về tự do ý chí trong giao kết hợp đồng đã đƣợc nhiều nhà khoa
học pháp lý quan tâm trong các thời kỳ và với các góc độ khác nhau. Dƣới đây là một
số công trình nghiên cứu khoa học và bài viết tiêu biểu:
Về sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu, bài viết:Giáo trình “Luật dân sự
Việt Nam” của trƣờng Đại học Luật Hà Nội; giáo trình “Luật Hợp đồng - Phần chung”
2



của PGS.TS Ngô Huy Cƣơng; “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015” của
PGS. TS Nguyễn Văn Cừ và PGS.TS Nguyễn Thị Huệ; “Một số vấn đề về giao kết hợp
đồng trong pháp luật của Cộng hòa Pháp và kinh nghiệm cho Việt Nam” của Lê Minh
Hùng và Trần Lê Đăng Phƣơng; sách “Pháp luật về hợp đồng” của Nguyễn Mạnh
Bách và nhiều công trình nghiên cứu khác.
Về luận án tiến sỹ: Có một số luận án tiến sỹ nghiên cứu các đề tài có liên quan
đến vấn đề tự do hợp đồng nhƣ đề tài: “Giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt
Nam” của Lê Trƣờng Sơn, đề tài: “Quyền tự do hợp đồng trong hoạt động thương mại ở
Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Phạm Hoàng Giang,...
Có thể nói, những công trình khoa học trên là tài liệu quí báu giúp tác giả có
thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn, tuy nhiên các
công trình trên chƣa nghiên cứu toàn diện và thấu đáo về tự do ý chí trong giao kết hợp
đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là BLDS năm 2015. Do vậy, việc
nghiên cứu đề tài: “Tự do ý chí giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015” không
trùng lặp với các công trình khoa học đã đƣợc công bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Xuất phát từ nhu cầu lý luận và thực tiễn của pháp luật, dựa trên những đƣờng lối,
chủ trƣơng, chính sách xây dựng kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế một cách toàn diện;
thông qua việc nghiên cứu các học thuyết tự do ý chí của các quốc gia trên thế giới
đồng thời với việc tìm hiểu các quy định về tự do ý chí trong hợp đồng theo quy định
của Bộ luật Dân sự 2015 và các văn bản pháp luật khác, so sánh với Bộ luật Dân sự
2005, qua đó có cái nhìn toàn diện về vấn đề tự do ý chí trong quan hệ pháp luật dân
sự. Nêu thực trạng các quy định pháp luật hiện nay về tự do ý chí và những định
hƣớng, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Nêu và phân tích những vấn đề lý luận về tự do ý chí trong hợp đồng nhƣ khái

niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở.
- Phân tích, đánh giá những quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về tự do ý chí
trong hợp đồng.
3


- Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về ý chí và tự do ý chí của chủ thể trong
quan hệ pháp luật dân sự trên cơ sở phân tích, đối chiếu các văn bản pháp luật và quá
trình áp dụng pháp luật để tìm ra nguyên nhân, bất cập trong thực tiễn.
- Kiến nghị một số định hƣớng và giải pháp nhằn xây dựng hoàn thiện pháp luật
về tự do ý chí của chủ thể trong hợp đồng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu:Những vấn đề lý luận về tự do ý chí trong hợp đồng;
những quy định của pháp luật về tự do ý chí trong hợp đồng; thực tế áp dụng quy định
tự do ý chí trong thực tiễn hiện nay và đề xuất phƣơng hƣớng hoàn thiện.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về tự do ý chí
của chủ thể trong hợp đồng dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, trên cơ sở
so sánh với các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và thực tiễn áp dụng pháp luật hiện
hành nhằm đƣa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những vƣớng mắc đã và sẽ xảy ra khi
áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự.
5. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nội dung nghiên cứu
Ý chí và tự do ý chí trong hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu
luận văn đã sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội và các
phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài. Các phƣơng pháp
chủ yếu là: phƣơng pháp mô tả, phƣơng pháp phân tích quy phạm, phƣơng pháp phân
tích lịch sử, phƣơng pháp so sánh pháp luật,...
- Phƣơng pháp mô tả đƣợc sử dụng chủ yếu nhằm mô tả các quy định của pháp

luật và các vụ việc liên quan. Qua đó, luận văn tạo ra bức tranh chân thực của hiện tại.
Phƣơng pháp mô tả theo hai hƣớng sao lại và phản ánh.
- Phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng chủ yếu để tìm hiểu các quy định của pháp
luật, cũng nhƣ các vụ việc có liên quan tới xác định ngữ nghĩa của quy phạm pháp luật,
tính hợp lý khi áp dụng.
- Phƣơng pháp phân loại đƣợc dùng khi phân biệt các khiếm khuyết (tì vết) của tự
do ý chí trong hợp đồng theo quy định của pháp luật hiện nay.
4


- Phƣơng pháp phân tích lịch sử đƣợc sử dụng nhằm tìm hiểu tổng quát văn hóa
pháp lý Việt Nam và thế giới liên quan đến việc hình thành học thuyết tự do ý chí trong
hợp đồng.
- Phƣơng pháp so sánh pháp luật đƣợc sử dụng để làm rõ các vấn đề của pháp luật
Việt nam nhằm đƣa ra các kiến nghị phù hợp
6. Tính mới và đóng góp của đề tài
Những đóng góp mới của luận văn gồm:
- Một là, về mặt lý luận: luận văn tập trung nghiên cứu có hệ thống các khái niệm,
các học thuyết về tự do ý chí, qua đó thấy đƣợc các đặc điểm của ý chí và tự do ý chí
của chủ thể khi tham gia các giao dịch dân sự. Từ đó, tác giả đi luận giải các vấn đề cơ
bản về tự do ý chí của chủ thể trong hợp đồng.
- Hai là, về mặt thực tiễn: Tìm ra các hạn chế, bất cập của các quy định của pháp
luật về vấn đề này. Tác giả sẽ phân tích tình hình thực hiện và áp dụng pháp luật hiện
hành, so sánh với các quy định của Bộ luật dân sự 2015 để đƣa ra các vƣớng mắc, khó
khăn trong thực tiễn.
- Ba là, về định hƣớng hoàn thiện: từ những phân tích lý luận, tìm hiểu thực tiễn
quy định của pháp luật và thực hiện pháp luật, tác giả sẽ nêu lên các định hƣớng, giải
pháp mang tính toàn diện nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và thực hiện
pháp luật về vấn đề nghiên cứu trong thực tiễn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chƣơng.

5


6


1


Chƣơng 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỰ DO Ý CHÍ TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
1.1. Khái luận về hợp đồng và giao kết hợp đồng
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng và bản chất của hợp đồng
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng trong pháp luật một số quốc gia trên thế giới
Trong lĩnh vực luật tƣ, Luật Hợp đồng là một trong những luật lâu đời nhất điều
chỉnh các quan hệ giao lƣu dân sự, kinh doanh, thƣơng mại. Nếu nhƣ sự an toàn của
con ngƣời đƣợc bảo vệ trên cở sở những quy định của Luật Hình sự, thì sự an toàn về
tài sản trong giới kinh doanh, giao lƣu buôn bán đƣợc bảo đảm trên cơ sở các quy định
của Luật Hợp đồng [37, tr.7].
Khi nghiên cứu về hợp đồng, có tác giả đã nhận xét: khó có thể nói chính xác hợp
đồng có từ khi nào. Chỉ biết rằng thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) vốn phát sinh từ
động từ “contrahere” trong tiếng Latinh có nghĩa là “ràng buộc” và xuất hiện đầu tiên
ở La Mã khoảng thế kỷ V - IV trƣớc Công nguyên. Sau khi đế quốc La Mã tan rã
(khoảng thế kỷ V - VI sau Công nguyên), các nƣớc Châu Âu chấp nhận dùng thuật ngữ
“hợp đồng” khởi nguồn từ luật La Mã [2, tr.39]. Ngay từ thời La Mã cổ đại, Nhà nƣớc
La mã đã có những quy định về các loại hợp đồng cụ thể trong pháp luật của mình:
Hợp đồng mua bán, hợp đồng trao đổi, hợp đồng cho vay, hợp đồng gởi giữ, hợp đồng

cầm cố, hợp đồng ủy thác,... Trên cơ sở hệ thống hóa các dạng khế ƣớc phổ biến, các
luật gia La Mã định nghĩa hợp đồng (contractus) là căn cứ làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quan hệ pháp luật với hai dấu hiệu đặc trƣng: Thứ nhất, phải có sự thỏa thuận
(conventio, consensus) - sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp
lý; Thứ hai, phải có mục đích (căn cứ pháp lý) nhất định (causa) mà các bên hƣớng tới.
Pháp luật La Mã cũng quy định cụ thể các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng: ý chí
các bên tham gia giao dịch; nội dung hợp đồng hợp pháp và đƣợc xác định; đối tƣợng
hợp đồng phải thực hiện đƣợc; thỏa mãn điều kiện hình thức hợp đồng;...[2, tr.39]; [42,
tr. 111-119].
Tính chặt chẽ và khái quát của khái niệm hợp đồng trong Luật La Mã đã đƣa chế
định hợp đồng La Mã vƣợt ra ngoài lãnh thổ rộng lớn của nó, quan niệm về hợp đồng
của ngƣời La Mã đƣợc áp dụng rộng rãi trong luật pháp các nƣớc Tây Âu. Ảnh hƣởng
1


của khái niệm hợp đồng La Mã ngày càng đƣợc khẳng định cùng với sự ra đời của các
bộ dân luật ở các nƣớc khác nhau, nhất là ở Châu Âu, bắt đầu từ Bộ luật Dân sự Pháp
(1804) - bộ luật dân sự đầu tiên trên thế giới cho đến các bộ luật dân sự hiện hành của
các quốc gia khác nhƣ: Bộ luật Dân sự Tây ban Nha (1889), Bộ luật Dân sự Nhật Bản
(1895), Bộ luật Dân sự Đức (1896), Bộ luật Dân sự Ý (1942), Bộ luật Dân sự Liên
Bang Nga (1994),...
Đƣợc xem là một trong những bộ luật có ảnh hƣởng lớn đến nền pháp luật dân sự
Châu Âu lục địa, Bộ Luật Dân sự Pháp (Code civil) (1804) định nghĩa hợp đồng nhƣ
sau: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều ngƣời cam kết
với một hoặc nhiều ngƣời khác về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm một
công việc nào đó” (Điều 1101). Theo quan niệm của ngƣời Pháp, hợp đồng trƣớc hết là
một hành vi pháp lý thể hiện ý chí làm phát sinh các hệ quả pháp lý của các bên. Sự
thống nhất ý chí giữa các bên làm phát sinh một hệ quả pháp lý đặc biệt là nghĩa vụ
hợp đồng [11, tr.3-4]. Quan điểm này có ý nghĩa phân biệt hợp đồng với các thoả thuận
khác không đƣợc coi là hợp đồng nhƣ: các thoả thuận đạt đƣợc không thể hiện ý chí

đích thực của các bên (bị nhầm lẫn, bị lừa dối hoặc bị đe doạ) hay các thoả thuận
không nhằm mục đích làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý… Bộ luật Dân sự Liên Bang
Nga (1994) định nghĩa hợp đồng tại Điều 420 “là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”...
Bộ luật Dân sự của Đức (1896) (sửa đổi năm 2003) không đƣa ra định nghĩa hợp
đồng nhƣ Bộ luật Dân sự của Pháp, mà đề cập đến khái niệm hợp đồng thông qua quy
định về việc xác lập hợp đồng. Việc tuyên bố ý chí của một bên có hiệu lực ràng buộc
đối với bên đó kể từ thời điểm bên kia nhận đƣợc tuyên bố này (thuyết tiếp nhận). Do
đó, đề nghị giao kết hợp đồng đƣợc đƣa ra cho một ngƣời cụ thể sẽ có hiệu lực ràng
buộc bên đề nghị giao kết hợp đồng và hợp đồng coi nhƣ đã đƣợc hình thành kể từ thời
điểm bên đề nghị giao kết nhận đƣợc chấp thuận giao kết của ngƣời đó [19]; [29, tr.63].
Điều 145 Bộ luật Dân sự của Đức quy định “ngƣời đƣa ra đề nghị giao kết hợp đồng
với ngƣời khác phải chịu ràng buộc với đề nghị của mình, trừ trƣờng hợp ngƣời đƣa ra
đề nghị thể hiện rõ rằng, anh ta không bị ràng buộc bởi đề nghị đó”.
Đối với các nƣớc theo truyền thống luật án lệ (Common Law) nhƣ: Anh, Mỹ,…
hợp đồng đƣợc hiểu “thỏa thuận ràng buộc về mặt pháp lý giữa hai bên hoặc nhiều bên
2


hoặc (nhƣ một số định nghĩa đã đặt ra) một tập hợp các lời hứa ràng buộc về mặt pháp
lý đƣợc thực hiện bởi một bên hoặc nhiều bên” [58], chẳng hạn tại Điều 1-201 Bộ luật
Thƣơng mại thống nhất (UCC) định nghĩa hợp đồng là “ khối nghĩa vụ pháp lý, phát
sinh từ thỏa thuận giữa các bên theo quy định của Luật này và những quy định khác có
liên quan”. Theo đó, để hình thành nên một hợp đồng cần có bốn yếu tố cơ bản sau: Đề
nghị giao kết (offer), sự chấp thuận đề nghị (acceptance), nghĩa vụ đối ứng
(consideration) và ý định thiết lập nghĩa vụ pháp lý (intention to effect legal
obligations) [11]. Sự khác biệt cơ bản trong pháp luật hợp đồng của Common Law so
với Civil Law chính là điều kiện về nghĩa vụ đối ứng (consideration). Theo PGS. TS
Phạm Duy Nghĩa “ để hợp đồng đƣợc xác lập một cách có hiệu lực, ngoài cam kết các
bên phải tồn tại consideration nhƣ là lời hứa của ngƣời đƣợc đề nghị giao kết hợp đồng

sẽ thực hiện một nghĩa vụ đối ứng” và “theo thông luật, consideration phải đƣợc hiểu
nhƣ là sự trả giá cho một ngƣời khi ngƣời này hứa thực hiện một hành vi nhất định”
[34]. Nhƣ vậy, có thể hiểu, nghĩa vụ đối ứng (consideration) là cái giá (vật, tiền,
việc,...) mà mỗi bên phải trả hoặc nhận đƣợc hoặc từ bỏ theo thoả thuận. Về nguyên
tắc, nếu không có nghĩa vụ đối ứng thì hợp đồng không có giá trị ràng buộc các bên
trong hợp đồng, tuy nhiên không phải hợp đồng nào cũng bắt buộc có nghĩa vụ đối
ứng.
Đối với các quốc gia trong khu vực châu Á, tƣ duy pháp lý về hợp đồng cũng tồn
tại nhiều quan điểm, tùy thuộc vào dòng họ pháp luật mà quốc gia đó chịu ảnh hƣởng.
Tại Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc 1999 quy định: “Hợp đồng theo quy định
của luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên, các tổ chức khác…”, rõ ràng, khái niệm này có
nhiều điểm tƣơng đồng với khái niệm hợp đồng trong pháp luật La Mã khi xem hợp
đồng là một căn cứ xác lập nghĩa vụ và cũng chỉ ra sự tự do ý chí khi nhấn mạnh yếu tố
“bình đẳng” giữa các chủ thể trong hợp đồng.
Bộ luật dân sự và Thƣơng mại của Thái Lan lại không đƣa ra một khái niệm cụ
thể cho hợp đồng dù quy định riêng một tiêu đề thứ 2: “hợp đồng” trong Bộ luật của
mình. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định trong chƣơng I “Sự hình thành hợp đồng”,
có thể thấy rằng quan điểm của những nhà làm luật Thái Lan khá tƣơng đồng với
những nhà lập pháp theo hệ thống Common Law khi cho rằng hợp đồng trƣớc tiên
3


đƣợc hình thành do lời đề nghị giao kết, sau đó nó sẽ đƣợc chính thức trở thành hợp
đồng khi lời đề nghị đó đƣợc chấp nhận (phải thỏa mãn một số điều kiện nhƣ: thời hạn
trả lời, điều kiện về sự thiện chí, không dối trá,…).
1.1.1.2. Khái niệm Hợp đồng trong pháp luật Việt Nam
Ở Việt Nam, việc xuất hiện các định nghĩa khái quát về khế ƣớc trong Bộ Dân
luật Bắc Kỳ (1931), Bộ Dân luật Trung Kỳ (1936) đã đánh dấu sự hình thành chính
thức những khái niệm đầu tiên về hợp đồng trong lịch sử lập pháp nƣớc ta.

Theo quy định tại Điều 664 Dân luật Bắc kỳ và Điều 680 Bộ Dân luật Trung Kỳ
thì: Khế ƣớc là hiệp ƣớc do một ngƣời hay nhiều ngƣời cam đoan với một ngƣời hay
nhiều ngƣời khác để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì. Từ khái niệm này, có
thể thấy khế ƣớc thực chất là sự thỏa thuận giữa ít nhất hai ngƣời để xác lập quyền,
nghĩa vụ của ngƣời này đối với ngƣời khác và ngƣợc lại.
Thuật ngữ „khế ƣớc‟ cũng đƣợc sử dụng trong Sắc lệnh 97/SL của nƣớc Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, đƣợc Hồ Chủ tịch ký ban hành ngày 22/5/1950 (Điều 13).
Thuật ngữ “khế ƣớc” cũng đƣợc sử dụng trong Bộ Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam
Cộng hòa ở miền Nam trƣớc 30/4/1975 (DLSG 1972) (Điều 653). Tiếp thu quan điểm
của những bộ dân luật trƣớc đó, Điều 653 của Bộ dân luật Sài Gòn quy định: Khế ƣớc
hay hiệp ƣớc là một hành vi pháp lý do sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều ngƣời để tạo
lập, di chuyển, biến cải hay tiêu trừ một quyền lợi, đối nhân hoặc đối vật .
Sau khi thống nhất đất nƣớc năm 1975, trong khoảng 10 năm đầu, pháp luật dân
sự vẫn ở vào tình trạng kém phát triển, hầu nhƣ không có văn bản nào chứa đựng có hệ
thống các quy định về dân sự đƣợc ban hành. Từ năm 1987, việc tích lũy của cải ở tƣ
nhân đƣợc khuyến khích và lƣu thông dân sự phát triển nhanh, nhằm kịp thời điều
chỉnh các quan hệ tài sản ngày càng phong phú và đa dạng, nhà nƣớc đã xây dựng một
loạt các văn bản pháp luật liên quan để điều chỉnh, trong đó có pháp luật về hợp đồng.
Từ lúc này, thuật ngữ “khế ƣớc” hay “hiệp ƣớc” không còn đƣợc sử dụng nữa mà thay
vào đó là thuật ngữ “hợp đồng” - hiện đại, chính xác và phổ biến hơn.
Pháp luật hợp đồng của Việt Nam thời kỳ đầu không đƣa ra định nghĩa hợp đồng
nói chung, mà đƣa ra định nghĩa các loại hợp đồng khác nhau: hợp đồng kinh tế (Điều
1 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989), hợp đồng dân sự (Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng
dân sự 1991, sau đó đƣợc thay thế bởi Điều 394 BLDS 1995), hợp đồng thƣơng mại
4


(Luật Thƣơng mại 1997) không đƣa ra định nghĩa về hợp đồng thƣơng mại nhƣng lại
quy định về các loại hợp đồng đƣợc giao kết để thực hiện các hoạt động thƣơng mại
theo quy định của Luật Thƣơng mại. Ba loại hợp đồng này có đặc điểm khác biệt và

đƣợc điều chỉnh bởi ba văn bản pháp luật khác nhau. Đây là nguyên nhân tạo ra những
bất cập, hạn chế trong lĩnh vực pháp luật hợp đồng của Việt Nam trƣớc đây. Để khắc

phục hạn chế này, pháp luật hợp đồng của Việt Nam đã đƣợc sửa đổi theo hƣớng
không có sự phân biệt một cách rạch ròi giữa hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế
và hợp đồng thƣơng mại, thông qua việc ban hành Bộ luật Dân sự 2005, Luật
Thƣơng mại 2005 và bãi bỏ Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế 1989.
Điều 388 BLDS 2005 quy định: ”Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Nhƣ
vậy, BLDS 2005 đã giữ nguyên khái niệm về hợp đồng dân sự trong BLDS 1995 (Điều
394) nhƣng mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Từ thời điểm đó, không còn tồn tại khái
niệm về “hợp đồng kinh tế”, thuật ngữ dân sự đƣợc nhận thức không chỉ là các quan hệ
mang tính sinh hoạt tiêu dùng mà còn bao quát cả các quan hệ kinh doanh, thƣơng mại
và lao động (Điều 1, BLDS 2005). Thế nhƣng, suy cho cùng với quan điểm trên thì dĩ
nhiên cụm từ “dân sự” đi kèm với khái niệm hợp đồng đã không mấy ý nghĩa và thực
tế có không ít trƣờng hợp có ngƣời căn cứ vào cụm từ “dân sự” để thu hẹp vai trò, ý
nghĩa của chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005. Khắc phục hạn chế này, tại
BLDS 2015 này các nhà làm luật đã có những chỉnh sửa liên quan đến khái niệm “hợp
đồng”, BLDS hiện hành đã chọn cụm từ “hợp đồng” thay cho “hợp đồng dân sự”. Cụ
thể, Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Điểm mới này không
chỉ là sửa đổi về kỹ thuật lập pháp mà còn thể hiện tính minh bạch trong thực tiễn áp
dụng, mở rộng phạm vi điều chỉnh: Hợp đồng dân sự, hợp đồng thƣơng mại, hợp đồng
đầu tƣ, hợp đồng kinh doanh bảo hiểm,…
Nhƣ vậy, dù có khác biệt về vị trí địa lý hay thời gian thì khái niệm hợp đồng mà
hệ thống pháp luật các nƣớc đề cập đều có chung bản chất là sự thỏa thuận của các bên,
là kết quả của quá trình thƣơng thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Yếu tố cơ bản để hình thành

5



hợp đồng chính là sự tự do ý chí (sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên khi tham
gia giao dịch), “dù ở hệ thống pháp luật nào, ngƣời ta cũng đều thừa nhận nền tảng của
luật hợp đồng là tự do ý chí, có nghĩa tự do ý chí là vấn đề trọng yếu của hợp đồng”
[10].
Với tƣ cách là một giao dịch dân sự, hợp đồng bao hàm hai yếu tố: sự thỏa thuận
và mục đích tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên.
Thứ nhất, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên. Sự thỏa thuận ở đây đƣợc hiểu
là toàn bộ quá trình từ khi thƣơng lƣợng đến khi thống nhất ý chí giữa các bên nhằm
đạt đƣợc sự nhất trí chung, hay sự đồng thuận giữa hai hay nhiều bên đó. Sự thỏa thuận
là kết quả của sự thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí của mỗi bên, đặt trong mối
liên hệ thống nhất với sự ƣng thuận tƣơng ứng của một hoặc các bên khác, tạo thành sự
đồng thuận của các bên, nhằm đạt một mục đích xác định [17, tr. 18].
Ý chí là khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hƣớng hoạt động của
mình, khắc phục khó khăn nhằm đạt đƣợc mục đích đó. Ý chí của chủ thể là tự do, biểu
hiện cụ thể qua việc chủ thể tự mình quyết định lựa chọn hay không một tình huống
nhất định dựa trên sự phán đoán, cân nhắc của mình. Mặt khác, để đạt đƣợc sự thỏa
thuận trên thực tế thì ý chí bên trong của chủ thể phải đƣợc biểu lộ ra bên ngoài dƣới
một hình thức nhất định. Sự biểu lộ ý chí ra bên ngoài này phải phản ánh đƣợc thực
chất nội dung của ý chí bên trong, tức là sự bày tỏ ý chí phải đƣợc phản ánh đúng
nguyện vọng của chủ thể giao kết. Khác với hành vi pháp lý đơn phƣơng chỉ là sự
thống nhất ý chí của một bên, bản chất thỏa thuận của hợp đồng lại luôn cần sự thống
nhất ý chí của các bên tham gia quan hệ. Sự thống nhất ý chí này có thể đạt đƣợc ngay
sau khi các bên biết đƣợc ý chí của nhau hoặc cũng có thể phải trải qua một quá trình
và cần một khoảng thời gian nhất định. Các bên sẽ phải bàn bạc, trao đổi nhằm làm rõ
ý chí của nhau và cùng nhau giải quyết các mâu thuẫn phát sinh về vấn đề lợi ích, quan
điểm,…để đi đến sự đồng thuận. Thông thƣờng, sự thống nhất ý chí của các bên sẽ đạt
đƣợc khi các bên dung hòa đƣợc lợi ích khi tham gia hợp đồng. Song, sự thỏa thuận
không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung chung mà còn phải có nội dung cụ thể, mục đích

rõ ràng. Các bên phải thống nhất về mục đích của hợp đồng là chuyển giao một vật
hoặc làm một việc gì cụ thể. Nếu một bên thể hiện ý chí muốn bán xe ô tô mà bên kia
chỉ muốn mƣợn xe thì đó thì không thể có một sự „hiệp ý‟. Hơn nữa, nếu các bên đồng
6


ý cùng nhau mua bán xe ô tô, nhƣng không thống nhất đƣợc với nhau về giá, thời điểm
giao xe, trả tiền,... thì hợp đồng chƣa chắc đƣợc thiết lập. Một thỏa thuận chỉ đƣợc coi
là có giá trị pháp lý, nếu nội dung và mục đích của nó không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Nếu thoả thuận đó bị khiếm khuyết do hậu quả
của hành vi đe doạ, lừa dối, nhầm lẫn hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, trái trật
tự công cộng sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là không thừa nhận giá trị pháp lý cũng nhƣ
tính hợp pháp của hợp đồng. Về vấn đề này, theo PGS.TS Phạm Hữu Nghị “ Tất cả các
hợp đồng đều là sự thoả thuận. Chỉ đƣợc coi là hợp đồng những thoả thuận thực sự phù
hợp với ý chí của các bên, tức là có sự ƣng thuận đích thực giữa các bên. Hợp đồng
phải là giao dịch hợp pháp, do vậy sự ƣng thuận ở đây phải là sự ƣng thuận hợp lẽ công
bằng, hợp pháp luật, hợp đạo đức. Những trƣờng hợp có sự lừa dối, đe doạ, cƣỡng bức
thì dù có sự ƣng thuận cũng không đƣợc coi là hợp đồng, tức là có sự vô hiệu của hợp
đồng” [31, tr.22, 71]. Theo TS. Lê Thị Bích Thọ, về mặt pháp lý, hợp đồng phải đáp
ứng yêu cầu thể hiện sự tự do ý chí của các bên tham gia ký kết, là sự thoả thuận, sự
thống nhất ý chí đích thực của các bên đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo vệ [42, tr. 1316]. Đây là đặc điểm mà pháp luật về hợp đồng của hầu hết các nƣớc đều quy định nhƣ
là một nguyên tắc cơ bản trong giao kết hợp đồng: nguyên tắc tự do ý chí.
Thứ hai, một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng, nếu không tạo nên hiệu lực
ràng buộc giữa các bên, tức là việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ dân sự. Một lời hứa danh dự hay lời hứa tặng quà cho bạn hoặc một thỏa
thuận sẽ chở bạn đi ăn tối không phải là hợp đồng, vì chúng không tạo ra sự ràng buộc
quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Sự vi phạm lời hứa hoặc các cam kết mang
tính chất xã giao nhƣ trên có thể làm cho ngƣời thất hứa bị mất uy tín, bị dƣ luận chê
trách, nhƣng không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý và không thể bị áp dụng chế tài
dân sự nhƣ trƣờng hợp vi phạm hợp đồng. Do đó, không thể có hợp đồng nếu không có

sự thỏa thuận giữa các bên và nếu sự thỏa thuận của các bên không nhằm tạo ra một
ràng buộc pháp lý giữa các bên.
Tóm lại, tự do ý chí trong giao kết hợp đồng chính là yếu tố tiền đề, cơ bản để
hình thành hợp đồng. Khi xã hội đã đạt tới một trình độ nhất định thì tất cả các học
thuyết về quyền tự do của con ngƣời đều thừa nhận tự do hợp đồng là quyền thiêng

7


liêng bất khả xâm phạm và tôn trọng các hình thức hợp đồng là một nét đặc trƣng quan
trọng của đời sống văn minh [15]
Tuy nhiên, không thể có tự do ý chí tuyệt đối đƣợc. Pháp luật tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do cam kết thỏa thuận của các bên tham gia giao kết hợp đồng, tôn trọng
và bảo vệ những lợi ích mà các bên mong muốn đạt đƣợc nhƣng có những giới hạn
nhất định. Chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng không thể “bất chấp tất cả” để thỏa
mãn nhu cầu của mình. Chủ thể khi tham gia vào các quan hệ trong phạm vi, giới hạn
mà pháp luật quy định, có khả năng tự xác định mục đích cho hành động của mình dù
là hành vi pháp lý đơn phƣơng hay xác lập hợp đồng dân sự. Đây cũng chính là giới
hạn của tự do ý chí.
1.1.2. Giao kết hợp đồng
Giao kết hợp đồng có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên
theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định, đƣợc pháp luật thừa nhận,
nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự.
Thông thƣờng, hợp đồng đƣợc hình thành bởi quá trình mà trong đó các bên tự do
thể hiện ý chí thông qua đề nghị giao kết và chấp nhận hợp đồng. Khái niệm về đề nghị
và chấp nhận vốn thƣờng đƣợc dùng để xác định hợp đồng đã đƣợc giao kết hay chƣa
và nếu có thì khi nào?[8, tr.78]. Một sự thỏa thuận đƣợc xem là tồn tại nếu có sự gặp
gỡ của các ý chí. Nếu không có sự gặp gỡ đó tòa án xem nhƣ không có sự tồn tại hợp
đồng giữa các bên. Sự thỏa thuận đƣợc hình thành khi lời đề nghị giao kết hợp đồng
của ngƣời này đƣợc ngƣời đƣợc đề nghị chấp nhận. Vì vậy, xem xét đề nghị và chấp

nhận là yếu tố thiết yếu để nhận biết sự thỏa thuận. Rõ ràng, khi giải quyết tranh chấp
thì vấn đề đầu tiên phải xác định là giữa các bên tranh chấp có quan hệ hợp đồng hay
không? Tuy nhiên, việc xem xét có quan hệ hợp đồng hay không dựa vào các yếu tố đề
nghị và chấp nhận có rất nhiều khó khăn, phức tạp [10, tr.223]. Rất nhiều trƣờng hợp
khó có thể xác định bên nào đề nghị giao kết và bên nào chấp nhận đề nghị khi các bên
cùng ký vào hợp đồng đƣợc soạn thảo bởi công chứng viên hoặc bởi một ngƣời, cơ
quan có thẩm quyền khác. Ngay cả khi cả hai bên cùng bàn bạc, cùng đƣa ra điều kiện,
yêu cầu với nhau và cuối cùng đi đến sự nhất trí giao kết hợp đồng bởi những cuộc
thƣơng thuyết, trao đổi nhƣ vậy không hề có bất cứ giá trị ràng buộc pháp lý nào và

8


quá trình đàm phán, bàn bạc giữa các bên không mang ý nghĩa đề nghị giao kết và chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
1.1.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
Khi một ngƣời muốn thiết lập một hợp đồng dân sự thì ý muốn đó phải thể hiện
ra bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ có nhƣ vậy, phía đối tác mới có thể
nhận biết đƣợc ý muốn của họ và từ đó mới có thể đi đến việc giao kết hợp đồng. Đề
nghị giao kết hợp đồng là việc một bên biểu lộ ý chí của mình trƣớc ngƣời khác bằng
cách bày tỏ cho phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết với ngƣời đó một hợp đồng
dân sự. Định nghĩa về đề nghị đƣợc đề cập trong nhiều tài liệu cũng nhƣ văn bản pháp
luật. Khoản 1, Điều 386 BLDS 2015 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể
hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị
đối với bên đã đƣợc xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên đƣợc đề
nghị)”.
Các văn kiện pháp lý quốc tế, pháp luật của các quốc gia trên thế giới về hợp
đồng đƣa ra định nghĩa khái niệm “đề nghị” có phần hơi khác định nghĩa của BLDS
2015. Các nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thƣơng mại quốc tế 2004 định nghĩa: “
Một đề xuất giao kết hợp đồng tạo thành một đề nghị nếu nó xác định một cách thích

đáng và biểu lộ rõ ý chí của ngƣời đề nghị bị ràng buộc trong trƣờng hợp đƣợc „chấp
nhận” (2.1.2).
Các nguyên tắc của luật hợp đồng Châu Âu xác định:
“ Một đề xuất đƣợc xem là đề nghị nếu:
a) Đề xuất này có ý muốn về hậu quả trong một hợp đồng nếu bên khác chấp
nhận đề xuất đó, và
b) Đề xuất đó bao gồm một cách thích đáng các điều kiện xác định để tạo lập một
hợp đồng” (Điều 2.201, Khoản 1)
Theo pháp luật Hoa Kỳ, đề nghị có ba điều kiện:
Một, phải biểu lộ ý chí rõ ràng về giao kết hợp đồng
Hai, phải xác định thích đáng để tòa án có thể định rõ ý chí đích thực của các bên
Ba, đề nghị phải truyền đạt đến bên kia[10, tr.231]
Theo pháp luật Anh, Úc, điều kiện của đề nghị bao gồm:
(1) Đề nghị phải nhất thiết phân biệt với lời mời đàm phán
9


(2) Đề nghị có thể đƣợc tạo lập ra cho một ngƣời hoặc nhiều ngƣời cụ thể, hoặc
một nhóm ngƣời hoặc với cả thế giới.
(3) Đề nghị phải nhất thiết đƣợc truyền dạt tới ngƣời hoặc những ngƣời dự định.
(4) Đề nghị có thể đƣợc hủy bỏ tại bất kỳ thời điểm nào trƣớc khi đƣợc chấp nhận
[10, tr. 232]
Từ đó có thể thấy nhận thức về đề nghị không quá khác nhau giữa các hệ thống
pháp luật. Nhƣ vậy, đề nghị giao kết hợp đồng không thể thiếu các điều kiện sau:
Một là, đề nghị giao kết hợp đồng phải đƣợc thể hiện ra bên ngoài bằng hình thức
cụ thể: lời nói, văn bản, hành vi cụ thể,...
Hai là, đề nghị giao kết phải hƣớng tới đối tƣợng xác định, có thể là một ngƣời
hoặc nhóm ngƣời, thậm chí cũng có thể hƣớng tới công chúng nói chung; có kèm theo
hoặc không kèm theo thời hạn trả lời.
Đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực pháp lý bắt buộc với bên đề nghị. Tuy

nhiên trách nhiệm này không phải vô hạn mà tùy thuộc vào hiệu lực của lời đề nghị.
Đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực vào thời điểm đƣợc gởi tới cho ngƣời đề nghị
hoặc do ngƣời đề nghị ấn định.
Đề nghị có kèm thời hạn trả lời thì đó là thời hạn có hiệu lực của đề nghị, trong
khoảng thời gian này ngƣời nhận có quyền chấp nhận và hợp đồng đƣợc giao kết. Đây
là thời gian ràng buộc trách nhiệm của bên đƣa ra lời đề nghị, bên đề nghị không đƣợc
giao kết hợp đồng với bên thứ ba trong khi chờ bên đƣợc đề nghị trả lời.
Trong đề nghị không kèm theo thời hạn trả lời thì cũng phải xác định một khoảng
thời gian hợp lý để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Khoảng thời gian
này tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể mà có cách xác định riêng cho phù hợp, nhƣ: đối
tƣợng của hợp đồng, phƣơng thức liên lạc, thói quen, tập quán thƣơng mại giữa các
bên,...
Ba là, đề nghị phải đƣợc truyền đạt tới ngƣời đƣợc đề nghị. Một đề nghị giao kết
hợp đồng muốn trở thành hợp đồng thì điều quan trọng là bên đƣợc đề nghị phải nhận
đƣợc lời đề nghị đó. Không thể có việc một ngƣời suy nghĩ là sẽ thiết lập một hợp
đồng, nói với chính mình mà lại có ràng buộc với ngƣời kia.
Bốn là, phải thể hiện đƣợc ý định giao kết hợp đồng hay mong muốn bị ràng buộc
của bên đề nghị tới bên đƣợc đề nghị. Có nghĩa là nếu đề nghị đó đƣợc chấp nhận thì
10


cả hai bên bị ràng buộc vào quan hệ hợp đồng. Ví dụ, trong trƣờng hợp một công ty cổ
phần A kêu gọi mọi ngƣời mua cổ phần của công ty thì đó chỉ là lời mời thƣơng thảo
(đàm phán) mà không phải là đề nghị, công ty có quyền đồng ý bán hoặc không bán.
Nhƣng khi công ty chào bán cổ phần mới thì cổ đông phổ thông có quyền ƣu tiên mua
cổ phần mới chào bán với một tỷ lệ nhất định, lúc này thƣ của công ty thông báo cho
các cổ đông quyền ƣu tiên mua cổ phần của họ đƣợc xem là đề nghị giao kết hợp đồng,
nếu cổ đông chấp nhận mua thì hợp đồng đƣợc xác lập mà công ty không có quyền từ
chối.
Nếu một đề nghị đƣợc đƣa ra mà có sự đàm phán hay thay đổi thì đề nghị ban

đầu chấm dứt sự tồn tại và đơn giản chỉ đƣợc xem nhƣ là một bƣớc thể hiện ý chí của
giai đoạn đàm phán và chỉ đến khi nào tồn tại ý chí rõ ràng của một bên và bên còn lại
chấp nhận một cách vô điều kiện thì sự thể hiện ý chí đó mới đƣợc xem là đề nghị giao
kết hợp đồng.
Tóm lại, có thể nói đề nghị có các đặc trƣng riêng về: ý chí, tính xác định, truyền
đạt và tính ràng buộc.
Cũng cần phân biệt đề nghị với lời mời đàm phán. Trong lời mời đàm phán,
ngƣời đề nghị có thể tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của ngƣời
đƣợc mời; và lời mời đôi khi định ra cách thức để đề nghị giao kết hợp đồng có thể
đƣợc thiết lập. Đề nghị còn phải đƣợc phân biệt với quảng cáo, thậm chí là quảng cáo
có ghi rõ giá cả hàng hóa bởi nếu xem chúng là lời đề nghị thì sẽ dẫn tới trƣờng hợp
phức tạp khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp nếu có xảy ra.
Mặc dù pháp luật Việt Nam hiện nay không quy định rõ về vấn đề này nhƣng
trong thực tiễn thƣơng mại ở Việt Nam, mọi ngƣời có khuynh hƣớng xem giấy báo giá,
catalogue, tờ rơi, báo chí là việc mời đàm phán. Ở các nƣớc Common Law đôi khi tòa
án đƣa ra phán quyết quảng cáo trong một số trƣờng hợp đƣợc xem là đề nghị. Tuy
nhiên, các trƣờng hợp này cần phải có những điều kiện nhất định [10, tr. 238]. Tuy
nhiên, vấn đề quảng cáo không đƣợc điều tiết bởi luật hợp đồng mà có thể đƣợc điều
tiết bởi pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng.
Có thể nói ranh giới giữa đề nghị với lời mời đàm phán hay quảng cáo là khá
mong manh và rất khó phân biệt.

11


1.1.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là hành vi thể hiện ý chí của bên đƣợc đề
nghị đồng ý ký kết hợp đồng theo toàn bộ nội dung và điều kiện của đề nghị đƣa ra.
Khoản 1, Điều 393, BLDS 2015 quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự
trả lời của bên đƣợc đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị”. Chấp

nhận này chỉ có hiệu lực khi nó phù hợp với đề nghị giao kết một cách “tuyệt đối và vô
điều kiện” nhƣng do tính chất mềm dẻo và linh hoạt của giao dịch dân sự nên trong
thực tế vẫn có những trƣờng hợp ngoài lệ, nhất là trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế,
Công ƣớc Viên 1980 và Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thƣơng mại quốc tế
2004 đều có quy định: nếu bên đƣợc đề nghị nhận nhận kèm theo các điều khoản bổ
sung nhƣng không làm biến đổi một cách cơ bản nội dung chủ yếu của đề nghị vẫn
đƣợc coi là trả lời chấp thuận nếu nhƣ bên đề nghị không phản đối ngay những điểm
khác biệt đó (Khoản 2, Điều 19 Công ƣớc Viên 1980; Khoản 2, Điều 2.1.11 Bộ nguyên
tắc của Unidroit về hợp đồng thƣơng mại quốc tế 2004).
Im lặng có phải là chấp nhận mặc nhiên không? Unidroit đã thể hiện rõ vấn đề
này là im lặng hoặc không hành động tự bản thân chúng không phải là chấp nhận.
BLDS Đức 1900 đã cho rằng việc chấp nhận bằng im lặng là hợp pháp nếu có thể lý
giải đƣợc sự im lặng đó là phù hợp với tập quán chung (Điều 151). Tƣơng tự, BLDS
Nga 1994 tại Điều 438 cũng quy định: “Sự im lặng không đƣợc xem là chấp nhận, trừ
khi có sự khác biệt phát sinh từ pháp luật, từ tập quán kinh doanh, hoặc từ quan hệ
trƣớc đó của các bên”.
Luật dân sự Việt Nam cũng có quan điểm nhƣ vậy từ nhiều thập kỷ trƣớc. Theo
Vũ văn Mẫu, việc buộc ngƣời đƣợc đề nghị phải trả lời mỗi lần nhận đƣợc đề nghị
không khác nào xâm phạm đến quyền tự do không ký ƣớc của họ, do đó không thể suy
diễn im lặng là đồng ý, tuy nhiên trong một số trƣờng hợp nhƣ có thói quen quan hệ,
tập quán, các thức thực hành đối với một số lọa hợp đồng hoặc đề nghị chỉ có lợi riêng
cho ngƣời đƣợc đề nghị thì sự suy diễn trên đƣợc xem là có căn cứ [10, tr. 260]. So với
BLDS 2005, BLDS 2015 đã thể hiện sự rõ ràng hơn khi quy định rằng “Sự im lặng của
bên đƣợc đề nghị không đƣợc coi là chấp nhận giao kết hợp đồng, trừ trƣờng hợp có
thỏa thuận hoặc theo thói quen đã đƣợc xác lập giữa các bên”. Quy định trên nhằm cụ

12



×