Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG ĐỐI VỚI HỌC SINH TIỂU HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.33 MB, 25 trang )

1
I.TÊN ĐỀ TÀI
BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG ĐỐI VỚI HỌC SINH
TIỂU HỌC
II.ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường
Vị trí, vai trò của công tác giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường
trước yêu cầu nâng cao chất lượng toàn diện, xây dựng trường học thân thiện
và sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập
quốc tế là rất quan trọng. Công tác giáo dục kỹ năng sống(KNS) cho thế hệ trẻ
đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm . Bởi KNS là một phần không
thể thiếu để hình thành và phát triển nhân cách, đạo đức của học sinh.
Nhân cách và nếp sống mỗi con người hình thành và phát triển chủ yếu
trong lứa tuổi học sinh.Nói cách khác, giáo dục nhà trường nói chung, giáo
dục KNS trong nhà trường nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
việc phát triển và hoàn thiện nhân cách con người. Bởi vì, giáo dục là gì nếu
không phải nhằm mang lại cho đối tượng những kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm ứng xử đối với tự nhiên, xã hội, con người, tạo lập ở các em tình cảm,
thái độ và thói quen đúng đắn, tích cực? Tất cả kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm đó phải được tích luỹ, sàng lọc trong một thời gian dài, do cộng đồng
người đúc rút, thử nghiệm qua thực tiễn. Như vậy, hiển nhiên bản thân quá
trình giáo dục đã là quá trình tiếp thu hệ thống kỹ năng cần thiết phục vụ cho
cuộc sống mỗi con người.
Mục tiêu của giáo dục là “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”(Luật Giáo dục - 2005). Việc giáo dục KNS là rất
cần thiết phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo “con người
mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ” để học sinh được phát triển toàn
diện. KNS vừa là tiền đề vừa là kết quả của quá trình giáo dục. Bởi vì, giáo


dục KNS góp phần xây dựng thói quen học tập đúng đắn, đồng thời những giá
trị tiếp thu từ giáo dục kỹ năng sống sẽ góp phần làm phong phú thêm vốn tri
thức, kinh nghiệm sống của học sinh.
Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở cho học sinh phát triển ở
các bậc học tiếp theo.Vì vậy, người thầy ở bậc tiểu học không những làm
nhiệm vụ “dạy chữ” mà còn “dạy người”.Bên cạnh việc trang bị cho học sinh
những vốn tri thức cơ bản còn cần phải chú ý đến việc rèn KNS, dạy cho các
em biết cách “làm người”, biết thích ứng trước nhu cầu mới của xã hội; tự giải
quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề sức khoẻ,
môi trường, tệ nạn xã hội,...để các em có thể tự tin, chủ động không bị quá
phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích


2
chính đáng và điều kiện thuận lợi cho bản thân, tự rèn luyện, học tập phấn đấu
vươn lên.
2.Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh đất nước đang đang diễn ra quá trình hội nhập mạnh
mẽ, sâu rộng với thế giới, giáo dục KNS cho học sinh cũng chính là giúp các
em có được “cốt cách” một con người, đủ bản lĩnh để ứng phó và tránh được
ảnh hưởng xấu, tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường. Đó là thái độ sống, giá
trị sống căn bản, sống trung thực, can đảm đối mặt sự thật, biết thương yêu và
biết cách vượt lên nghịch cảnh. Ai được học, có cơ hội rèn luyện KNS, ứng
biến tích cực với mọi tình huống xảy ra, biết cách đối diện và đương đầu,
vượt qua những khó khăn, hạn chế những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực…,
người đó được rèn luyện, phát triển tính cách tự chủ, tự tin vào bản thân, tinh
thần trách nhiệm cùng khả năng diễn đạt, thuyết phục, thói quen chia sẻ, giúp
đỡ người khác. Đó chính là những yếu tố quan trọng giúp mỗi người đạt được
thành công trong đời.
Mặt khác, sự phát triển của xã hội cũng tác động mạnh mẽ lên giới trẻ

cả trên hai mặt tích cực và tiêu cực. Nhiều hành vi lệch chuẩn, nhiều tội phạm
mới đã xuất hiện từ đây.Thiếu KNS, một người lớn cũng có thể "gục ngã”,
đầu hàng cuộc sống bằng nhiều cách tiêu cực, nói gì đến dạy dỗ thế hệ trẻ...
Không ít người trưởng thành cũng hạn chế các kỹ năng như giữ gìn hạnh
phúc, kiểm soát bản thân, làm chủ thời gian sống…Không ít người gọi nhầm
số điện thoại mà không xin lỗi, vào phòng không gõ cửa, không nói lời cảm
ơn khi được giúp đỡ, để chuông điện thoại réo ầm ĩ trong cuộc họp, nói cười
oang oang trong bệnh viện...
Nên chăng, chúng ta chú ý bồi dưỡng, rèn luyện cho học sinh năng lực
định hướng, năng lực phê phán, năng lực xử lí tình huống, khả năng tự đề
kháng trước cái xấu, chọn lựa thông tin bổ ích, tránh các thông tin độc hại ?
Theo tôi, công tác giáo dục KNS trong nhà trường sẽ gánh vác một phần quan
trọng trách nhiệm đó. Xưa nay, các trường học của chúng ta dạy rất nhiều
điều nhưng lại không mấy quan tâm đến một thứ rất quan trọng là KNS.
Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về
mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột giáo dục của
thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung
sống - mà thực chất là cách tiếp cận KNS. Đặc biệt, rèn luyện KNS cho HS đã
được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định là một trong năm nội dung của phong
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực” trong các trường
phổ thông giai đoạn 2008- 2013.
Trong thực tế, nhiều trường nhất là các trường tiểu học còn lúng túng
trong việc tổ chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn KNS cho học
sinh.Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn đầu tư, nghiên cứu nội dung về công tác


3
giáo dục KNS ở trường Tiểu học.Với mong muốn giúp các em học sinh tiểu
học được trang bị những kỹ năng cần thiết, thích ứng được với môi trường
sống xung quanh.Tôi xin trình bày đề tài “Biện pháp giáo dục kĩ năng sống

đối với học sinh Tiểu học”.
III.CƠ SỞ LÝ LUẬN
Thực hiện nghị quyết 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008
của Bộ giáo dục và đào tạo Về việc phát động phong trào thi đua: "Xây dựng
trường học thân thiện học sinh tích cực" trong các trường phổ thông giai đoạn
2008-2013, trong đó nội dung : Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh phù hợp
với lứa tuổi của học sinh.
1.Một số quan niệm về kỹ năng sống
Hiện nay, có rất nhiều quan niệm về KNS. Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) định nghĩa kỹ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng
(adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả
trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), KNS là cách tiếp cận
giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự
cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng. Ngắn gọn nhất
đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì,
cảm xúc như thế nào, tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và
làm như thế nào).
Từ các quan niệm trên, có thể thấy KNS là khả năng làm chủ bản thân
của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội,
khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. KNS không
phải tự nhiên có được mà phải được hình thành trong quá trình học tập, lĩnh
hội và rèn luyện trong cuộc sống.
2.Những kĩ năng sống cần rèn cho học sinh Tiểu học
2.1.Kĩ năng sống dựa vào nội dung hoạt động
+ Kỹ năng học tập: kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá năng lực của bản
thân, xác định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, kỹ năng phân tích, kỹ
năng tổng hợp, kỹ năng xây dựng kế hoạch, kỹ năng hệ thống hoá, kỹ năng
trình bày một vấn đề.
+ Kĩ năng lao động, lao động tự phục vụ: kỹ năng thao tác những hoạt

động tự phục vụ như: tự lấy nước uống, tự xúc cơm ăn, tự mặc quần áo, tự đi
giầy, tất (lớp 1, 2); tắm gội (lớp 3, 4, 5),..., kỹ năng sử dụng có hiệu quả một
số dụng cụ chăm sóc cây xanh, chăm sóc vật nuôi trong gia đình, lao động vệ
sinh trường lớp,...
+ Kĩ năng vệ sinh, giữ gìn sức khoẻ: trẻ tự thực hiện được một số hoạt
động như: chải đầu, đánh răng rửa mặt, tắm giặt,..., chơi trò chơi lành mạnh,


4
ăn uống sạch sẽ hợp vệ sinh, thực hiện giờ giấc vui chơi, học tập lao động vừa
sức hợp lý tránh được sự căng thẳng,....
+ Kĩ năng về hành vi, ứng xử: kỹ năng giao tiếp ( nói lời cảm ơn, xin
lỗi phù hợp tình huống, biết cách chào thầy cô giáo, cách xưng hô nói năng
đúng mực với những người lớn tuổi,... ), kỹ năng từ chối, kỹ năng ra quyết
định, kỹ năng hợp tác, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng vận động, kỹ
năng kiềm chế sự tức giận, kỹ năng biểu lộ cảm xúc,...
2.2.Kỹ năng sống dựa vào lĩnh vực tâm lí
+ Nhóm kỹ năng nhận thức: Kỹ năng nhận thức bản thân, tự xác định
được điểm mạnh, điểm yêú của bản thân, kỹ năng đặt ra mục tiêu, kỹ năng
xây dựng kế hoạch, thời gian biểu, kỹ năng khắc phục khó khăn để đạt mục
tiêu, kỹ năng phân tích tổng hợp, tư duy sáng tạo.
+ Nhóm kỹ năng xã hội: Kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ, kỹ năng
giao tiép không lời, kỹ năng thuyết trình trước tập thể, kỹ năng từ chối, kỹ
năng hợp tác, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng biểu lộ, diến đạt cảm xúc,
kỹ năng ra quyết định, kỹ năng vận động và gây ảnh hưởng.
+ Nhóm kỹ năng quản lý bản thân: Kỹ năng làm chủ cảm xúc, vượt qua
lo lắng, sợ hãi, khắc phục sự tức giận, kỹ năng thực hiện tốt thời gian biểu, kỹ
năng bảo vệ sức khoẻ.
IV.CƠ SỞ THỰC TIẾN
1.Thực trạng vấn đề giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường

1.1/Nhận thức đối với công tác giáo dục kỹ năng sống
a. Cán bộ giáo viên :
Trong đội ngũ cán bộ giáo viên nhà trường thời gian qua đã có những
chuyển biến tích cực: Các lực lượng giáo dục đã ý thức được phần nào ý
nghĩa của công tác giáo dục KNS trong nhà trường, từng bước khắc phục
được bệnh chuyên môn đơn thuần chỉ tập trung dạy chữ, học chữ mà không
quan tâm đến dạy người, học làm người. Sự thay đổi về nhận thức này cùng
với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể thông
qua các cuộc vận động lớn đã tạo được một phong trào đẩy mạnh giáo dục
KNS trong các nhà trường khá sôi nổi, rộng khắp và bước đầu phát huy hiệu
quả.
Tuy nhiên, các lực lượng tham gia giáo dục nhận thức về công tác giáo
dục KNS vẫn chưa đầy đủ cả trên bốn phương diện: Vai trò, tầm quan trọng,
về nội dung cũng như các hình thức và phương pháp tiến hành công tác giáo
dục kỹ năng sống trong nhà trường. Nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa
đầy đủ rèn KNS cho học sinh là rèn những kỹ năng gì; vì nhận thức chưa đủ,
chưa rõ nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để
rèn KNS cho học sinh. Các nhà trường đã có tổ chức một số hoạt động nhằm
rèn KNS cho học sinh nhưng còn chung chung, chưa đi sâu, chưa thể hiện
thường xuyên rõ nét.


5
b.Học sinh :
Các em đang ở lứa tuổi tiểu học.Hệ thần kinh của trẻ đang trong thời kì
phát triển mạnh. Khả năng kìm hãm(khả năng ức chế) của hệ thần kinh còn
yếu. Trong khi đó bộ óc và hệ thần kinh của các em đang phát triển đi dần đến
hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích, dễ xúc động, khóc đó lại cười đó.
Khi các em bắt đầu gia nhập cuộc sống nhà trường - đi học tiểu học,
các em được học thêm những điều chưa hề có trong 6 năm đầu đời; các em

phải tiến hành hoạt động học - hoạt động nghiêm chỉnh có kỉ cương, nề nếp
với những yêu cầu nghiêm ngặt.Chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang
hoạt động chủ đạo là học tập, đa số trẻ không tránh khỏi sự bỡ ngỡ, không
dám nói chuyện với bạn bè, không dám chào hỏi thầy cô, không dám xin phép
cô khi ra vào lớp,... không ít những tình huống dở cười dở mếu vì trẻ lớp 1
không dám xin đi vệ sinh rồi bậy ra quần ngay tại trong lớp, hoặc có trẻ xin ra
ngoài đi vệ sinh nhưng lại đi chơi để cô giáo phải đi tìm, ....
Trong nhà trường ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh cãi nhau,
đánh nhau, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp, trốn học đi chơi, chưa lễ phép
và ít chào hỏi khi gặp người lớn tuổi. Đa số các em chưa biết cách lắng nghe
và hợp tác với bạn khi làm việc theo nhóm, chưa biết xử lí các tình huống xảy
ra khi tham gia vào các hoạt động tập thể của lớp, của trường.
1.2/Thuận lợi và khó khăn
a. Thuận lợi:
Công tác giáo dục KNS luôn nhận được sự quan tâm tạo điều kiện giúp
đỡ của Chi bộ Đảng, Ban giám hiệu nhà trường, Hội cha mẹ học sinh và các
tổ chức, đoàn thể khác trong và ngoài nhà trường như Đoàn thanh niên xã,
Hội khuyến học, Hội phụ nữ xã.
Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, có lòng yêu mến trẻ ,tích cực tham gia và
tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong nhà trường.
Thuận lợi lớn của giáo viên hiện nay, đó là Bộ GD-ĐT đã phát hành tài
liệu giáo dục KNS cho học sinh. Cùng với việc tổ chức tập huấn cho đội ngũ
cốt cán của các trường, năm học này Sở GD-ĐT đã tiếp tục chỉ đạo các
trường học tăng cường rèn luyện KNS cho học sinh. Đẩy mạnh thực hiện
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi
thầy cô giáo tâm huyết, trách nhiệm hơn trong việc giáo dục đạo đức, nhân
cách cho học sinh.
b. Khó khăn :
Trường nằm ở địa bàn xã Tam Đại, là một xã nông thôn, đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn. Một bộ phận học sinh có cha mẹ đi làm ăn xa (đi làm

công ở các mỏ vàng trên các huyện miền núi Quảng Nam, vào Thành phố Hồ
Chí Minh làm công nhân… )cuộc sống khó khăn nên chưa có sự quan tâm
đúng mức đến vấn đề giáo dục.
Trường có nhiều cơ sở nên gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức các
hoạt động tập thể để các em tham gia.


6
2.Cách thức và hoạt động giáo dục KNS trong nhà trường hiện nay
- Tích hợp với nội dung các bài học ở tất cả các môn học trên lớp.
- Thực hiện theo từng chủ điểm trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp.
-Qua các buổi sinh hoạt Đội và Sao nhi đồng; các giờ sinh hoạt tập thể.
3.Giới hạn chọn đề tài
Đề tài giới hạn trong phạm vi nghiên cứu trường Tiểu học Thái Phiên,
xã Tam Đại, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
4.Đối tượng nghiên cứu
Cán bộ, giáo viên, học sinh Trường Tiểu học Thái Phiên với công tác
giáo dục kĩ năng sống.
V.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.Điều tra ,tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại trong giáo dục
kỹ năng sống
1.1/Về mặt xã hội :
Nguyên nhân sâu xa của những tồn tại trong công tác giáo dục KNS
cũng chính là một trong những nguyên nhân của những tồn tại trong giáo dục:
đó là lối học khoa cử còn để lại dấu ấn nặng nề trong tâm lý xã hội. Người
dạy và người học tìm cách dạy và học sao cho đạt điểm cao, thi đỗ là được,
không cần biết tri thức đó có thiết thực hay không.Sau này khi rời khỏi ghế
nhà trường các em có kịp thích nghi với môi trường xã hội hay không.
Công tác giáo dục kỹ năng sống đang thiếu cơ chế, thiếu sự phối hợp

chặt chẽ giữa các lực lượng xã hội trong hệ thống chính trị, thiếu cả tinh thần
tích cực của chủ thể.
Nội dung giáo dục kỹ năng sống mặc dù đã được Bộ GD & ĐT đưa vào
trong chương trình giảng dạy nhưng chỉ dừng lại ở mức độ tích hợp với các
môn học khác.Chưa có môn học và thời lượng dành riêng cho bài học giáo
dục KNS.
1.2/ Về phía giáo viên – những người trực tiếp làm công tác giáo
dục kỹ năng sống
Một số ít giáo viên chỉ lo việc “dạy chữ” mà quên mất việc“dạy người”,
giúp các em hình thành KNS. Nhà trường thì chưa có chế tài cụ thể bắt buộc
thực hiện.Hơn nữa, số cán bộ quản lý và giáo viên có năng lực tổ chức, dàn
dựng các chương trình phục vụ công tác giáo dục KNS không nhiều .
Có những thầy cô vụng xử, thiếu khinh nghiệm, không có phương pháp
phù hợp, và chưa thực sự mẫu mực trong ứng xử với các em; thường hay đe
dọa, xử phạt có khi còn dùng lời lẽ thiếu tế nhị, thiếu trách nhiệm với lời nói
của mình, la rầy không đúng chỗ, thù vặt, cố chấp làm tổn thương các em nên
không những không uốn nắn được các em mà còn đẩy các em ngày càng xa


7
nội dung yêu cầu giáo dục hơn. Có những thầy cô, tinh thần trách nhiệm chưa
cao: nhắc nhở học sinh nhưng không có biện pháp, ngại khó, ngại “ va chạm”
đến phụ huynh học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm coi nhẹ, hiểu sai giờ sinh hoạt tập thể.Giờ sinh
hoạt chỉ để nhắc việc thu các khoản tiền, kiểm điểm những em chưa thực hiện
tốt nội qui làm cho lớp bị hạ loại … rồi hăm dọa các em làm cho giờ sinh hoạt
nặng nề.
1.3/Về phía phụ huynh:
Đa số phụ huynh chỉ quan tâm một điều: Hôm nay con được mấy điểm
10? Con có học giỏi không? Điểm thi có cao không? Con có được lên lớp

không ? và gây áp lực lên nhà trường, lên người dạy.Có những gia đình phó
mặc hoàn toàn việc dạy dỗ trẻ cho nhà trường.Có rất ít người để ý đến tác
dụng của giáo dục KNS trong việc giáo dục con em .
Một số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm đến việc làm kinh tế mà quên mất
gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình
đầm ấm, người lớn gương mẫu, quan tâm dạy dỗ trẻ. Không những thế còn có
những gia đình cha mẹ nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè,...ảnh hưởng vô cùng
lớn tới tâm hồn trẻ, tới sự phát triển nhân cách của trẻ.
1.4/ Về phía học sinh:
Gánh nặng áp lực chạy đua học tập khiến các em có rất ít thời gian để
tham gia các hoạt động ngoại khóa tập thể. Ở trường, học theo chương trình
tăng buổi (2 buổi/ngày ).Ở nhà , các em lại phải học thêm , học kèm vào ngày
nghỉ . Đa số các em ít có cơ hội để tham gia các hoạt động giáo dục khác.
Đối với những em được gia đình quá chiều chuộng dẫn đến trẻ thiếu sự
sáng tạo, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các tình huống
trong thực tế lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ
bản thân mình; hoặc có trẻ được chiều chỉ làm theo ý của mình chứ không
làm theo ý người khác...
Hơn nữa, đa số các em lứa tuổi tiểu học là tính hay bắt chước. Các em
thích bắt chước hành vi, cử chỉ, lời nói,... của các nhân vật trong phim, của
các thầy cô giáo, của những người thân trong gia đình. Tính bắt chước là con
dao “hai lưỡi”, vì trẻ em bắt chước cái tốt cũng nhiều nhưng cái xấu cũng
lắm.
Có thể nói rằng nguyên nhân dẫn đến hạn chế về kỹ năng sống chính là
môi trường sống và học tập của học sinh còn rất nhiều vấn đề: thầy cô chưa
thực sự là tấm gương sáng, cha mẹ còn thiếu nhiều về kiến thức nuôi dạy con,
cộng đồng chưa thực sự tuân thủ luật lệ chung...
2.Các giải pháp thực hiện



8
2.1.Giải pháp1 : Xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp (HĐGD NGLL) chú trọng nội dung giáo dục kỹ năng sống
HĐGD NGLL là một bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục ở nhà
trường. Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn văn hóa ở
trên lớp. HĐGD NGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là con
đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và
hành động, góp phần hình thành tình cảm, niềm tin và sự phát triển nhân cách
cho các em; rèn luyện cho các em có các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi
như: kỹ năng giao tiếp ứng xử có văn hóa; kỹ năng tổ chức quản lý và tham
gia các hoạt động tập thể với tư cách là chủ thể của hoạt động; kỹ năng tự
học, kỹ năng tự đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, …
Xây dựng kế hoạch là sự dự kiến trước những công việc cần phải làm
theo một chương trình hành động nhất định nhằm đạt đến mục tiêu đã định
với những phương tiện , điều kiện và thời gian thực hiện cụ thể . Nó là sản
phẩm đầu tiên và quan trọng nhất của hoạt động tư duy quản lí, có tác dụng
làm cơ sở cho việc đưa ra các quyết định . Người quản lí thực hiện nhiệm vụ
quản lí của mình theo kế hoạch .
Quy trình xây dựng kế hoạch bao gồm công việc chuẩn bị, tập hợp
thông tin, xác định mục tiêu cùng các điều kiện cho kế hoạch, xây dựng
phương án đến soạn thảo sơ bộ và hoàn chỉnh văn bản của kế hoạch .
Để xây dựng được nội dung của kế hoạch từng học kỳ và toàn bộ năm
học cho hợp lí, chúng ta phải nắm chắc cũng như biết tiến hành xử lí tốt hàng
loạt thông tin về các mặt chủ yếu như sau:
-Chỉ thị số 3398 /CT-BGDĐT, ngày 12/8/2011, của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2011-2012;
-Công văn số 5483/BGDĐT-GDTH ngày 17/8/2011 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2011-2012
đối với giáo dục tiểu học;

-Căn cứ Công văn số 2228/SGDĐT-GDTH ngày19/8/2011 của Sở
GD&ĐT tỉnh Quảng Nam về Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2011 –
2012 đối với Giáo dục tiểu học;
-Kế hoạch số 2829/KH-SGD&ĐT ngày 04/9/2008 của Sở GD&ĐT về
phát động và triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực”.
-Chương trình công tác Đội, phong trào thiếu nhi và hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp năm học 2011-2012 của Hội đồng Đội huyện.
-Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của nhà trường .
-Những đặc điểm tâm - sinh lí hiện có của học sinh cũng như những
khó khăn, hạn chế, trình độ tác động giáo dục của các bậc cha mẹ ...
Sau khi xử lí được các thông tin trên, tôi xây dựng kế hoạch hoạt động
dựa theo chủ điểm của từng tháng, từng kì phù hợp với đối tượng học sinh
Tiểu học.


9
Ví dụ :
Thời
Chủ
gian
điểm
Tháng
An
9
toàn
giao
thông
Tháng
10


Vệ
sinh
sạch
sẽ

Nội dung giáo dục
-Phát động tháng An
toàn giao thông
-Tuyên truyền nội dung
Những điều cần biết
khi ra đường.
- Giáo dục kỹ năng tự
phục vụ như: đánh
răng, rửa tay, ăn mặc
theo mùa...Biết giữ gìn
vệ sinh cá nhân và vệ
sinh trường lớp.

Hình thức

Thực hiện

-Phát thanh -Đội
Tuyên
Măng non.
truyền măng non.
-Sân khấu
hóa ( kịch )
-Ngoại khoá


- Mời Tổ nữ công
nhà trường.

2.2.Giải pháp 2 : Chú trọng đa dạng hóa hình thức tổ chức hoạt
động
Đa dạng hóa các hình thức tổ chức hoạt động là việc sử dụng nhiều
hình thức tổ chức hoạt động khác nhau một cách linh hoạt và phù hợp với nội
dung hoạt động,với điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị, tài liệu, phương tiện,
tránh lặp lại nhiều lần gây nhàm chán, tẻ nhạt đối với học sinh.
Kỹ năng sống của mỗi người có những yếu tố giống nhau và khác nhau,
nhưng nó sẽ được điều chỉnh, hoặc bổ sung qua sự hòa hợp trong môi trường
hoạt động mang tính tập thể. Do vậy, cần tổ chức tốt hoạt động ngoại khóa,
“diễn đàn” ở phạm vi lớp khối của mình. Mỗi năm học sẽ có một số chủ đề rèn
luyện KNS được triển khai. Trong đó nhà trường cần phát huy vai trò của tổ
chức Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Sao nhi đồng theo các chủ
điểm hàng tháng.
Thường xuyên tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành
mạnh, chơi những trò chơi tương tác, những trò chơi dân gian để các em rèn
luyện tính tập thể, khả năng làm việc nhóm; tổ chức các hoạt động văn nghệ
thể thao, cho HS đi tham quan du lịch, dã ngoại như cha ông ta đã nói: “Đi một
ngày đàng, học một sàng khôn”. Qua các hoạt động rèn cho học sinh kĩ năng
ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn kết tốt, kỹ năng lắng nghe, kỹ
năng hợp tác, kỹ năng quyết định, biết kiềm chế bản thân trong khi xử lí các
tình huống với bạn bè. KNS sẽ được hình thành một cách tự nhiên và hiệu quả
trong chính những môi trường hoạt động cụ thể như vậy chứ không phải chỉ
từ những bài giảng trên lớp.
Sau đây là một số hoạt động giáo dục KNS thường được nhà trường tổ
chức:
Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Đây là một loại hình hoạt động quan

trọng, không thể thiếu được trong sinh hoạt tập thể của trẻ em, nhất là HS tiểu
học. Hoạt động này bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Hát, múa, thơ ca, kịch


10
ngắn, kịch câm, tấu vui, độc tấu, nhạc cụ, thi kể chuyện… Các hoạt động này
góp phần hình thành cho các em kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông.
Đây là một trong những kỹ năng rất quan trọng trong xu thế toàn cầu hóa.
Hoạt động lao động công ích: Tổ chức các hoạt động lao động vừa
sức với học sinh: vệ sinh sân trường, lớp học, trồng chăm sóc cây trên sân
trường, bồn hoa, vườn trường, ; học sinh được rèn một số kỹ năng như: cầm
chổi quét, hót rác, tưới cây, tỉa lá,...; thông qua đó HS biết sử dụng có hiệu
quả đồ dùng lao động. Thông qua lao động công ích sẽ giúp các em gắn bó
với đời sống xã hội. Ngoài ra lao động công ích còn góp phần làm cho trẻ
hiểu thêm về giá trị lao động, từ đó giúp trẻ có ý thức lao động lành mạnh.
Đây là hoạt động tưởng như là thường xuyên nhưng thật ra trong nhà trường
bây giờ HS rất ít được tham gia các hoạt động này. Nhưng đây là hoạt động
thật sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung quanh. Sau này
dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có thể tồn tại được.
Đó là nhờ các em biết lao động.
Hoạt động chào cờ đầu tuần: Một loại hình giáo dục mang tính phổ
biến của trường là nói chuyện truyền thống dưới cờ cho học sinh toàn trường.
Nhà trường cần tổ chức tốt các buổi chào cờ đầu tuần. Theo đó mục tiêu buổi
chào cờ không chỉ là đánh giá xếp loại nền nếp, học tập, các hoạt động giáo dục
trong tuần qua của giáo viên trực, triển khai kế hoạch tuần tới của nhà trường mà
cần thay đổi hình thức buổi lễ chào cờ một cách sáng tạo, rèn luyện các kỹ năng
cho học sinh. Chẳng hạn như để các em được thay mặt lớp trực đánh giá, nhận
xét thêm phần giao lưu với toàn trường qua các tiết mục văn nghệ, kể chuyện,
câu đố, trò chơi… do chính các em đứng ra tổ chức dưới sự giúp đỡ và hướng
dẫn của giáo viên chủ nhiệm.

2.3.Giải pháp 3 : Rèn kỹ năng thông qua việc thực hiện nề nếp học
đường
Rèn kỹ năng cho học sinh kết hợp với rèn học sinh thực hiện các nề nếp
hàng ngày:
Ví dụ:
-Yêu cầu đi học đúng giờ: buộc học sinh phải có thói quen dậy sớm, có
tác phong nhanh nhẹn ( rèn kỹ năng khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu);
- Yêu cầu xếp hàng ra vào lớp thẳng hàng, ngay ngắn, không xô đẩy
nhau trong hàng (rèn cho học sinh kỹ năng kiềm chế bản thân, kỹ năng vận
động, gây ảnh hưởng);
- Yêu cầu học sinh đến lớp phải có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập
( rèn cho học sinh kỹ năng tự kiểm tra, xây dựng kế hoạch).
2.4.Giải pháp 4: Giáo dục theo phương thức tương tác và trải
nghiệm thực tế
Hơn ai hết, các nhà làm giáo dục cần phải xác định được rằng giảng
dạy kỹ năng sống không giống như các môn học khác. Kỹ năng sống phải


11
được giảng dạy theo phương thức tương tác, trải nghiệm thực tế, không thể là
những bài học lý thuyết thông thường.
Ví dụ: Trong chương trình môn Đạo đức lớp 1, tuần 19 có bài: “Lễ
phép, vâng lời thầy cô giáo”. Trong chương trình dạy kỹ năng sống, không có
khái niệm “vâng lời”, chỉ có khái niệm “lắng nghe”, “đồng cảm”, “chia sẻ”.
Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống là rèn luyện cách tư duy tích cực, hình
thành thói quen tốt thông qua các hoạt động và bài tập trải nghiệm, chứ không
đặt mục đích “rèn nếp” hay “nghe lời”. Công dân toàn cầu là người biết suy
nghĩ bằng cái đầu của mình, biết đặt câu hỏi tại sao?, như thế nào? biết phân
tích đúng sai, quyết định có làm điều này hay điều khác và chịu trách nhiệm
về điều đó, chứ không tạo ra lớp công dân chỉ biết “ nghe lời”.

Đây là sự khác biệt cơ bản của việc giáo dục kỹ năng sống với các
môn học truyền thống như Đạo đức, Tiếng Việt.
Đòi hỏi số một là giáo viên phải được trang bị và thực hành thành thạo
các phương pháp giảng dạy kỹ năng sống, gần gũi, thân thiện với học sinh và
còn cần có vốn sống phong phú, những trải nghiệm cuộc đời và trên hết phải
có tấm lòng nhân hậu. Đây dường như là một thách thức lớn với đa số giáo
viên ở mọi vùng miền. Song nếu trong các bài giảng có tích hợp giáo dục
KNS, học sinh không được suy ngẫm, trải nghiệm để khám phá các giá trị,
cùng nhau thảo luận để hiểu sâu thêm và đồng cảm, e khó cảm nhận về giá trị
sống một cách sáng tạo nhằm phát triển các kỹ năng.
Giáo dục KNS đòi hỏi tính chủ động của học sinh đầu tiên. Vì vậy, nếu
chỉ đưa vào chương trình lồng ghép với các môn học liệu có hiệu quả, nhất là
khi giáo viên chỉ mới làm quen với các tài liệu hướng dẫn. Theo tôi, giáo dục
KNS chỉ thật sự có hiệu quả khi người thầy có tâm huyết, sự kiên nhẫn và tình
yêu trẻ.
Ví dụ : Trong giờ học Toán, một em học sinh A bất ngờ bị chảy máu
cam. Cô giáo ân cần giúp đỡ em A, khuyến khích những em học sinh khác
trong lớp cùng tham gia chăm sóc bạn .Nếu cô giáo có cách xử lí tình huống
thoả đáng thì sẽ tạo ra hiệu ứng như là một bài học về giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh của cả lớp.
2.5.Giải pháp 5 : Đổi mới phương pháp theo hướng phát huy tính
chủ động, sáng tạo của học sinh trong mọi hoạt động.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo
của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy
học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, luôn tạo cho các em tính
chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu
không khí cởi mở thân thiện của lớp, của trường. Trong giờ học, giáo viên cần
tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể,
nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy
KNS cho các em.

Cần định hướng vào khả năng hoạt động độc lập, khả năng tự đề xuất
và giải quyết vấn đề trong hoạt động cũng như khả năng tự kiểm tra đánh giá


12
kết quả hoạt động của các em. Sự tham gia của học sinh tạo điều kiện cho các
em phát huy tinh thần trách nhiệm trong việc tổ chức và điều khiển hoạt động
của tập thể. Chúng ta cần khắc phục tính chất áp đặt, bao biện làm thay học
sinh. Phải đưa học sinh vào những tình huống cụ thể với những công việc
được giao cụ thể. Có như vậy mới giúp các em có điều kiện trưởng thành.
2.6.Giải pháp 6 : Áp dụng Phương pháp noi gương trong giáo dục
KNS
Bên cạnh việc sử dụng tất cả các phương pháp dạy học tích cực vào nội
dung giáo dục KNS, cần áp dụng Phương pháp nêu gương trong giáo dục.
Điều này có nghĩa là bồi dưỡng giáo viên thường xuyên về chính các nội
dung giá trị sống và kỹ năng sống là điều không thể coi thường. Nếu giáo viên
không sở hữu điều này thì không thể thực hiện vai trò giáo dục học sinh.
Bởi vì với học sinh tiểu học, thầy cô giáo là người mẹ hiền thứ hai của
các em, các em luôn luôn nghe lời dạy bảo và làm theo những gì thầy cô dạy.
Thầy cô giáo phải là tấm gương sáng về đạo đức, nhất là tấm gương về các ứng
xử văn hóa, chuẩn mực trong lời nói và việc làm. Đặc biệt, trẻ tiểu học thường
hay bắt chước người lớn và rất tin tưởng ở các thầy giáo, cô giáo. Vì vậy, mỗi
giáo viên cũng phải luôn thường xuyên tự rèn kỹ năng sống, luôn thể hiện là
tấm gương trong sáng, mẫu mực cho học sinh noi theo. Giáo dục KNS cho học
sinh sẽ khó hơn khi chính thầy cô không phải là một tấm gương.
Phương pháp nêu gương không chỉ dừng lại ở người thầy mà mỗi em học
sinh đều có thể làm gương sáng cho các bạn noi theo. Giáo viên chủ nhiệm phải
làm tốt công tác chủ nhiệm mà nhà trường phân công, thường xuyên thay đổi các
hình thức sinh hoạt lớp, luân phiên nhau cho các em làm lớp trưởng, tổ trưởng,
không nên trong năm học chỉ để một em làm lớp trưởng.

2.7.Giải pháp 7 : Đề cao trách nhiệm cộng đồng
Giáo dục KNS không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường
mà của cả xã hội, cộng đồng. Phải kết hợp cả gia đình, nhà trường và xã hội
mới mong đào tạo được những học sinh phát triển toàn diện.
Thông qua ban đại diện, làm cho các bậc cha mẹ học sinh thấm nhuần
quan điểm giáo dục của Đảng và nhà nước, nắm vững các chủ trương của
ngành GD&ĐT để họ đồng thuận với các biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục truyền thống nhằm góp phần giáo dục toàn diện học sinh của
nhà trường, khắc phục các quan niệm lệch lạc.
Mặt khác, vai trò của gia đình vô cùng quan trọng trong định hướng,
giáo dục, động viên giúp học sinh tránh xa tệ nạn xã hội, bố trí thời gian học
tập, vui chơi phù hợp. Vì vậy, nhà trường cần giữ mối liên hệ thường xuyên
và liên tục với gia đình học sinh; cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà
trường, chính quyền địa phương trong quản lý, giáo dục học sinh trong và
ngoài nhà trường. KNS của mỗi người được hình thành qua quá trình rèn
luyện, phấn đấu. Nên cùng với những kiến thức có được từ các lớp học, rất
cần cha mẹ đồng hành cùng con để hỗ trợ KNS cho con phù hợp với lứa tuổi
và thực tế cuộc sống.


13
2.8.Giải pháp 8 : Phối hợp nhuần nhuyễn và chú ý tính liên thông
giữa chương trình chính khoá, ngoại khoá, hoạt động tập thể, hoạt động
ngoài giờ lên lớp
Nhiệm vụ “dạy chữ” và “dạy người” luôn được nhà trường quan tâm và
đầu tư đứng mức. Qua những buổi hội họp, bồi dưỡng chuyên môn, nhà
trường đặc biệt quan tâm đến các chuyên đề về giáo dục đạo đức, giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh. Ngoài những giờ học chính khóa theo quy định, nhà
trường còn chú trọng tính liên thông, có sự phối hợp nhịp nhàng xen kẽ giữa
các chương trình giáo dục. Luôn tạo cho các em có các sân chơi lành mạnh

mang tinh tập thể như tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao, trò chơi dân
gian , tham quan các di tích lịch sử ...nhân các ngày lễ lớn trong năm.
VI.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Qua quá trình vận dụng vào thực tế, tôi thấy có hiệu quả một cách thiết
thực, các hoạt động giáo dục KNS trong nhà trường có sự tiến bộ rõ rệt, góp
phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là
từng bước hình thành nhân cách trong thế hệ học sinh.Các em rất thích được
tham gia vào các hoạt động tập thể.Các em thích thú hơn trong học tập, rèn kĩ
năng sống và biết vận dụng vào thực tiễn giao tiếp tại trường học, gia đình,
nơi cộng đồng thôn xóm. Các em biết giữ vệ sinh học đường, biết giữ vệ sinh
cá nhân.Giờ ra chơi, các em túm tụm chơi những trò chơi dân gian bổ ích. Kết
quả giáo dục kỹ năng sống không tính được bằng con số cụ thể như các môn
học khác, nhưng có thể nhìn nhận được qua thực tiễn những gì mà các em thể
hiện. Hiệu quả bước đầu cho thấy, nếu chú trọng công tác giáo dục KNS cho
thế hệ trẻ sẽ giúp các em có ý thức nâng cao trách nhiệm của mình, giúp các
em ý thức sống đẹp, có lý tưởng và có hoài bão để xứng đáng với truyền
thống tốt đẹp của quê hương, đất nước.
Kết quả của việc vận dụng đề tài, tôi xin chứng minh qua các hình ảnh
sau:

Hình 1
Các em tham gia buổi ngoại khóa Những điều cần biết khi ra đường


14

Hình 2
Giao lưu với Hội trẻ em khuyết tật tỉnh Quảng Nam

Hình 3

Trong buổi ngoại khóa về Quyền trẻ em


15

Hình 4
Thi vẽ tranh Vì môi trường xanh- sạch- đẹp

Hình 5
Ứng dụngcông nghệ thông tin và phương pháp đóng vai
trong giờ học Đạo đức có tích hợp giáo dục kĩ năng sống ở lớp 2a4


16

Hình 6
Ra quân diệt chuột ở địa bàn thôn Đại An

Hình 7
Thực hiện công trình Măng non ở lớp 3b4


17

Hình 8
Tham gia dọn vệ sinh Đoạn đường em chăm

Hình 9
Một buổi họp giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh học sinh



18

Hình 10
Học sinh khối 4,5 tham gia chuyến dã ngoại
tại khu du lịch sinh thái hồ Phú Ninh

Hình 11
Tiết mục biểu diễn trong đêm văn nghệ do nhà trường tổ chức.


19

Hình 12
Giúp đỡ các gia đình thương binh liệt sĩ

Hình 13
Phối hợp với Đoàn thanh niên xã Tam Đại
hành trình về khu di tích Đồn Chóp Chài( Xã Tam Đại )


20

VII.KẾTLUẬN
Dạy KNS cho tuổi trẻ học đường trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu
cấp thiết ở các trường phổ thông nói chung, bậc tiểu học nói riêng. Hiệu quả của
việc giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường Tiểu học phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, nhiều điều kiện khách quan và chủ quan của các chủ thể tham gia vào
quá trình hoạt động. Hơn nữa, giáo dục kỹ năng sống là một quá trình lâu dài
và phải thường xuyên, liên tục, trong đó ngành giáo dục đóng vai trò chủ đạo.

Hiểu sâu sắc điều đó và vận dụng vào thực tiễn không phải là dễ dàng.
Vì vậy muốn đạt được mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện của nhà
trường, các thầy cô giáo cần phải kiên trì, nhiệt tình, có tâm huyết với nghề,
bên cạnh kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, người giáo viên phải có vốn
kiến thức tâm lý học, hiểu được tâm sinh lý của trẻ. Từ đó sẽ tìm ra được
những phương pháp hiệu quả để giáo dục trẻ. Việc dạy “chữ” cần luôn song
hành với việc dạy “ làm người”, và phải được xuất phát ngay từ những tình
huống, những việc làm nhỏ nhất trong cuộc sống thực tế của học sinh. Ngay
trong những giờ học ngoài việc đảm bảo mục tiêu kiến thức kỹ năng của bài,
giáo viên cần chú ý đến rèn kỹ năng sống cho học sinh. Học sinh được rèn kỹ
năng sống qua nội dung kiến thức của bài, qua lĩnh hội kiến thức pháp luật,
qua tham gia các hoạt động học tập trong lớp, hoạt động ngoài giờ do giáo
viên tổ chức. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực
chủ động của học sinh là giúp học sinh có nhiều cơ hội để rèn kỹ năng sống.
Qua đó, giúp các em tự rèn luyện , tự nâng cao sức đề kháng trước những cám
dỗ tiêu cực trong thời đại hội nhập quốc tế.
Qua quá trình thực hiện đề tài, bản thân tôi nhận thấy rằng, muốn công
tác giáo dục kỹ năng sống đạt hiệu quả, người làm công tác quản lý điều hành
các hoạt động trong nhà trường còn phải luôn tranh thủ sự đồng tình hỗ trợ
của lực lượng giáo viên chủ nhiệm lớp,các bậc phụ huynh học sinh,các cấp


21
lãnh đạo, các đoàn thể khác trong và ngoài nhà trường để có thể thực hiện tốt
vai trò trách nhiệm của mình.
VIII. ĐỀ NGHỊ
Công tác giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ đang được Đảng và Nhà
nước hết sức quan tâm. Tuy nhiên, hiện nay các hoạt động giáo dục KNS
thường đơn điệu, thiếu chiều sâu. Trong lúc nội dung về rèn luyện KNS chưa
được đưa vào thành một chương trình riêng mà chủ yếu được giáo viên lồng

ghép trong từng bộ môn như Đạo đức, Tiếng Việt… Với thời lượng hạn hẹp như
vậy, các em chưa được trang bị đầy đủ các KNS. Đó là điều đang còn khó khăn,
lúng túng cho các nhà trường nhằm rèn luyện KNS cho học sinh. Tuy nhiên,
làm thế nào để triển khai hoạt động rèn KNS một cách hiệu quả thu hút được học
sinh và các bậc phụ huynh đang là trăn trở của các thầy cô giáo, các nhà trường
và toàn xã hội hiện nay. Mong rằng các nhà làm công tác giáo dục biết tùy vào
hoàn cảnh thực tế của từng địa phương, nhà trường mà tổ chức sao cho sáng tạo
và hiệu quả.
Là một cán bộ quản lý nhà trường, tôi luôn cố gắng và mong muốn
đóng góp công sức và trí tuệ cho giáo dục với phương châm “Tất cả vì học
sinh thân yêu”. Đề tài “Biện pháp giáo dục kĩ năng sống đối với học sinh Tiểu
học” được viết với mong muốn thực hiện tốt nhiệm vụ rèn kỹ năng sống cho
học sinh góp phần thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực”, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục toàn diện.Tuy nhiên, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, bản thân rất
mong Hội đồng khoa học các cấp đóng góp ý kiến để được khả thi hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
Người thực hiện

Hồ Thị Vân


22
IX. TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT
Tên tác giả
1 Sở GD&ĐT
Quảng Nam

-Kế


hoạch

Tên tài liệu
số 2829/KH-SGD&ĐT

ngày

04/9/2008 của Sở GD&ĐT về phát động và triển
khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực”.

2

Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào
tạo

-Công văn số 5483/BGDĐT-GDTH ngày
17/8/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học
2011-2012 đối với giáo dục tiểu học;

3
4
5
6

Hội đồng Đội
huyện Phú Ninh

Nhà xuất bản Giáo
dục
Nhà xuất bản Giáo
dục
Nhà xuất bản Giáo
dục

Chương trình công tác Đội,phong trào thiếu nhi,
HĐ NGLL năm học 2011-2012
Giáo dục học
Tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở
Tiểu học
Tâm lý giáo dục


23
X. MỤC LỤC
Thứ tự
I
II
III
IV
V
VI.
VII
VIII.
IX
X
XI


Mục
Tên đề tài
Đặt vấn đề
Cơ sở lý luận
Cơ sở thực tiễn
Nội dung nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu
Kết luận
Đề nghị
Tài liệu tham khảo
Mục lục
Phiếu đánh giá xếp loại SKKN

Trang
1
1,2,3
3,4
4,5,6
6,7,8,9,10,11,12,13
13,14,15,16,17,18,19
19,20
20,21
22
23
24

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


24

Độc lập - Tự do- Hạnh phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC: 2011-2012
I.Đánh giá xếp loại của HĐKH Trường Tiểu học Thái Phiên:
1.Tên đề tài: BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG ĐỐI VỚI HỌC
SINH TIỂU HỌC.
2. Họ và tên tác giả: HỒ THỊ VÂN
3. Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
4. Nhận xét của chủ tịch HĐKH về đề tài:
a) Ưu điểm:
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
b) Hạn chế:
........................................................................................................................
........................................................................................................................
5.Đánh giá xếp loại:
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường Tiểu học Thái
Phiên thống nhất xếp loại:.....................................
Những người thẩm định
Chủ tịch HĐKH
(Kí, ghi rõ họ tên)
(Kí, đóng dấu và ghi rõ họ tên)

II.Đánh giá xếp loại của HĐKH Phòng GD& ĐT Huyện Phú Ninh:
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Phòng GD& ĐT
Huyện Phú Ninh thống nhất xếp loại:.....................................
Những người thẩm định
Chủ tịch HĐKH
(Kí, ghi rõ họ tên)

(Kí, đóng dấu và ghi rõ họ tên)

III.Đánh giá xếp loại của HĐKH Sở GD& ĐT Quảng Nam:
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Sở GD& ĐT Quảng
Nam thống nhất xếp loại:..................
Những người thẩm định
Chủ tịch HĐKH
(Kí, ghi rõ họ tên)
(Kí, đóng dấu và ghi rõ họ tên)


25
PHÒNG GD&ĐT HUYỆN PHÚ NINH
TRƯỜNG TIỂU HỌC THÁI PHIÊN

Người thực hiện : Hồ Thị Vân
Chức vụ : Phó Hiệu trưởng

Năm học : 2011-2012


×