Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

SKKN Tổ chức việc tự học môn lịch sử cho học sinh lớp 12 góp phần nâng cao chất lượng tại trường THPT Kiệm Tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.43 MB, 86 trang )

BM 01-Bia SKKN

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: TRƯỜNG THPT KIỆM TÂN
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TỔ CHỨC VIỆC TỰ HỌC MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH
LỚP 12 GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TẠI
TRƯỜNG THPT KIỆM TÂN

Người thực hiện: NGUYỄN THỊ NGA
Lĩnh vực nghiên cứu:


- Quản lý giáo dục

- Phương pháp dạy học bộ môn: Lịch sử



(Ghi rõ tên bộ môn)

- Lĩnh vực khác: ....................................................... 
(Ghi rõ tên lĩnh vực)

Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN
 Mô hình
 Đĩa CD (DVD)
 Phim ảnh


 Hiện vật khác
(các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm)

Năm học: 2016-2017


BM02-LLKHSKKN

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
––––––––––––––––––
I

THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1 Họ và tên: Nguyễn Thị Nga
2 Ngày tháng năm sinh: 04/09/1985.
3 Nam, nữ: Nữ
4 Địa chỉ: H2/042B – Nam Sơn – Quang Trung – Thống Nhất – Đồng Nai
5 Điện thoại: 0613867151

(CQ)/ ĐTDĐ: 01629478449

6 E-mail:
7 Chức vụ: Giáo viên
8 Nhiệm vụ được giao: Giảng dạy môn Lịch sử ở các lớp: 10C1, 10C3, 10S1, 10S8;
12S2, 12S3, 12S6 chủ nhiệm lớp 10C1.
9 Đơn vị công tác: Trường THPT Kiệm Tân
II

TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân Lịch sử.

- Năm nhận bằng: 2009
- Chuyên ngành đào tạo: Lịch sử.

III

KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Lịch sử.
- Số năm có kinh nghiệm: 8 năm.
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
- Một vài trao đổi về việc hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu, xây dựng bài học lịch sử lớp
10 cơ bản.
- Phát huy tính tích cực của học sinh qua việc hướng dẫn học sinh tìm tư liệu để xây dựng
bài học lịch sử trong trường THPT.
- sử dụng website: tạo môi trường trao đổi, học tập

giúp học sinh tự nghiên cứu và chuẩn bị bài học lịch sử ở lớp 10.

2

2


BM03-TMSKKN

Tên SKKN “TỔ CHỨC VIỆC TỰ HỌC MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH
LỚP 12 GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TẠI TRƯỜNG THPT
KIỆM TÂN”
I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong thời đại mà khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay,
nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng hết nhu cầu học tập của người
học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Vì vậy, bồi dưỡng năng
lực tự học là một công việc có vị trí cực kì quan trọng trong các nhà trường. Chỉ có
tự học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi
học sinh mới có thể bù đắp được những thiếu khuyết về tri thức khoa học về đời
sống xã hội. Từ đó có được sự tự tin trong cuộc sống, công việc bởi năng lực toàn
diện của mình.
Việc tự học, chủ động tự giải quyết vấn đề được xem là năng lực quan trọng
của mỗi người và cần được nhà giáo dục quan tâm, chú ý đến. Năng lực này vốn
tiềm ẩn sâu bên trong ý thức người học, tâm thế người học luôn ở dạng “sẵn sàng”
chờ những “cú hích” tác động trí tuệ, nhằm kích hoạt các giác quan, tạo ra sự
“bùng nổ” trong lĩnh hội tri thức.
Tự học của học sinh được đặt ra như một nhu cầu bức thiết để đổi mới
PPDH, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Việc đổi mới PPDH cần cụ thể và
gắn với việc tự học của học sinh. Nếu đổi mới PPDH chỉ thiên về người dạy với
những sơ đồ giáo án, hình thức, nội dung bài giảng, hoặc có quan tâm đến người
học với những hình thức giáo điều như: giáo án điện tử, học trò làm trung tâm,…
mà không đổi mới tận gốc, tận chính bản thân việc dạy và học hiện thời, tại môi
trường, đối tượng, bài học cụ thể,.. thì khó có thể gây ra sự “đột phá” nào trong
giảng dạy và học tập ở nhà trường. Làm sao để có cuộc “cách mạng” thực sự trong
học tập, nếu như người học không tự giác, tự học và người dạy không dạy (hoặc
không muốn, không biết) tự học.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế như vậy tôi cho rằng để nâng cao chất lượng
bộ môn lịch sử cho học sinh khối 12 ngoài việc đổi mới phương pháp giảng dạy
người giáo viên cần chú ý, quan tâm việc hướng dẫn cho học sinh tự học, tự đọc
sách, tự nghiên cứu và tự ghi chép bài theo sự hiểu biết của mình. Đó chính là yếu
tố góp phần nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử nói riêng và chất lượng nhà
trường nói chung, góp phần vào sự phát triển giáo dục của tỉnh nhà.
Với những lý do trên và bằng thực tế giảng dạy bộ môn lịch sử lớp 12 nên

tôi chọn đề tài : “Tổ chức việc tự học môn lịch sử cho học sinh lớp 12 góp phần
nâng cao chất lượng tại trường THPT Kiệm Tân”. Qua đó để có dịp nhìn lại những
việc đã làm được và những việc chưa làm được, rút ra kinh nghiệm cho các năm
học sau làm tốt hơn.

3

3


II.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
1. Cơ sở lý luận.
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học các
môn nói chung, phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng đã được đặt ra và thực hiện
một cách cấp thiết cùng với xu hướng đổi mới giáo dục chung của thế giới. Luật
giáo dục sửa đổi đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức đã học vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, sự hứng thú
học tập cho học sinh”.
Trong quá trình giảng dạy môn lịch sử lớp 12 tôi cho rằng muốn nâng cao
chất lượng bộ môn Lịch sử bên cạnh việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì cũng
cần đổi mới việc tự học là vô cùng cần thiết. Hiện nay, vẫn còn nhiều học sinh
chưa có ý thức cao trong việc tự học, chưa nhận thức được kĩ năng tự học. Để khắc
phục điều đó chúng ta cần có những cách thức, giải pháp thích hợp. Tự học trong
đó: tự đọc sách, tự nghiên cứu, tự tìm hiểu thông tin và tự ghi chép bài học của học
sinh là một vấn đề rất cần thiết đối học sinh. Vấn đề đặt ra ở đây là: Khởi động
được sự tự học cho chính các em học sinh mà bấy lâu các em chưa thực sự thực

hiện, để làm được điều đó, giáo viên cần có những phương án cụ thể, những kế
hoạch chi tiết, những “kịch bản” giảng dạy phù hợp, thông qua đó hướng dẫn, tổ
chức giúp cho học sinh biết tự vận động, có hứng thú trong việc tìm hiểu thông tin,
nghiên cứu bài học trước khi đến lớp.
Còn nhiều nguyên nhân khiến học sinh thờ ơ với môn học lịch sử, kể ra như:
Chương trình học còn nặng, bài giảng khô khan, thiên về lý thuyết, thiếu sinh
động, thiếu các buổi thảo luận, đi thực địa bổ trợ cho môn học; Được xác định là
môn học “phụ” ít có cơ hội thi vào các trường Đại học, Cao đẳng. Khi ra trường
thì khó xin việc so với các ngành học khác. Thu nhập thấp”. Chính điều này đã tác
động không nhỏ đến việc học môn lịch sử ở các trường phổ thông nói chung và
trường THPT Kiệm Tân nói riêng.
Đổi mới phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tính cực, tự
giác, chủ động sáng tạo của học sinh, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho các em.
2. Cơ sở thực tiễn.
Hiện nay, cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, phần lớn học sinh không
còn hoặc ít ham thích học tập bộ môn lịch sử ở nhà trường phổ thông, có nhiều lí
do:
Các em học sinh cho cho rằng lịch sử khó học, khó nhớ, là môn phụ nên không
cần phải đầu tư nhiều thời gian, chỉ cần học thuộc phần vở ghi, mà không chịu khó
tìm hiểu bản chất của các sự kiện lịch sử, mối quan hệ giữa các sự kiện đó.
4

4


Hơn nữa chương trình lịch sử ở bậc Trung học phổ thông khối lượng kiến thức
nhiều, bao quát, khi học đòi hỏi các em phải nhớ lại kiến thức ở bậc Trung học cơ
sở (mà đa số các em đã quên). Các tiết dành cho ôn tập rất ít vì vậy không có điều
kiện để củng cố kiến thức cũ.

Trong quá trình giảng dạy ở trên lớp tôi nhận thấy học sinh phần đông là thụ
động, thái độ không tích cực, không chuẩn bị bài ở nhà, luời đọc sách giáo khoa,
hỏi lại kiến thức cũ trong bài mới thì gần như các em không trả lời được, khi tiến
hành thảo luận nhóm thì chỉ có một số em tham gia, còn một số em khác với ý thức
kém là ngồi chơi, nói chuyện, làm việc riêng, đặc biệt trong các tiết ôn tập lượng
kiến thức nhiều khái quát khiến cho các em lúng túng, rời rạc.
Một thực tế đau lòng hiện nay là: Học sinh hầu như không có thói quen tự đọc
sách giáo khoa, tự học và nghiên cứu, tìm hiểu thông tin, tài liệu của bài học trước
khi đến lớp, đây là vấn đề khó khăn cho giáo viên khi giảng dạy, đợi khi giáo viên
phát vấn hoặc đưa ra tình huống có vấn đề thì học sinh mới chịu đọc sách giáo
khoa sau đó mới trả lời, vì thụ động trong việc tiếp nhận kiến thức nên trong quá
trình tham gia học tập trên lớp, học sinh chỉ biết ghi nội dung tóm tắt trên bảng
theo giáo viên. Rất ít học sinh có khả năng ghi theo cách hiểu và suy nghĩ của
mình, trong khi đó việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử là phải đạt được 3
cấp độ: nhận biết lịch sử, thông hiểu và vận dụng. Nếu học sinh không biết tự ghi
bài thì chắc chắn việc hiểu và vận dụng lịch sử gặp nhiều khó khăn.
Một số giáo viên chưa coi trọng việc tự học của học sinh: Chỉ tập trung truyền
đạt nội dung trên lớp, chưa đi sâu vào theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc tự học của
học sinh, đồng thời chưa thực hiện việc hướng dẫn học sinh tự học một cách đúng
nghĩa. Đa số các giáo viên chỉ dừng lại trong việc dặn dò học sinh một cách chung
chung sau khi kết thúc bài học trên lớp là “các em về nhà xem bài …” mà thiếu đi
sự sâu sát và thực tế.
Nếu nói người “Thầy” có vai trò quyết định trong quá trình dạy và học thì trước
hết nhà trường và các thầy cô giáo cần chủ động tìm ra những giải pháp để dạy học
theo phương pháp tích cực, biết khơi gợi sự hứng thú tìm tòi, sáng tạo của học
sinh, luôn nâng đỡ khuyến khích các em hăng hái phát biểu trong lớp và nhất là
phát huy ý thức và kĩ năng tự học trong mỗi học sinh, Về phía các em học sinh
cần thấy rằng muốn nắm vững kiến thức và nhớ lâu thì phải chủ động trong
học tập, dành thời gian tự học và nghiên cứu bài học, đó là lí do để bản thân
mạnh dạn nghiên cứu, áp dụng giải pháp: “Tổ chức việc tự học môn lịch sử cho

học sinh lớp 12 góp phần nâng cao chất lượng tại trường THPT Kiệm Tân”.
Giải pháp: “Tổ chức việc tự học môn lịch sử cho học sinh lớp 12 góp phần nâng
cao chất lượng tại trường THPT Kiệm Tân” chưa từng được áp dụng tại trường
THPT Kiệm Tân, và trong năm học học 2016-2017 bản thân đã nghiên cứu áp
dụng thực hiện cho các lớp 12S2, 12S3, 12S6 và đạt hiệu quả cao.

5

5


III.

TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP.
Giải pháp: Tổ chức việc tự học môn lịch sử cho học sinh lớp 12 góp phần nâng
cao chất lượng tại trường THPT Kiệm Tân.
1. Các khái niệm liên quan.
Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình
động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp…) cùng những động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết
nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu
của chính bản thân người học”.
Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm
bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống
học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm
các giải pháp… “Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.
Từ những quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng, khái niệm tự học luôn
đi cùng, gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân. Tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng của
mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy hiệu quả thông qua các
hoạt động tự thân ấy. Để đạt tới sự hoàn thiện thì mỗi học sinh phải tự thân tiếp

nhận tri thức từ nhiều nguồn; tự thân rèn luyện các kĩ năng; tự thân bồi dưỡng tâm
hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc.
Tự học lịch sử của học sinh là việc tự nắm vững kiến thức lịch sử một cách
chính xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một
cách thành thạo.
2. Chức năng của tự học.
2.1.Tự học trong sách giáo khoa của học sinh.
Tự học trong sách giáo khoa (học ở nhà, ở lớp, ở thư viện trường hoặc nơi
nào khác). Đây là điều cần thiết đối với học sinh vì tự học sách giáo khoa giúp ta
nắm bắt cơ bản nội dung của chương trình, của bài học. Đọc sách cũng là phương
pháp tự học tốt. Đọc sách được coi là khâu quan trọng đầu tiên để học sinh tiếp thu
tri thức và phát triển phương pháp tự học hiệu quả.
Tuy nhiên học sinh phải biết cách đọc chủ động. Nghĩa là phải biết định
hướng, lựa chọn những thông tin lịch sử cần thiết, trọng tâm để trực tiếp đi vào tìm
hiểu tránh đọc tràn lan không nắm được nội dung bài.
2.2.Tự ôn tập, nghiên cứu và tự ghi bài học.
Học sinh phải biết tự ôn tập bằng cách đọc bài viết trong sách giáo khoa
theo sự hướng dẫn của giáo viên. Học sinh biết cách tự ôn tập, chọn lọc và tự ghi
chép bài giúp học sinh dễ nhận biết, thông hiểu lịch sử và vận dụng vào thực tiễn
khi làm bài kiểm tra.
6

6


Qua đó ta thấy: Quá trình tự học như tự đọc sách giáo khoa; tự ôn tập; tự ghi
bài là rất quan trọng đối với môn lịch sử của học sinh. Bởi vì sự thành đạt trong kết
quả là điều đã dự kiến trong mục tiêu, còn những hạn chế thường bị bỏ qua, nếu
biết sửa chữa loại trừ chúng thì chất lượng sẽ được tốt lên.
Từ những hạn chế của học sinh, người giáo viên sẽ hướng dẫn, điều chỉnh,

uốn nắn, loại trừ những lệch lạc đó, khắc phục những sai lầm, tháo gỡ những khó
khăn trở ngại cho học sinh, tổ chức việc tự học cho học sinh, nhờ đó góp phần thúc
đẩy chất lượng giảng dạy bộ môn lịch sử ngày càng cao hơn.
3. Các hình thức và yêu cầu của tự học.
3.1.Các hình thức tự học.
Tự học bao gồm nhiều hình thức trong đó đối với học sinh THPT có ba hình
thức đó là: Tự học trong sách giáo khoa; Tự ôn tập, nghiên cứu và tự ghi chép bài
có sự liên kết với nhau là thể thống nhất của vấn đề tự học; .
Tự học trong sách giáo khoa, tự ôn tập, nghiên cứu và tự ghi chép bài là điều
cần thiết và rất phù hợp với bộ môn khoa học xã hội như lịch sử. Tuy nhiên cần
tránh tự học theo lối mòn, học vẹt, nên có cách tự học có hiệu quả đòi hỏi sự tư
duy sáng tạo, vận dụng thực tiễn khi làm bài.
3.2.Các yêu cầu của tự học
* Về tự học trong sách giáo khoa.
- Đọc và tự ghi chép lại tóm tắt những điều cần thiết, cơ bản của bài viết. Ghi lại
những nội dung khó hiểu, đặc biệt là các thuật ngữ, khái niệm lịch sử. Phải biết
cách xử lí khi gặp những vấn đề khó hiểu.
- Phải biết cách tự học một cách chủ động. Nghĩa là phải biết định hướng, lựa chọn
những thông tin cần thiết đang là mối quan tâm để trực tiếp đi vào tìm hiểu.
- Hoàn thành câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa yêu cầu.
* Về tự ôn tập và tự ghi chép bài.
- Học sinh phải biết kết hợp theo dõi bài giảng và bài viết trong sách giáo khoa.
- Học sinh phải biết tự lập dàn ý ghi chép, hiểu logic phát triển của lịch sử.
- Học sinh phải biết tư duy khi nghe giáo viên giảng, tự mình lựa chọn vấn đề để
ghi chép theo dàn ý trên bảng.
- Học sinh phải tự biết đặt ra vấn đề để giải quyết trên lớp hoặc về nhà suy nghĩ để
hoàn thiện bài học.
4. Ý nghĩa của việc tự học.
4.1.Với học sinh.
Việc tự học giúp các em độc lập để hoàn thành nhiệm vụ được giao, giúp

học sinh biết tìm tòi nghiên cứu từng phần. Nó tạo sự hứng thú trong học tập, giúp
các em tự tin hơn khi học về môn lịch sử.
7
7


Việc tự học cung cấp kịp thời những thông tin giúp người học tự điều chỉnh
hoạt động học. Giúp cho học sinh kịp thời nhận thấy mức độ đạt được những kiến
thức của mình, còn lỗ hổng kiến thức nào, sai lầm nào cần được bổ sung, khắc
phục trước khi bước vào phần mới của chương trình học tập hoặc khi làm bài kiểm
tra. Giúp học sinh có cơ hội để nắm chắc những yêu cầu cụ thể đối với từng phần
của chương trình, kịp thời bổ sung kiến thức và khắc phục những thiếu hụt trước
đó.
Ngoài ra thông qua tự học của học sinh giúp các em có điều kiện tiến hành
các hoạt động trí tuệ như: ghi nhớ, tái hiện, chính xác hoá, khái quát hoá, hệ thống
hoá kiến thức. Tự học giúp học sinh phát huy trí thông minh, linh hoạt vận dụng
kiến thức đã học để giải quyết những tình huống thực tế.
Nếu việc tự học được thực hiện thường xuyên liên tục và có hướng dẫn của
người thầy sẽ giúp học sinh nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học tập, có ý chí
vươn lên đạt kết quả cao hơn, củng cố lòng tin vào khả năng của mình, nâng cao ý
thức tự giác, khắc phục tính chủ quan tự mãn.
4.2.Với giáo viên.
Tự học là vấn đề quan trọng vì nó là một khâu trong quá trình thống nhất của
việc dạy học, nhằm phát huy năng lực độc lập tư duy của các em ở trên lớp cũng
như ở nhà. Nó cung cấp những thông tin qua đó giúp giáo viên rút kinh nghiệm,
điều chỉnh lại mục tiêu, lựa chọn phương pháp và nội dung trọng tâm trong quá
trình giảng dạy.
Việc tổ chức tự học cho học sinh nếu được tiến hành thường xuyên giúp giáo
viên tìm ra, điều chỉnh những hạn chế của mình trong quá trình dạy đồng thời
cũng giúp cho giáo viên nắm được một cách cụ thể và khá chính xác năng lực và

trình độ mỗi học sinh trong lớp, từ đó có biện pháp cụ thể, thích hợp bồi dưỡng
riêng điều chỉnh phương pháp dạy cho từng nhóm học sinh, nâng cao chất lượng
học tập chung cho cả lớp.
5. Các cách thức của giáo viên trong việc tổ chức tự học cho học sinh
5.1.Hướng dẫn học sinh tự học trong sách giáo khoa.
Sách giáo khoa là phương tiện rất cần thiết cho người học, bên cạnh nội dung
giảng dạy trên lớp thì người giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách tự học
trong sách giáo khoa.
Tự học sách khoa giúp các em dễ dàng lĩnh hội được các tri thức lịch sử từ
nhiều góc độ khác nhau, tầm hiểu biết về lịch sử được mở rộng thêm, học sinh
cũng sẽ so sánh nội dung trong sách với nội dung bài giảng của thầy từ đó khắc sâu
hơn kiến thức lịch sử cho các em chính vì vậy người giáo viên cần phải hướng dẫn
các em tự học trong sách giáo khoa có hiệu quả.
5.1.1.
Hướng dẫn cá nhân học sinh tự học trong sách giáo khoa tại nhà,
thư viện trường hay ở những nơi khác.
8

8


- B1. Đọc và tự ghi tóm tắt ngắn gọn những vấn đề cơ bản của bài viết, hay của
chương hay nội dung liên quan đến câu hỏi của giáo viên.
- B2. Ghi lại những nội dung khó hiểu, đặc biệt là các cụm từ, thuật ngữ, khái niệm
lịch sử...
- B3. Hoàn thành bài tập, câu hỏi trong sách.
- B4. Tự làm việc với bản đồ, lược đồ, khai thác kênh hình như: Tranh, ảnh trong
sách, trình bày thử nội dung theo bản đồ, nêu ý nghĩa của hình ảnh.
- B5. Tự đọc các tư liệu phần đọc thêm có liên quan, để bổ trợ cho kiến thức chính
của bài học của mình.

Ví dụ . Bài 1(tiết 1) : SỰ HÌNH THÀNH TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI SAU CHIẾN
TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1945 -1949)
( sách giáo khoa lịch sử 12 chương trình chuẩn)
- B1. Đọc và tự ghi tóm tắt ngắn gọn những vấn đề cơ bản của bài.
Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi tóm tắt các nội dung cơ bản theo một hình thức
sơ đồ đơn giản như sau:
+ Về hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa của hội nghị Ianta (2/ 1945). Học sinh có thể
làm sơ đồ hóa đơn giản như sau:

+ Về hoàn cảnh ra đời, mục đích, nguyên tắc hoạt động, tổ chức, vai trò của tổ
chức Liên hợp quốc. Liên hệ Việt Nam với Liên hợp quốc. Học sinh có thể làm sơ
đồ hóa đơn giản như sau:

9

9


- B2. Ghi lại những nội dung khó hiểu, các cụm từ, thuật ngữ, khái niệm lịch sử...
Giáo viên hướng dẫn, yêu cầu học sinh quan tâm và ghi lại các cụm từ, thuật ngữ,
khái niệm sau: Đồng minh, nguyên thủ, đông Đức - tây Đức, Tây Âu- Đông Âu,
Trung lập, hiến chương, sự toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chính trị, hội đồng ( Bảo an,
kinh tế - xã hội, Quản thác).
- B3. Hoàn thành bài tập, câu hỏi trong sách.
Giáo viên yêu cầu học sinh làm 2 bài tập sau ra giấy nháp:
+ Bài tập 1: Nêu những quyết định quan trọng của hội nghị Ianta (2/ 1945).
+ Bài tập 2: Nêu những mục đích, nguyên tắc hoạt động của LHQ.
- B4. Tự làm việc với bản đồ, lược đồ, khai thác kênh hình như: Tranh, ảnh trong
sách, trình bày thử nội dung theo bản đồ, nêu ý nghĩa của hình ảnh.
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình ảnh trong sách như:

+ Hình 1 Nguyên thủ 3 nước Anh, Mỹ và Liên xô dự hội nghị Ianta.
+ Hình 2 Lễ kí kết hiến chương liên Hợp quốc tại Xanphranxico.
- B5. Tự đọc các tư liệu phần đọc thêm có liên quan, để bổ trợ cho kiến thức chính
của bài học của mình.
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thêm và tìm thêm nội dung, hình ảnh sau:
+ Đọc thêm phần sự hình thành hai hệ thống xã hội đối lập.
+ Xem thêm bản đồ các nước trên thế giới, lược đồ phân chia lãnh thổ sau chiến
tranh thế giới thứ 2 (1945)
+ Việt Nam gia nhập Liên Hợp quốc như thế nào, là thành viên thứ bao nhiêu?
5.1.2. Hướng dẫn học sinh tự học trong sách giáo khoa theo nhóm:
Mục 1. Hội nghị Ianta(2-1945) và những thỏa thuận của ba cường quốc.
- B1 Tổ chức phân chia học sinh theo nhóm (có thể 4 nhóm hoặc 6 nhóm) cử nhóm
trưởng điều hành nhóm hoạt động nghiên cứu sách giáo khoa.
- B2 Cung cấp nội dung và thời gian cần nghiên cứu, thảo luận cho từng nhóm
hoặc tất cả các nhóm.
- B3 Quan sát, hướng dẫn từng nhóm học sinh nghiên cứu các nội dung theo yêu
cầu.
- B4 Yêu cầu các nhóm lần lượt trình bày lại nội dung nghiên cứu lên bảng hoặc
đọc cho cả lớp nghe.
- B5 Đề nghị các nhóm bổ sung, nhận xét phần trả lời của từng nhóm, giáo viên
nhận xét, yêu cầu học sinh tự ghi lại nội dung thảo luận vào tập.
- B6 Giáo viên nhận xét chung về ưu điểm, nhược điểm từng nhóm và kết luận vấn
đề.
10

10


Mục 2. Sự thành lập Liên Hợp Quốc
- B1. Phân chia nhóm nghiên cứu.

Giáo viên có thể chia lớp thành bốn nhóm học sinh với thời gian 3 phút: cử nhóm
trưởng điều hành nhóm hoạt động nghiên cứu sách giáo khoa.
- B2. Phân chia nội dung nghiên cứu cho các nhóm:
+ Nhóm 1: Tìm hiểu hoàn cảnh, thời gian, địa điểm thành lập hoạt động của tổ
chức Liên hợp quốc. Thời gian Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc
+ Nhóm 2: Tìm hiểu mục đích và nguyên tắc hoạt động cơ bản của tổ chức Liên
hợp quốc.
+ Nhóm 3: Tìm hiểu về bộ máy Tổ chức của tổ chức Liên hợp quốc.
+ Nhóm 4: Tìm hiểu về vai trò của tổ chức Liên hợp quốc.
- B3. Quan sát, hướng dẫn
Giáo viên quan sát các nhóm nghiên cứu, thảo luận 4 nội dung theo yêu cầu nhắc
nhở học sinh chưa tích cực trong việc tự đọc sách khoa, chưa nghiên cứu bài học,
đồng thời nhằm hạn chế học sinh nghiên cứu quá nhiều.
- B 4. Học sinh trình bày nội dung nghiên cứu trong sách giáo khoa
Giáo viên mời đại diện từng nhóm (theo thứ tự 1, 2, 3, 4 để bảo đảm nội dung bài
học) trình bày nội dung hoặc chỉ định một học sinh nào trong nhóm trình bày
nhằm đánh giá được toàn diện quá trình hoạt động tự đọc sách của toàn nhóm.
- B5. Học sinh bổ sung, nhận xét phần trả lời của các nhóm.
Giáo viên yêu cầu các thành viên nhóm bổ sung cho nhau sau đó các nhóm khác
tiếp tục bổ sung và nhận xét về nhóm trình bày, cuối cùng giáo viên nhận xét và
yêu cầu học sinh tự ghi lại nội dung vừa nghiên cứu, thảo luận vào tập. Làm như
vậy thì học sinh có cơ hội tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau, đồng thời giáo viên
có cơ sở đánh giá, nhận xét, so sánh việc tự đọc sách, nghiên cứu của các nhóm
với nhau.
- B6. Nhận xét của giáo viên
Giáo viên đánh giá, nhận xét chung về ưu điểm, nhược điểm từng nhóm và kết
luận vấn đề.
5.2.Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa trong tiết học.
Trước giờ học bài mới giáo viên cho học sinh đọc sách giáo khoa khoảng 3
đến 5 phút (tùy thuộc nội dung của bài). Trong quá trình dạy giáo viên yêu cầu học

sinh chú ý nghe giảng đồng thời theo dõi sách giáo khoa. Làm như thế thì khi dạy
học sinh có thể theo dõi và so sánh bài giảng của thầy với bài viết trong sách.
Trong quá trình giảng bài giáo viên không nên trình bày lại sách giáo khoa,
điều đó làm mất hứng thú của học sinh đôi khi nên cho học sinh đọc to một đoạn,
11

11


cả lớp cùng nghe một đoạn trong sách giáo khoa để thay cho phần trình bày tài liệu
mới nếu điều đó chỉ cần mang tính chất thông tin tài liệu mới.
Giáo viên cũng có thể cho học sinh cho cả lớp tự đọc một đoạn hay một mục
trong sách rồi đặt câu hỏi để học sinh trả lời.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925”. Giáo viên cho đọc phần “Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ
hai của Pháp”. Sau đó giáo viên hỏi: Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của
Pháp có đặc điểm gì?
Điều quan trọng trong sử dụng sách giáo khoa trên lớp là giáo viên phải
hướng dẫn học sinh nắm vững những nội dung quan trọng cần ghi nhớ, phân tích
sự kiện cơ bản, rút ra kết luận khái quát, trả lời câu hỏi đặt ra.
Giáo viên cũng cho học sinh thấy được sự thống nhất giữa bài giảng với
sách giáo khoa, hiểu được ý đồ của thầy cô khi bổ sung kiến thức ngoài sách giáo
khoa để làm nổi bật kiến thức cơ bản.
5.3.Hướng dẫn học sinh tự ôn tập, tự nghiên cứu.
Ngoài việc hướng dẫn sử dụng SGK, tài liệu học tập cho học sinh thì giáo
viên cũng cần hướng dẫn cách ôn tập, ghi bài trên lớp (ghi chứ không phải chép).
Học sinh phải biết tự mình hình thành một bài học theo cấu trúc của riêng mình.
Khắc phục tình trạng đọc chép, làm cho học sinh thông hiểu được lịch sử.
Về tự ôn tập, tự nghiên cứu giáo viên có thể sử dụng phiếu học tập để trống
yêu cầu học sinh điền đầy đủ các thông tin làm như thế buộc học sinh phải nghiên
cứu sách giáo khoa hoặc tài liệu liên quan để điền vào. Làm như thế học sinh sẽ

phát huy sự tư duy của mình.
Tùy vào nội dung từng bài giáo viên sẽ chọn phiếu học tập phù hợp, khái
quát hoá được vấn các nội dung của bài.
Phiếu học tập học sinh sẽ điền nội dung vào trong thời gian diễn ra tiết dạy,
khi buổi học còn khoảng 10 phút học sinh sẽ nộp lại cho giáo viên, giáo viên nhận
xét vào ngay phiếu học tập những lỗi sai. Khi trả lại cho học sinh xem giáo viên
cần chỉ cho học sinh cách khắc phục. Sau mỗi lần như thế học sinh đã giảm những
lỗi sai trong bài làm.
Cách này nếu giáo viên làm thường xuyên thì khi làm bài kiểm tra học sinh
không bị mắc phải những sai lầm như đã nêu ở trên.
Ví dụ: Bài 20(tiết 30,31): Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
kết thúc( 1953-1954). Giáo viên thiết kế phiếu học tập như sau:
PHIẾU HỌC TẬP.
1. Kế koạch Nava được Pháp – Mĩ thực hiện như thế nào:
.................................................................................................................................
12

12


.................................................................................................................................
2. Cuộc tấn công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 của quân ta được
diễn ra như thế nào?
.................................................................................................................................
3. Tại sao nói pháo đài Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả xâm phạm?
.................................................................................................................................
4. Trong bài thơ “ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu có đoạn viết
“năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hàm, mưa dầm, cơm vắt”. Em hãy cho
biết năm mươi sáu ngày đêm của chiến dịch Điện Biên Phủ được bắt đầu và kết
thúc vào thời gian nào?

* Bắt đầu ngày…………tháng………năm……….
* Kết thúc ngày………..Tháng………Năm……….
5. Em hãy kể lại những tấm gương chiến đấu anh dũng trong chiến dịch
Điên Biên Phủ: .......................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
5.4.Hướng dẫn học sinh tự ghi chép bài.
Bài giảng của giáo viên tốt giúp các em học sinh ghi đầy đủ, tích cực tư duy
trong khi nghe giảng, tự mình lựa chọn những vấn đề để ghi chép theo dàn ý trên
bảng và tự đặt ra vấn đề để giải quyết trên lớp hay tiếp tục suy nghĩ ở nhà.
Ghi bài giảng trên lớp hiện nay có hai xu hướng không đúng cần nhắc học
sinh không được sử dụng đó là: Một là ghi sơ lược cách này sẽ không theo dõi bài
giảng của giáo viên về nhà chỉ học thuộc sách giáo khoa. Hai là ghi tỉ mỉ cách này
học sinh chỉ chăm chú ghi không có thời gian suy nghĩ và nghe bài giảng của thầy
cô, học sinh sẽ rơi vào tình trạng học thụ động toàn ghi nhớ sự kiện một cách máy
móc.
Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi chép trên lớp ở những công việc sau đây:
- Thứ nhất: Ghi dàn ý của bài học, theo dàn ý của giáo viên ghi trên bảng và
đối chiếu khi theo dõi sách giáo khoa để ghi những sự kiện chính.
- Thứ hai: Vẽ lại trong vở của mình những hình vẽ mà giáo viên vẽ trên bảng
để minh họa cho bài giảng. Chú ý vẽ những hình có nội dung kiến thức.
- Thứ ba: Ghi các số liệu, niên đại, sự kiện quan trọng, lập các bảng học tập,
đồ thị theo bài giảng của giáo viên.
- Thứ tư: Ghi lại các tài liệu lịch sử gốc, câu nói nổi tiếng của các danh nhân,
câu trích trong các tác phẩm các tác gia kinh điển như Lênin, Hồ Chí Minh, văn
kiện của Đảng. Chú ý các câu trích phải liên hệ với kiến thức đang học trong bài.
13
13



- Thứ năm: Ghi các từ mới, các thuật ngữ sử học thường dùng để hiểu các
nội dung khái niệm, thuật ngữ trong bài.
- Thứ sáu: Ghi lời hướng dẫn dặn dò của giáo viên về việc tự học ở nhà.
Ví dụ: Khi dạy mục 1.
Tình hình nước ta sau
cách mạng tháng Tám
1945 (Bài 17 SGK Lịch sử
12 Cơ bản).
- Giáo viên hướng dẫn học
sinh ghi dàn ý của bài học,
theo dàn ý của giáo viên
ghi trên bảng và đối chiếu
khi theo dõi sách giáo
khoa để ghi những sự kiện
chính.

- Học sinh vẽ lại sơ đồ đơn giản mà giáo viên trình bày minh họa trên bảng vào vở
như sau.

14

14


Với sơ đồ trên học sinh dễ dàng nhớ bao quát được những khó khăn của nước ta
sau cách mạng tháng Tám: bao gồm khó khăn về Ngoại xâm, nội phản; chính trị,
quân sự, Kinh tế, tài chính và Văn hóa xã hội.Những khó khăn trên đặt nước ta
đứng trước tình thế “ Ngàn cân treo sợi tóc”
- Ghi các số liệu, niên đại, sự kiện quan trọng, lập các bảng học tập, đồ thị
theo bài giảng của giáo viên.

- Ghi các số liệu, sự kiện quan trọng, lập các bảng học tập, đồ thị theo bài
giảng của giáo viên.
- Ghi các từ mới, các thuật ngữ sử học thường dùng để hiểu các nội dung
khái niệm, thuật ngữ trong bài.
- Ghi lời hướng dẫn dặn dò của giáo viên về việc tự học ở nhà.
5.5.Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận biết các dạng bài tập trong bài.
- Hướng dẫn học sinh nhận biết các cấp độ của kiểm tra, các dạng bài tập là
điều cần thiết đối với giáo viên nói chung và giáo viên lịch sử nói riêng.
+ Nhận biết các dạng câu hỏi giúp học sinh phân biệt được các loại câu hỏi
như trình bày, phân tích, nhận xét,... Qua đó học sinh biết được cách trình bày nội
15

15


dung theo từng dạng câu. Khi phân biệt được câu hỏi thì khi làm bài sẽ không mắc
phải lỗi sai như lạc đề, viết tràn lan, viết thiếu kiến thức cơ bản.
+ Hướng dẫn học sinh nhận biết các dạng câu hỏi giúp cho giáo viên có
những giải pháp phù hợp khi giảng bài cho học sinh theo từng dạng câu hỏi, đảm
bảo đề kiểm tra phải đạt được các mức độ như nhận biết, thông hiểu về lịch sử.
+ Trong quá trình dạy sau khi học hết các tiểu mục giáo viên yêu cầu học
sinh xem câu hỏi phía dưới, nhất là câu hỏi và bài tập. Giáo viên phải hướng dẫn
cho học sinh biết đây là loại câu hỏi gì, dạng nào, mức độ cần đạt của câu đó như
thế nào? Hướng giải quyết ra sao?...
Ví dụ: Bài 1( tiết 1). Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới
thứ hai (1945 – 1949).
Câu hỏi 1: Hãy nêu những quyết định của hội nghị Ianta (2/ 1945)
Đây là loại câu hỏi ở cấp độ nhận biết vì có từ như “ nêu”. Đối với loại câu
hỏi này giáo viên yêu cầu học sinh chỉ cần trình bày lại những sự kiện về quyết
định của hội nghị Ianta (2/ 1945) không cần phân tích hay chứng minh.

Câu hỏi 2: Tổ chức Liên hợp quốc có vai trò như thế nào trong việc giữ gìn an
ninh thế giới ?
Đây là loại câu hỏi ở cấp độ thông hiểu vì đề có cụm từ “như thế nào”. Đối
với loại câu hỏi này giáo viên yêu cầu học sinh chỉ phải hãy lí giải được tại sao lại
có sự đối lập về chính trị và kinh tế giữa hai khối nước Tây Âu và Đông Âu, cần
phải đưa ra các minh chứng về sự đối lập đó.
Nếu giáo viên làm được điều này giúp học sinh biết và hiểu biết hơn khi vận
dụng vào làm bài kiểm tra, khắc phục được lỗi lạc đề, viết tràn lan, viết không
đúng không đủ nội dung cơ bản. Học sinh cũng không bị viết một cách máy móc,
rập khuôn theo thầy mà có thể viết theo sự hiểu lịch sử của mình trên cơ sở lịch sử.
Vấn đề này hết sức đơn giản nhưng rất cần đối với học sinh, nếu làm tốt điều này
tôi tin rằng các bài kiểm tra của học sinh sẽ hạn chế được rất nhiều sai lầm thì chất
lượng cũng sẽ nâng cao hơn.
Trong kiểm tra, đánh giá cần chú trọng đánh giá kỹ năng phân tích, tổng
hợp, khái quát hoá kiến thức, rèn luyện khả năng vận dụng các kiến thức vào giải
quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn, đặc biệt chú ý kỹ năng viết, kỹ năng
trình bày một vấn đề.
6. Các cách thức của học sinh để tổ chức việc tự học.
6.1. Xây dựng động cơ học tập.
Động cơ học tập không có sẵn, cũng không thể áp đặt mà phải được hình
thành dần dần chính trong quá trình học sinh ngày càng đi sâu chiếm lĩnh đối
tượng học tập dưới sự tổ chức và điều khiển của thầy, cô. Nếu trong dạy học, thầy
cô luôn luôn thành công trong việc tổ chức cho học sinh tự phát hiện ra những điều
mới lạ, giải quyết thông minh các nhiệm vụ học tập, tạo ra được những ấn tượng
16

16


tốt đẹp với việc học tập thì dần dần làm nảy sinh nhu cầu của các em đối với tri

thức khoa học. Học tập dần dần trở thành nhu cầu không thể thiếu của các em.
Muốn có được điều này phải làm sao cho những nhu cầu được gắn liền với một
trong những mặt của hoạt động học tập hay với tất cả các mặt đó. Khi đó, những
mặt này của việc học tập sẽ biến thành các động cơ và bắt đầu thúc đẩy hoạt động
học tập tương ứng. Nó sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần thường xuyên thúc đẩy các
em vượt qua mọi khó khăn để giành lấy tri thức.
Việc xây dựng động cơ học tập hết sức muôn hình muôn vẻ và rộng lớn.
Muốn phát động được động cơ học tập trước hết cần khơi dậy mạnh mẽ ở các em
nhu cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học tập vì nhu cầu là nơi khơi
nguồn của tính tự giác và sự tích cực trong học tập.
Giáo viên cần đóng vai trò khơi nguồn cảm hứng,khơi gợi hứng thú học tập
môn lịch sử cho học sinh để các em có ý thức tốt về nhu cầu học tập. Người học tự
xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn là việc làm cần thiết đầu tiên. Có
động cơ học tập khiến cho học sinh luôn tự giác say mê học tập với mục tiêu cụ thể
rõ ràng tạo niềm vui sáng tạo.
Ví dụ. Bài 20 (tiết 30,31): Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
kết thúc( 1953-1954).
Giáo viên phải là người khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho các em bằng những
câu hỏi gợi mở như sau:
Câu 1. Tính đến thời điểm (1953- 1954) Thực dân Pháp đã theo đuổi cuộc chiến
tranh bao nhiêu năm?
Câu 2. Âm mưu của thưc dân Pháp khi khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm
luwowch làn 2 của Pháp là gì?
Câu 3. Mục đích đó của Thực dân Pháp có thực hiện được không?
Câu 4. Vì sao Pháp đưa ra kế hoạch Nava?
Câu 5. Kế hoạch Nava được thực hiện như thế nào?
Câu 6. Chủ trương của ta như thế nào?
Câu 7. Vì sao ta lại chọn Điện Biên Phủ là nơi quyết chiến chiến lược của ta và
Pháp.
Với hệ thống câu hỏi mà giáo viên đưa ra để phát vấn học sinh, học sinh sẽ tích

tực tìm tòi và mang đến sự thích thú cho các em khi khám phá ra một vấn đề mới
lạ đối với mình.
6.2. Tự rèn luyện bản thân.
Học sinh cần học tập một cách tự giác, tự tìm tòi khám phá, chủ động tìm
hiểu những gì mình chưa biết, những gì mình cần biết mà không cần ai yêu cầu
nhắc nhở. Các em phải tự mình đặt ra cho mình những câu hỏi: Vì sao? Diễn ra
như thế nào? Kết quả ra sao?.
17

17


Ví dụ. Bài 1( tiết 1). Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ
hai (1945 – 1949).
Học sinh phải biết tự mình đặt ra những câu hỏi:
Vì sao hội nghi Ianta diễn ra? Diễn ra như thế nào? Và kết quả, ý nghĩa ra sao?
Học sinh cần tăng cường rèn luyện ý thức tự học, tự bồi dưỡng tri thức trong
quá trình học tập của mình, đồng thời phải biết cảm nhận, hiểu sâu sắc về lịch sử.
Trong quá trình ghi bài phải cẩn thận từng câu từng chữ, nhớ là sau khi ghi xong
một câu hay toàn bài thì cần phải đọc lại bài xem có bị sai chính tả không, sai nội
dung không. Tuyệt đối không được chủ quan cho rằng mình viết như vậy là đúng.
6.3. Tự học lịch sử qua tham quan Di tích, học tập thực tế.
Đây là một hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm di tích có một vị trí quan
trọng trong dạy học ở trường phổ thông. Những dấu vết, hiện vật tại di tích không
chỉ có tác dụng cụ thể kiến thức môn học, mà còn để lại ấn tượng mạnh mẽ, nâng
cao hứng thú học tập và rèn luyện kĩ năng quan sát, tư duy của học sinh.
Tổ chức tham quan học tập thức tế, trải nghiệm di sản cho học sinh là hình
thức phổ biến, có hiệu quả trong các hoạt động giáo dục trường phổ thông. Tuy
nhiên, việc tổ chức tham gia hoạt động ngoại khóa đòi hỏi phải bỏ nhiều công sức
để chuẩn bị và tiến hành. Với hình thức này giáo viên bộ môn có thể kết hợp với

đoàn thanh niên và có sự hỗ trợ của nhà trường.
Để tổ chức cho học sinh tham gia học tập ngoại khóa, trải nghiệm di tích đạt
kết quả cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Xác định rõ mục đích, chủ đề buổi tham quan.
+ Chuẩn bị chu đáo về địa điểm, kế hoạch tiến hành, thái độ của học sinh,
phương pháp. Nếu giáo viên là người hướng dẫn thì phải tìm hiểu, nắm vững
chứng tích, hiện vật, đồ chưng bày, hay di tích để chuẩn bị nội dung trình bày. Nếu
hướng dẫn tham quan là cán bộ di tích thì giáo viên phải trao đổi trước về mục
đích, yêu cầu tham quan, những điều cần biết về học sinh. Trong cả hai trường hợp
giáo viên đều giữ vai trò quan trọng. Từ đó giúp cho mình có sự nhận thức sâu sắc
về lịch sử, để thấy được vai trò quan trọng của môn lịch sử trong trường phổ thông.
Khắc phục tình trạng coi môn lịch sử là môn phụ.
Ví dụ: Xuyên suốt học kì 2 học sinh tìm hiểu về chuyên đề “Nhân dân hai miền
chiến đấu chống đế quốc mĩ xâm lược”
Nhằm tạo không khí học tập vui tươi, phấn khởi, thiết thực cho học sinh; hình
thành cho học sinh lòng yêu nước và giáo dục tư tưởng cho học sinh. Từ đó hình
thành nên niềm tự hào dân tộc lòng biết ơn sâu sắc trong mỗi học sinh đối với
những hi sinh của các thế hệ cha ông đi trước.
Được sự hỗ trợ của Đoàn trường tổ Sử - Địa tổ chức các hoạt động về nguồn, công
tác ngoại khóa ngoài nhà trường tại các khu di tích lịch sử: Bảo tàng Chứng tích
18

18


chiến tranh, Dinh Độc Lập, Bến Nhà Rồng nhằm giúp các em học sinh lớp 12 hiểu
rõ hơn về các bài học lịch sử trong chương trình lớp 12.
Quy trình thực hiện một một bài học tại di tích lịch sử.
6.3.1. Bước chuẩn bị cho bài học tại di tích.
B1. Học sinh:

+ Tự sưu tầm các tư liệu thông tin liên quan đến chuyên đề dưới sự hướng dẫn của
giáo viên: Hiện vật, ảnh, bài báo, các đạn văn trong sách
+ Sưu tầm trên các trang mạng.
+ Gặp gỡ các nhân chứng lịch sử
+ Học sinh tự đánh giá, phân tích các tư liệu đó bằng cách chia sẽ các thông tin
theo nhóm, lớp.
B2. Giáo viên:
+ Đọc và nghiên cứu các tài liệu về di sản
+ Soát lại các kiến thức mà học sinh đã tìm hiểu.
+ Liên hệ với cán bộ khu di tích.
6.3.2. Tổ chức hoạt động học tập tại Di tích.
- Không nên bắt học sinh nghe quá nhiều hoặc chỉ thụ động trả lời các câu hỏi của
giáo viên.
- khuyến khích học sinh xem, tiếp cận, trải nghiệm cùng di tích.
- Tổ chức các hoạt động cho học sinh làm việc theo nhóm, các hoạt động cần gắn
kết với chủ đề bài học.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài học bằng cách:
+ Giao nhiệm vụ học sinh hoặc theo nhóm xem, khảo sát, tìm hiểu, hiểu đúng ý
nghĩa, giá trị của di sản, tìm kiếm đúng các thông tin để điền vào các phiếu học tập
theo chủ đề bài học đã được soan sẵn.
+ Học sinh cũng có thể nghi lại, thảo luận chia sẻ với nhau những cảm nhận riêng
của mình trong quá trình tìm hiểu di tích.
Sau đây là một số hình ảnh của học sinh lớp 12 khi tham gia học tập ngoại khóa:

19

19


Học sinh đang chăm chú lắng nghe hướng dẫn viên giới thiệu về các tư liệu, hiện

vật của bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh
Học sinh đang xem sơ đồ bảo tàng Chứng Tích Chiến Tranh để tiến hành thăm
quan, học tập.

Học sinh đang xem những bức hình
về các nạn nhân bị ảnh hưởng chất
độc màu da cam.

20

Học sinh đang lắng nghe hướng dẫn viên
giới thiệu về các tư liệu và hiện vật Bảo
tàng Hồ Chí Minh.

20


Học sinh học tập tại bảo
tàng Hồ Chí Minh.

Học sinh đang đọc bản
Di chúc Của Bác Hồ

Học sinh tìm hiểu cuộc đời
làm cách mạng của Bác Hồ

6.3.3. Học sinh báo cáo kết quả sau khi học tập.
Ở Bảo tàng chứng tích chiến tranh.
Bảo tàng này được thành lập ngày 4 tháng 9 năm 1975 với tên gọi "Nhà
trưng bày tội ác Mỹ-ngụy". Nằm trên khuôn viên tòa nhà hành chính của chính

quyền Mỹ Ngụy cũ, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh trưng bày những tư liệu,
hiện vật, hình ảnh nhằm nhấn mạnh hậu quả của các cuộc chiến tranh mà các thế
lực xâm lược đã gây ra đối với người dân Việt Nam. Ngày 10 tháng 11 năm 1990
đổi tên thành "Nhà trưng bày tội ác chiến tranh xâm lược". Đến ngày 4 tháng 7
năm 1995 (một tuần trước khi Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bình
thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam), bảo tàng này lại đổi tên thành "Bảo
tàng Chứng tích chiến tranh" như ngày nay.
Bảo tàng Chứng tích chiến tranh trưng bày một số hiện vật, hình ảnh
trong Chiến tranh Việt Nam với các chủ đề: lính Mỹ tàn sát, tra tấn, tù đày dân,
rải chất độc hóa học, rải bom phá hoại miền Bắc. Các hiện vật như máy bay, đại
bác, xe tăng, máy chém và hai ngăn "chuồng cọp" được xây dựng đúng kích thước
như ở nhà tù Côn Đảo.
Có các phòng trưng bày về: Chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh bảo
vệ biên giới phía Bắc, vấn đề quần đảo Trường Sa, âm mưu của các thế lực thù
địch...
Ngày nay, bảo tàng mở rộng nội dung trưng bày, với nhiều đề tài xuyên suốt
lịch sử đấu tranh của Việt Nam từ thời xâm lược Pháp - Nhật đến sau ngày hòa
bình. Phòng trưng bày chính tại tầng trệt mang chủ đề Thế giới ủng hộ Việt Nam
kháng chiến. Chủ đề này phần nào nhấn mạnh quan điểm trưng bày của bảo tàng, ít
nhiều từng bị một số du khách quốc tế cho rằng có cái nhìn một chiều về chiến
tranh.
Bộ sưu tập ảnh "Việt Nam - Chiến tranh và Hòa bình" do nhiếp ảnh gia Nhật Bản
Ishikawa Bunyo thực hiện trong thời gian ông làm việc tại Việt Nam đến khi chiến
tranh kết thúc. Bộ sưu tập gồm hơn 250 hình ảnh về ảnh hưởng của chiến tranh đến
những người lính và dân thường. Khắp bảo tàng còn nhiều khu triển lãm về sự ảnh
hưởng của Chất độc Da cam đến cuộc sống và con người Việt Nam. Đây là những
hình ảnh và hiện vật thể hiện sự tàn khốc của chiến tranh.
Bên ngoài, bảo tàng có những gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm văn
hóa dân tộc Việt Nam, phòng rối nước Việt Nam.


21

21


Một số tư trang của lính Mĩ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Một số quân trang, quân dụng của quân
ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

Một số vũ khí quân Mĩ sử dụng trong
cuộc chiến tranh.

Học sinh báo cáo kết quả sau khi học tập ở di tích lịch sử Dinh Độc Lập
Dinh Độc Lập có chiều cao 26m, được xây dựng trên diện tích 4.500m², diện tích
sử dụng là 20.000m², gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, 1 tầng nền, 2
tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp xuống. Hơn 100 căn
phòng của dinh, tùy theo mục đích sử dụng, được trang trí theo nhiều phong cách
khác nhau, bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp Hội đồng Nội các, phòng
làm việc của Tổng thống và của Phó Tổng thống, phòng trình ủy nhiệm thư, phòng
đại yến... và các hồ sen bán nguyệt ở hai bên thềm đi vào chính điện, bao lơn, hành
lang... Tất cả đều được thiết kế hết sức hài hòa, hợp lý.
Bên ngoài hàng rào phía trước và phía sau dinh là hai công viên cây xanh. Giữa
những năm 60 của Thế kỷ 20, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và
có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng). Các hệ thống phụ trợ bên
trong dinh rất hiện đại, với đầy đủ hệ thống điều hòa không khí, phòng, chống
cháy, thông tin liên lạc, nhà kho... Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn và
22

22



pháo. Các phòng của dinh được trang trí bằng nhiều tác phẩm tranh sơn mài, tranh
sơn dầu, với chủ đề “non sông cẩm tú”.
Hiện nay, Dinh Độc Lập do Cục Quản trị II - Văn phòng Chính phủ quản lý. Đặc
biệt, Dinh Độc lập chính là nơi ghi dấu thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, năm 1975.
Như vậy, trong lịch sử, Dinh Độc Lập là một chứng tích lịch sử đặc biệt quan
trọng, nơi diễn ra và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử lớn, trực tiếp tác động đến
tiến trình lịch sử nước nhà. Do vị thế đặc biệt của địa điểm này, di tích đã nhiều lần
được đầu tư xây dựng, tôn tạo và trở thành một công trình xây dựng hoàn mỹ - sản
phẩm của sự kết hợp hài hòa giữa công trình kiến trúc hoành tráng với cảnh quan,
môi trường của khu vực xung quanh.
Với những giá trị lịch sử văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng
Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Dinh Độc Lập - nơi ghi dấu
thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước là di tích quốc gia đặc biệt (quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày
12/8/2009).
Một số hình ảnh học sinh nghi nhận được trong quá trình tham gia học tập.

Phòng làm việc của Tổng Thống

Phòng khách của tổng thống

Nguyễn Cao Kỳ

23

23



Phòng thông tin

Phòng tham mưu tác chiến

Bảng thống kê quân số Đồng Minh tại
Việt Nam Cộng Hòa năm 1968

Phòng tham mưu tác chiến

Đài thu vô tuyến siêu tần số.

Phòng trực chiến của tổng thống

Báo cáo kết quả sau khi học tập tại Bến Nhà Rồng (Bảo tàng HỒ CHÍ MINH).
Bến Nhà Rồng, ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã lên
con tàu Amiral Latouche Tréville (Pháp), bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước.
Hơn 100 năm – hơn một thế kỷ đã trôi qua, đã có quá nhiều sự đổi thay; nhưng
24
24


Bến Nhà Rồng vẫn còn đó, và lý tưởng của người thanh niên ngày đó, và về sau là
lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam vẫn sáng mãi cùng non sông.
Bến Nhà Rồng là trụ sở thương cảng của Sài Gòn, nằm bên sông Sài Gòn;
được xây dựng từ năm 1863, là một trong những công trình đầu tiên thực dân Pháp
xây dựng sau khi chiếm được đất này. Công trình có lối kiến trúc công sở phương
tây với hành lang bao quanh và những vòm cuốn, nhưng lại có mái mang nét kiến
trúc phương Đông, Đặc biệt, trên đỉnh mái có trang trí đôi rồng kiểu lưỡng long
chầu nguyệt - một lối trang trí phổ biến trên các kiến trúc truyền thống Việt Nam.

Và kiến trúc ấy được gọi là Nhà Rồng hay Bến Nhà Rồng. Sau khi người Pháp thất
bại ở Đông Dương năm 1954, Bến Nhà Rồng được chính quyền miền nam Việt
Nam quản lý, Bến Nhà Rồng được tu sửa lại và trang trí hình rồng trên đỉnh mái
được thay đổi hướng ra ngoài.
Sau khi đất nước thống nhất, để ghi nhớ sự kiện ngày 5/6/1911, Bác Hồ đã ra đi từ
Bến Nhà Rồng tìm đường cứu nước; kiến trúc này được giữ lại làm di tích lịch sử,
là khu lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trưng bày về “Sự nghiệp tìm đường cứu
nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1945)”. Ngày 20/9/1982, Uỷ ban Nhân dân
TP. Hồ Chí Minh ra quyết định số 236/QĐ-UB-NCVX chính thức chuyển “Khu
lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh” thành “Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh TP. Hồ
Chí Minh”. Bảo tàng có nhiệm vụ sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền về
cuộc đời sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là tập trung
nhấn mạnh vào sự kiện ra đi tìm đường cứu nước; và thể hiện mối quan hệ tình
cảm của Bác Hồ với đồng bào, nhân dân Miền Nam.
Không gian tưởng niệm chủ tịch Hồ Chí Minh lối sảnh chính. Trên án thờ có
tượng Bác Hồ bằng đồng, tay cầm tờ báo nhân dân. Hai bên án thờ là câu đối:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”
Không gian tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh lối sảnh chính. Trên án thờ có
tượng Bác Hồ bằng đồng, tay cầm tờ báo nhân dân. Hai bên án thờ là câu đối:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”
Những bản Tuyên ngôn độc lập trong lịch sử Việt Nam: Bài thơ “Nam quốc
sơn hà” của Lý Thường Kiệt (năm 1077) ; “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi
(năm 1428) và “Tuyên ngôn độc lập” của Bác Hồ (năm 1945)
Bản Tuyên ngôn độc lập Bác Hồ đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 đã
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên
ở Đông Nam châu Á.
Hiện Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh TP Hồ Chí Minh có hơn 11.000 tư liệu,
hiện vật và 3300 đầu sách chuyên đề về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các hiện vật được
tổ chức trưng bày theo các không gian:
5 phòng trưng bày chủ đề về sự nghiệp, con đường của Chủ tịch Hồ Chí Minh:


25

25


×