Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

TUYỂN tập các DẠNG đề và gợi ý làm bài môn văn lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 47 trang )

facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
(Hồ Chí Minh)
I.Hoàn cảnh sáng tác:
- Hoàn cảnh lớn:
HCM viết bản tuyên ngôn khi đế quốc, thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta:
+ Dưới danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, Quân đội Quốc dân
Đảng TQ tiến vào phía Bắc.
+ Quân Anh tiến vào phía Nam
+ Thực dân Pháp theo chân đồng minh tuyên bố “ Đông Dương thuộc quyền bảo hộ của
Pháp”.
- Hoàn cảnh cụ thể:
Ngày 19 - 8 - 1945, chính quyền Hà Nội về tay nhân dân . Ngày 26 - 8 - 1945, Hồ Chí
Minh từ chiến khu trở về Hà Nội . Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang - Hà Nội Người đã soạn bản Tuyên ngôn độc lập . Ngày 2 -9 - 1945, tại quảng trường Ba Đình Hà Nội , Người thay mặt chính phủ lâm thời của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập trớc đồng bào cả nước và thế giới.
II.Đối tượng và mục đích:
+ Đối tượng: nhân dân VN, nhân dân Thế giới và bọn đế quốc Anh, Pháp, Mỹ.
+ Mục đích :
- Tuyên bố và khẳng định quyền độc lập , tự do của dân tộc VN.
- Bác bỏ luận điệu của bọn xâm lược trước dư luận TG.
- Đồng thời khẳng định ý chí bảo vệ độc lập dân tộc.
III. Câu hỏi và đề văn:
1. Vì sao HCM lại chọn trích dẫn 2 bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ để mở đầu
cho bản tuyên ngôn của mình? ( “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyến ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”- MĨ và “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi”- PHÁP)


- Trích dẫn từ 2 bản tuyên ngôn của Mĩ ( 1776) và Pháp (1791) để Làm cơ sở pháp lí
cho bản tuyên ngôn.
- Mục đích:
+ Đề cao truyền thống bình đẳng , tiến bộ của nhân dân Mĩ và Pháp nhằm ngăn chặn âm
mưu của bọn xâm lược Dùng chiến thuật “ gậy ông đập lưng ông”.
+ Đặt 3 cuộc CM của nhân loại ngang bằng nhau, CM VN cùng lúc thể hiện 2 nhiệm vụ
của 2cuộc CM Pháp, Mỹ. CM VN trở thành một bộ phận của CM thế giới.
+ Từ 2 bản tuyên ngôn này, HCM suy rộng ra “tất cả các dân tộc đều có quyền hưởng tự
do, độc lập”  thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

2.

Chứng minh “TNĐL” không chỉ là văn kiện lịch sử trọng đại mà còn là áng
văn chính luận mẫu mực?
1


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

a. TNĐL là một văn kiện lịch sử trọng đại:
+ Bản tuyên ngôn đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước . Tuyên bố chấm
dứt chế độ thực dân , đánh đổ chế độ quân chủ lập hiến, lập nên nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa .
+ Tuyên ngôn độc lập còn đập tan những luận điệu xảo trá của bọn đế quốc Mĩ, Anh,
Pháp về việc khai hóa , bảo hộ để nhằm tái chiếm Đông Dương .
+ Tuyên ngôn độc lập vừa giải quyết được nhiệm vụ độc lập dân tộc, lại vừa giải quyết
được nhiệm vụ dân chủ cho nhân dân (Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi
thế kỉ mà lập nên chế độ cộng hoà), tức là bên cạnh chữ Độc lập lại có thêm chữ Tự

do, mở ra một kỉ nguyên mới cho đất nước: kỉ nguyên độc lập, tự do. Đó là tư tưởng
lớn , chân lí của thời đại mà sau này Bác đã đúc kết trong câu nói nổi tiếng : “Không
có gì quí hơn Độc lập, Tự do” .
+ Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi
sinh và là kết quả của bao nhiêu hi vọng của nhõn dõn VN.
b. TNĐL là áng văn chính luận mẫu mực thể hiện ở: lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh
thép, ngôn ngữ hùng hồn vừa tố cáo mạnh mẽ tội ác của kẻ thù, ngăn chặn âm mưu
tái chiếm nước ta của các thế lực thù địch vừa bộc lộ tình cảm yêu nước thương dân
và khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của tác giả và toàn dân tộc.
* Trước hết, HCM xây dựng cơ sở pháp lí của chủ quyền dân tộc VN. Cơ sở ấy là
hai bản bản tuyên ngôn của Pháp, Mĩ được tác giả trích dẫn nội dung cốt lõi (phần trích
ở câu 1).Từ những nguyên tắc ấy, HCM suy rộng ra “tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
và khẳng định “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” Điều này có ý nghĩa vô
cùng to lớn bởi Người đã:
- Đề cao truyền thống bình đẳng , tiến bộ của nhân dân Mĩ và Pháp nhằm ngăn chặn âm
mưu của bọn xâm lược Dùng chiến thuật “ gậy ông đập lưng ông”.
- Đặt 3 cuộc CM của nhân loại ngang bằng nhau, CM VN cùng lúc thể hiện 2 nhiệm vụ
của 2cuộc CM Pháp, Mỹ. CM VN trở thành một bộ phận của CM thế giới.
- Từ 2 bản tuyên ngôn này, HCM suy rộng ra “tất cả các dân tộc đều có quyền hưởng tự
do, độc lập”  thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
*Tiếp đến, HCM đưa ra cơ sở thực tế của chủ quyền dân tộc VN:
Thực dân Pháp đã chiếm nước ta trên 80 năm và hiện đang lăm le tái chiếm. Để dọn
đường cho cuộc xâm lược mới, chung chuẩn bị dư luận, rêu rao về quyền của chúng ở
VN nói riêng, ở Đông Dương nói chung. Bởi vậy, để khẳng định chủ quỳên của dân tộc,
Người đã phủ nhận quyền của chúng đối với VN, bằng cách chứng minh ngược lại
những lời rêu rao của chúng:
- Chúng kể công khai hóa, bản TN vạch trần những hành động tội ác “trái hẳn với
nhân đạo và chính nghĩa”
+ Về chính trị, chúng: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ của ta; chia rẽ ba kì; tắm máu

các phong trào yêu nước và cách mạng; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc dân ta
bằng thuốc phiện, rượu cồn....
+ Về kinh tế, chúng: bóc lột và vơ vét đến tận xương tủy; cướp không ruộng đất, hầm
mỏ, giữ độc quyền in giấy bạc...; đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí....
2


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

- Chúng kể công “bảo hộ”, bản TN kể tội trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần
cho Nhật (mùa thu năm 1940, Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật;
ngày 9.3.1945, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp, bọn chúng hoặc bỏ chạy hoặc
đầu hàng...)
kết quả là: gây ra nạn đói khủng khiếp làm hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói.
- Chúng tuyên bố Đông Dương trong đó có VN là thuộc địa và đòi lại, bản TN vạch
rõ: ĐD và VN trở thành thuộc địa của Nhật từ năm 1940 và nhân dân ta đã
giành độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
- HCM khẳng định dân tộc VN có quyền trên đất nước của mình:
+ Nếu P phản bội đồng minh, hai lần bán rẻ ĐD cho Nhật thì VN đã đứng lên chống
Nhật giành chủ quyền.
+ Nếu P đê hèn, tàn bạo,và phản động ở hành động “thẳng tay khủng bố Việt Minh, giết
nốt số tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng... thì ta khoan hồng, nhân đạo
 Từ những cơ sở pháp lí và thực tế hết sức đầy đủ, chặt chẽ, rõ ràng, HCM đi đến
tuyên bố độc lập. Lời tuyên bố gồm:
- Thoát li hẳn quan hệ thực dân với P, xóa bỏ hết những hiệp ước mà P đã kí về VN, xóa
bỏ mọi đặc quyền của P trên đất nước VN.
- Kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng chống lại âm mưu của P. Khẳng định ý chí, quyết
tâm mạnh mẽ của toàn dân tộc (toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực

lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do dộc lập ấy)
- Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền tự do, độc lập của dân tộc VN

TÂY TIẾN – QUANG DŨNG
I. Hoàn cảnh sáng tác.
-“Tây Tiến” là đơn vị bộ đội được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao lực lượng địch ở thượng Lào cũng như
miền Tây Bắc bộ VN.
- Địa bàn hoạt động khá rộng từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về
ThanhHóa. Lính Tây Tiến phần đông là trí thức, thanh niên Hà Nội ra đi theo tiếng gọi
của Tổ quốc, Quang Dũng là đại đội trưởng.
- Năm 1948, sau một năm hoạt động, đoàn binh Tây Tiến về Hoà Bình thành lập trung
đoàn 52, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại Phù Lưu Chanh,nhớ về đơn vị cũ,
Quang Dũng viết bài thơ này, lúc đầu có tên “Nhớ Tây Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến”
II. Xuất xứ: “Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng, thể hiện rõ phong cách
nghệ thụât của nhà thơ- lãng mạn, tinh tế, phóng khoáng và tài hoa.
III. Đề văn và gợi ý:
1.Đề 1. Phân tích hình ảnh thiên nhiên miền Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến trong
hoài niệm của tác giả qua đoạn thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
………………………………
3


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Gợi ý:

1. MB: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
2. TB:
14 câu đầu bài thơ là nỗi nhớ đầy xúc động, bao trùm cả không gian, thời gian. Nỗi
nhớ dường như nén chặt bỗng trào dâng, khiến kỉ niệm xôn xao hiện về:
a. Hai câu mở đầu :
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
- nỗi nhớ đơn vị cũ được cát lên thành lời, thành tiếng gọi vừa xao xuyến, bồi hồi vừa
xen lẫn tiếc nuối:
+ Sông Mã khơi nguồn cho nỗi nhớ vì đó là con sông từng chứng kiến vui buồn của
người lính TT….
+ “Tây Tiến ơi” ba từ đơn giản nhưng thật tha thiết nghe như tiếng gọi nguời
thương…ẩn chứa niềm bâng khuâng, thương nhớ.
- Nỗi nhớ được nhân lên với nghệ thuật sử dụng điệp từ “nhớ”: “nhớ về… nhớ chơi
vơi”
+ “nhớ về” gợi liên tưởng thời gian
+ “rừng núi” biểu tượng không gian
+ “Nhớ chơi vơi”- cách dùng từ độc đáo, như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình
tượng hóa nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, rừng dày, vực thẳm.
+Từ cảm “ơi” vần với từ láy “chơi vơi”, tạo âm hưởng mênh mang, da diết.
b. 12 câu tiếp theo : Nhớ con đường hành quân của người lính qua núi rừng Tây Bắc:
* Điều kiện thời tiết khắc nghiệt: “Sài Khao…..đêm hơi “
- Những hình ảnh :“sương lấp”, “đoàn quân mỏi”, “đêm hơi”+ liệt kê những địa danh lạ
“Sài Khao”, “Mường Lát”…, gợi lên sự khắc nghiệt của thời tiết, vẽ nên con đường hành
quân cụ thể mà rộng khắp. Nhưng trong “sương lấp”, “đêm hơi” đoàn hùng binh vẫn dũng
cảm vượt qua những nẻo đường chiến đấu.
* Địa hình hiểm trở, dữ dội: “Dốc lên…….xa khơi”
- Những từ láy: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút + những hình ảnh đối lập: “dốc lên khúc
khuỷu, dốc thăm thẳm”, “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Những câu thơ giàu chất tạo hình vẽ ra cái thế gập ghềnh, cheo leo của dốc núi như thử

thách ý chí can trường của người lính. Nhưng các anh vẫn phơi phới, lạc quan, yêu đời,
vẫn hồn nhiên, tinh nghịch trong tư thế “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.
-Sự phối thanh, ngắt nhịp lịnh hoạt đã tạo nên âm điệu lạ:
+Những thanh trắc: nghe nhọc nhằn, vất vả, giống như con đường hành quân gian khổ mà
người lính phải trải qua.
+Những câu thơ phân nhịp bẻ đội, như hoạ lại con đường hành quân gian khổ ở độ cao, độ
sâu chóng mặt.
+Những thanh bằng: nghe êm ái, nhẹ nhàng, như tâm hồn lâng lâng của người lính khi đã
chiếm lĩnh được những độ cao tuyệt đối.
4


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

* Thiên nhiên hoang dại, dữ dội chứa đầy bí mật:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét…
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
- Những âm thanh ghê rợn: tiếng thác “gầm thét”, tiếng cọp “ trêu người” + những từ láy
đối ứng nhau “chiều chiều”, “đêm đêm”, gợi tả cái bí mật quyền uy ghê gớm của rừng
thiêng, nước độc. Nơi đây cái chết luôn rình rập, đe doạ mạng sống con người.
* Nhưng thiên nhiên vùng Tây Bắc cũng mang nét thơ mộng, lãng mạn của đại ngàn:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Hay “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi’
* Trên chặng đường hành quân gian khổ, có những người lính đã hy sinh :
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa”
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
- Âm điệu câu thơ trĩu xuống như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ, dãi dầu, có đồng
đội đã không bước nữa, vĩnh biệt đoàn binh, nằm lại nơi chân đèo góc núi.

- Những từ: “không bước nữa”, “Gục lên súng mũ” & “bỏ quên đời” được dùng thay thế
cho cái chết nhằm giảm đi nỗi đau đớn nhưng người đọc vẫn cảm nhận rất sâu sắc nỗi xót
xa thương tiếc đồng đội như trào lên trong lòng nhà thơ.
- Nhưng đây là những câu thơ được viết với cảm hứng bi tráng, nhằm ca ngợi cái chết
đẹp của người chiến sĩ Tây Tiến vốn xuất thân từ những trí thức tiểu tư sản.
c.Hai câu cuối đoạn :
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Diễn tả những kỉ niệm ấm áp tình quân dân.Câu thơ chứa đựng hình ảnh đẹp, hương vị
ngọt ngào, giọng điệu êm nhẹ như xua tan không khí mệt mỏi, lạnh lẽo, chết chóc & tạo ra
cảm giác êm ái, dễ chịu, ấm cả lòng người
.3. KB:
2.Đề 2: Cảm nhận của anh, chị về thiên nhiên miền Tây Bắc và tình quân dân qua
đoạn thơ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.
…………………………………..
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Gợi ý:
1. MB:
2. TB:
Đoạn thơ diễn tả một vẻ đẹp khác của thiên nhiên và con người miền Tây, đó là vẻ
đẹp thơ mộng của thiên nhiên và tình quân dân thắm thiết, đậm đà.
a. Bức tranh thứ nhất mở ra bằng đêm liên hoan lửa trại biên giới:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
5



facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

- Những động từ mạnh: “bừng lên, khèn lên, về, xây” diễn tả buổi liên hoan tưng bừng, sôi
động trong ánh lửa bập bùng, trong âm thanh rộn ràng cùng những màu sắc sặc sỡ của áo
xiêm
- Dùng hô ngữ “kìa em” như cô gái trong thực tại chứ không phải trong hoài niệm. Cái
sống động của kí ức có tác dụng thực tại hóa, kéo quá khứ về thực tại. Chữ “kìa” như là
tiếng reo gợi sự ngạc nhiên, hào hứng trước cái lạ của xứ lạ: trang phục lạ “xiêm áo”, vũ
điệu lạ “man điệu”, cách giao tiếp “e ấp”
- Cái nồng ấm và tình tứ của các cô gái đã biến các chàng trai, những người lính Tây Tiến
thành thi sĩ “xây hồn thơ”
Đó là sức sống của một dân tộc, tình cảm và xúc cảm của những người lính lâu nay bị
những cuộc hành quân gian khổ kìm hãm nay như được hồi sinh trước vẻ đẹp của cuộc
sống.
- Nghệ thuật chơi chữ “hội đuốc hoa” được sử dụng khéo léo, gợi nhiều ý nghĩa:
+ Nghĩa thực là đốt đuốc để thắp sáng trong đêm lửa trại
+ Nghĩa hàm ẩn: mĩ lệ hóa hình ảnh này, gợi nghi thức trong hôn lễ. Cử chỉ “e ấp” vừa gợi
thái độ thẹn thùng, e lệ của cô gái miền sơn cước vừa gợi thái độ của cô dâu mới.....
+Nét nhạc chơi vơi cùng vũ điệu Lăm vông của các cô gái Lào làm say đắm các chàng trai
Hà Nội.
 Đoạn thơ có giọng điệu hiền hòa êm ái phù hợp với không khí ấm áp của bản làng và
tình quân dân thắm thiết.
b. Bức tranh thứ hai diễn tả vẻ đẹp của con người và cảnh vật Tây Bắc trong cảnh hoàng
hôn sông nước Châu Mộc:
“Ngươì đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

- Bao trùm khổ thơ là vẻ đẹp hài hòa giữa con người và thiên nhiên:
+ Cảnh vật như có linh hồn phảng phát trong gió, trong cây “hồn lau nẻo bến bờ” hài hòa
với tâm hồn đa cảm của những người chiến binh.
+ Dáng người lái thuyền với tay chèo uyển chuyển “dáng người trên độc mộc” hài hòa với
dáng “hoa đong đưa”
- Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc: ba chữ “chiều sương ấy” gói trọn cả thời gian, không
gian và ấn tượng khó quên đối với cảnh vật và con người Tây Bắc.
- Điệp từ “có thấy, có nhớ” nhấn mạnh và khẳng định tình cảm tác giả
Ngòi bút tài hoa, lãng mạn của nhà thơ đã làm tiêu tan vẻ dữ dội của “dòng nước lũ”,
tạo ra chất thơ cho cảnh vật.
3. Đề 3: Phân tích những nét đặc sắc trong nghệ thụât khắc họa chân dung người
lính Tây Tiến.
Gợi ý:
1. MB:
2. TB:
6


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

Trong đoạn 1 và 2, hình ảnh người lính đã hiện ra trên bối cảnh không gian núi rừng Tây
Bắc. Nhưng phải đến đoạn thơ này chân dung ấy mới được khắc họa một cách chân thực
với những đường nét đặc tả khó quên.
* Đây là hình tượng tập thể của người lính Tây Tiến. Quang Dũng đã chọn lọc những nét
tiêu biểu của từng người lính để tạc nên bức tượng đài tập thể mang tinh thần chung của
cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng tạo nên vẻ đẹp bi tráng- thần thái chung của bức tượng
đài.
- Bút pháp lãng mạn khiến chân dung người lính Tây Tiến ánh lên vẻ đẹp phi

thường, khác lạ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
+ Ngoại hình: “ không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”đầu trọc, da xanh vì gian khổ,
thiếu thốn, vì bệnh sốt rét hoành hành. Nhưng tư thế khi xung trận thì “dữ oai hùm”, “mắt
trừng”giận dữ khiến quân thù khiếp đảm.
Ba nét vẽ chính xác, dựng lên bức chân dung về người lính với vẻ đẹp hào hùng, lẫm liệt.
Bằng cái nhìn lãng mạn thì cái bi đã trở thành cái hùng.
+ Tâm hồn:vừa bản lĩnh, can trường vừa hào hoa, lãng mạn, tình tứ. Trong chiến tranh ác
liệt, người lính luôn mang trong mình khát vọng lập công cháy bỏng hướng về tiền
phương với giấc mộng chiến trường “gửi mộng qua biên giới”. Đồng thời họ đã sưởi ấm
tâm hồn mình bằng một thoáng mơ mộng về “dáng kiều thơm”- dáng đẹp của người con
gái Hà Nội thanh lịch. (Nếu người lính trong thơ Chính Hữu nhớ “gian nhà không”, ruộng
nương”, „giếng nước”, “gốc đa”; người chiến sĩ trong “Nhớ” của Hồng Nguyên thương về
“…người vợ trẻ. Mòn chân bên cối gạo canh khuya” thì người lính Tây Tiến có cách nhớ
thương riêng đầy chất trẻ trung, hào hoa lãng mạn. Đó là nét khám phá của Quang Dũng
khi vẽ chân dung anh bộ đội cụ Hồ tiểu tư sản thời chống Pháp)
+ Tính cách : gan dạ, dũng cảm, sẵn sàng chấp nhận hi sinh. Dù phải đối mặt thường nhật
với cái chết “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nhưng họ không lùi bước “Chiến trường đi
chắng tiếc đời xanh” vì đã tâm niệm và ý thức sâu sắc về ý nghĩa của sự hy sinh “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
- Sự mất mát, tổn thất của chiến tranh được Quang Dũng tiếp tục khai thác bằng bút
pháp lãng mạn đậm màu sắc bi tráng :
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Aó bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Cái bi thương, bi lụy được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tư tưởng lãng mạn:

+ Dùng nhiều từ Hán Việt: “đoàn binh”, “biên giới”, “biên cương”, “mồ viễn xứ”, “áo
bào”, “khúc độc hành”….gợi không khí trang trọng, cổ kính đồng thời giảm bớt đau
thương.
+ Cái bi thương bị mờ đi trước lí tưởng quên mình cho Tổ quốc “Chiến trường đi chắng
tiếc đời xanh”, mang dáng dấp của những tráng sĩ xưa.
7


Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

facebook.com/hocvancophuong

+ Họ ra đi không có manh chiếu che thân nhưng lại được bọc trong những tấm “áo bào”
sang trọng. Cách nói trang trọng ấy đã giảm đi phần thê lương của cái chết.
+ Tác giả không dùng từ “chết”, “hi sinh”, “anh ra đi” mà lại viết “anh về đất” đầy sáng
tạo. Họ không chết mà chỉ đi tiếp con đường của tổ tiên để giữ vững sơn hà xã tắc.
+ Cái bi bị át đi trong tiếng gầm thét tiễn đưa của con sông Mã, cái chết của người lính đã
động lòng cả đất trời, sông núi.
Trong âm hưởng vừa dữ dội vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hy sinh
không hề bi thương mà thẫm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng thơ trang trọng thể hiện tình cảm đau thương và sự trân trọng, kính cẩn của nhà
thơ trước sự hy sinh của đồng đội
3. KB:

VIỆT BẮC
(trích) - Tố Hữu
I.

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Việt Bắc”


- Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7/1954, Hiệp định Giơ – ne – vơ về
Đông Dương được kí kết. Hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay
vào xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới của dân tộc được mở ra.
- Tháng 10/1954,những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung
ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có
tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.
II. Đề tham khảo:

Đề 1: Phân tích đoạn thơ sau: “Ta về mình có nhớ ta

…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
 (Trích “Việt Bắc” - Tố Hữu)
 GỢI Ý
1. Khái quát:
- Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7-1954,Hiệp định Giơ – ne – vơ về
Đông Dương được kí kết. Hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay
vào xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới của dân tộc được mở ra.
- Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung
ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có
tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.
2. Phân tích:
a. Hai câu mở đầu đoạn:


“Ta về mình có nhớ ta.
8


facebook.com/hocvancophuong


Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244


Ta về ta nhớ những hoa cùng người”.
- Cả bài thơ được viết theo lối đối đáp giao duyên của ca dao, dân ca. Hai câu thơ này có
chức năng là những lời đưa đẩy để nối liền các đề tài ở những câu tiếp theo. Mở đầu là
một lời ướm hỏi: “Ta về mình có nhớ ta”  Giọng hỏi tình tứ, với cách xưng hô mặn mà,
quen thuộc: “ta – mình”. Câu thơ bày tỏ sự bịn rịn, lưu luyến của người ra đi đồng thời
bộc lộ sự hồn hậu của con người thơ Tố Hữu.
- Nhà thơ khẳng định: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Đó là nỗi nhớ dành cho
những gì đẹp nhất của Việt Bắc “hoa và người”.
 Hai câu thơ mở đầu đã giới thiệu chủ đề của đoạn thơ: hoa (thiên nhiên) và người
(nhân dân) Việt Bắc.
b. Tám câu thơ tiếp theo: Bộ tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
* Bức tranh thứ nhất (mùa đông):

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
- Việt Bắc hiện lên trong hai câu này có tính khái quát: một miền quê thật yên bình, êm ả.
Thiên nhiên xôn xao, tràn ngập màu sắc: Màu xanh mênh mông, trầm tĩnh của rừng già,
màu “đỏ tươi” của hoa chuối trải dài khắp núi rừng khiến cảnh vật trở nên sống động, rạng
rỡ.
- Trên nền cảnh mênh mông, xanh ngắt của đại ngàn, hình ảnh con người xuất hiện với
một tư thế vững chãi, tự tin của người làm chủ núi rừng: “Đèo cao ắng ánh dao gài thắt
lưng”.
* Bức tranh thứ hai (mùa xuân):

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng


Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
- Thiên nhiên được bao phủ bởi màu trắng tinh khiết và mỏng manh của hoa mơ rừng. Hai
chữ “trắng rừng” làm cho núi rừng như sáng bừng và trở nên dịu dàng, đằm thắm, quyến
rũ lạ lùng.
- Con người Việt Bắc hiện ra trong một công việc thầm lặng: “đan nón chuốt từng sợi
giang”.
+ Những từ ngữ: “đan, chuốt” gợi ra dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng, tài hoa của người lao
động.
+ Người đan nón không chỉ đang làm công việc đan nón đơn thuần mà như đang gửi vào
từng sợi giang, từng chiếc nón biết bao nỗi niềm, bao mơ ước thầm kín.
* Bức tranh thứ ba - bức tranh đặc sắc nhất (mùa hạ):

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô con gái hái măng một mình”.
- Bức tranh Việt Bắc vào hè có âm thanh rộn rã của tiếng nhạc ve. Ve kêu gọi hè đến, hè
đến làm cho rừng phách ngả sang màu vàng rực rỡ, nôn nao. Chữ “đổ” cực kì tinh tế. Nó
9


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

vừa nhấn mạnh đến việc biến đổi màu sắc mau lẹ của rừng phách, vừa diễn tả được những
trận mưa hoa phách mỗi khi có đợt gió ào thổi.
- Hình ảnh lao động đầy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc “Nhớ cô em gái hái măng một
mình”, hình ảnh người phụ nữ Việt Bắc chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm có phần
âm thầm, lam lũ, nhọc nhằn.
* Bức tranh thứ tư (mùa thu):


“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
- Ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyền ảo. Không khí se lạnh của trời
thu theo ánh trăng như bao phủ vạn vật, cỏ cây, ngấm vào nỗi nhớ của những con người
đã gắn bó sâu nặng với Việt Bắc.
- Câu kết đoạn khẳng định phẩm chất ân tình, thủy chung của người Việt Bắc. Chữ “ai” là
cách nói bóng gió, mơ hồ của dân gian khiến câu thơ trở nên tình tứ, thiết tha. Cũng chính
vì vậy mà nỗi nhớ của người ra đi dành cho người ở lại cũng trở nên quyến luyến, quay
quắt, cồn cào, …
 Giai điệu quyến rũ đặc biệt của giọng thơ, nỗi niềm thủy chung ân tình rất đỗi đằm
thắm của đoạn thơ trên nói riêng và của “Việt Bắc” nói chung, trở thành chất men say có
sức ngấm sâu vào trái tim độc giả nhiều thế hệ. Đó là sức sống của “Việt Bắc” và hồn thơ
Tố Hữu.
Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau đây: “Ta với mình, mình với ta
… Chày đêm, nên cối đều đều suối xa”.
(Trích “Việt Bắc” - Tố Hữu)
GỢI Ý
1. Khái quát: (Đề 1)
2. Phân tích cụ thể:
a. Người ra đi khẳng định lòng chung thủy của mình:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
- Ở đoạn đầu của bài thơ, người Việt Bắc trong nỗi niềm của người ở lại: Sợ người ra đi
trở về thành thị sẽ quên mất mình (Sáng đèn có nhớ mảnh trăng giữa rừng). Niềm phấp
phỏng ấy được diễn tả bằng một câu hỏi: “Mình về mình có nhớ …”, “Mình đi có nhớ …
“. Vì vậy 4 câu thơ trên là câu trả lời, sự khẳng định của người ra đi.

- Lời thơ dịu dàng, tình tứ với lối xưng hô thân mật, ngọt ngào của ca dao, dân ca “ta mình”. Nỗi nhớ của người cách mạng về quê hương Việt Bắc giống như nỗi nhớ của
những đôi lứa yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền đôi, thành cặp trong câu đã có đảo trật tự từ
10


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

“Ta với mình, mình với ta” vừa gợi ra sự bịn rịn, lưu luyến, quấn quýt không muốn rời xa
của “ta” và “mình”, vừa khéo léo khẳng định tấm lòng của “ta” cũng giống như “mình”.
- Những từ ngữ chỉ thời gian mãi mãi “sau, trước” chỉ tình cảm trước sau như một, không
nhạt phai,hai từ “đinh ninh”, “mặn mà” xuất hiện liên tiếp trong một câu thơ đã khẳng
định một cách chắc chắn lòng son sắt của những người kháng chiến về xuôi.
- Mượn cách so sánh, ví von quen thuộc của ca dao để giãi bày nỗi nhớ da diết, không vơi
cạn:
“Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.
b. Nỗi nhớ Việt Bắc được diễn tả cụ thể:
(“Nhớ gì như nhớ người yêu
… Chày đêm nện cối đều đều suối xa”)
* Nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc:
- Hàng loạt hình ảnh liệt kê, cụ thể, gần gũi, gợi cảm: trăng, núi, nắng, khói, sương, rừng
nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê … làm hiện lên một thiên nhiên thơ mộng, trữ
tình và mang đậm nét đặc trưng của Việt Bắc.
- Nỗi nhớ có hình ảnh, có thời gian và không gian. Đó là một nỗi nhớ sâu đậm và quá đỗi
chân thành.
* Nỗi nhớ con người Việt Bắc:
- Nét đặc sắc cao quí của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, son
sắt, thủy chung với cách mạng:


“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
- Thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng, trầm tĩnh, thâm u, con người Việt Bắc giản dị, mộc
mạc, dù cuộc sống lao động gian khổ nhưng họ lạc quan yêu đời.
+ Hình ảnh người mẹ vất vả, nhọc nhằm nhưng ấm áp cảm động, địu con trên lưng dưới
cái nắng cháy da để bẻ bắp nuôi bộ đội:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”.
+ Trong kí ức của Tố Hữu, Việt Bắc không chỉ kiên cường trong kháng chiến chống giặc
ngoại xâm mà còn nhẫn nại, cương quyết đương đầu với giặc dốt. Đêm rừng Việt Bắc bập
bùng đuốc sáng của những lớp học i tờ. Niềm vui, sự lạc quan chiến thắng sự gian nan,
người Việt Bắc vẫn ca vang núi đèo:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sớm những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.
11


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

- Việt Bắc trở thành quê hương của những người kháng chiến - tình yêu đã “làm đất lạ hóa
quê hương (Chế Lan Viên). Cả những âm thanh của đời thường cũng đi vào nỗi nhớ của
người ra đi: đó là tiếng mõ gọi trâu về làng, tiếng chày giã gạo đêm đêm:


“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nên cối đều đều suối xa”.
- Nỗi nhớ dội vào nỗi nhớ, điệp từ “nhớ” và kiểu câu bắt đầu bằng “Nhớ sao” khiến nỗi
nhớ như trải dài vô tận.
Đề 3: Phân tích đoạn thơ sau:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa…”
(Trích “Việt Bắc” – Tố Hữu)
GỢI Ý
1. Khái quát:
2. Phân tích:
a. Những xúc động vừa tự hào vừa nghẹn ngào của người Việt Bắc về 15 năm kháng
chiến gian khổ trong giờ phút chia tay:
* Trong cấu tứ toàn bài “Việt Bắc”, Tố Hữu đã tưởng tượng, sáng tạo ra một đôi bạn tâm
tình “mình – ta”, tưởng tượng người ở lại là Việt Bắc và người ra đi là những cán bộ
kháng chiến đối đáp với nhau. Trong cuộc đối đáp giao duyên chia tay lịch sử này, Việt
Bắc lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời vận động CM, đấu tranh gian khổ (6
năm trước CMT8 và 9 năm kháng chiến chống Pháp)
* Lời của Việt Bắc chỉ có 12 câu lục bát nhưng tất cả đều xoáy vào kỉ niệm không thể nào

quên của những ngày CM còn trứng nước:
- Kỉ niệm của một thời vận động đấu tranh cách mạng gian nan và khổ cực. Những từ ngữ,
những hình ảnh chỉ cần nhắc cũng gợi ra nỗi nhớ cảm động:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
12


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

-> Hình ảnh “mưa nguồn – suối lũ – mây mù” vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa
tượng trưng cho những khó khăn, thử thách, khốn khó, cơ cực mà đồng bào và cán bộ đã
phải chịu đựng và vượt qua
- Đó là những kỉ niệm thắm thiết nghĩa tình sâu nặng:
+ Cũng chính trong hoàn cảnh đó, Việt Bắc và con người VB càng “ đậm đà lòng son”,
cưu mang cách mạng và những người con cách mạng. Bốn chữ “đậm đà lòng son” cứ ấm
nóng, tỏa sáng không chỉ trong bài thơ mà cả ở trong lòng người.
+ Câu thơ “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” tạo ra một tiểu đối vừa gợi sự gian
khổ, vừa như cụ thể hóa mối thù của cách mạng: phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong
kiến tay sai. Mối thù dân tộc như đè nặng lên vai của mọi người.
- Kỉ niệm về những năm tháng vẻ vang, oanh liệt thời tiền khởi nghĩa
+“Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh” -> Với những người trong cuộc chỉ cần gợi
nhớ như vậy là đủ. Kết thúc giai đoạn lịch sử này là những ngày sôi động của Tổng khởi
nghĩa CMT8
+
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa…”
-> Những địa danh, những sự kiện lịch sử, mái đìng Hồng Thái, cây đa Tân Trào được

nhắc đến đã tạo nên trong lòng mọi người niệm tự hào về những ngày tháng Tám mùa thu
1945, cách mạng bùng lên giành độc lập.
b. Đặc sắc nghệ thuật:
- Đoạn thơ ngắn 12 câu đã điệp 8 từ “mình” và 6 từ “nhớ, có nhớ”. Những từ “mình” điệp
ở đầu mỗi câu thơ đã tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào.
Những từ “nhớ, có nhớ” gợi đến âm hưởng của ca dao, dân ca, góp phần diễn tả một cách
cảm động tràn đầy nỗi nhớ về cái nôi VB – quê hương cách mạng.
- Bằng giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết của ca dao, dân ca, của điệu thơ lục bát
đậm đà bản sắc dân tộc, Tố Hữu nhắn nhủ với chúng ta hãy nhớ mãi, hãy giữ lấy cái đạo lí
ân tình thủy chung quý báu của cách mạng.
Đề 4: Phân tích đoạn thơ sau:

“Những đường Việt Bắc của ta….
…..Vui lên việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
( Trích Việt Bắc- Tố Hữu)
GỢI Ý
- Khung cảnh Việt Bắc chiến đấu và chiến thắng với không gian núi rừng rộng
lớn, với những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi
nổi, dồn dập, náo nức:
+ Những nẻo đường chiến khu Việt Bắc, đêm dêm những bước chân hành quân rầm
rập, làm rung chuyển cả đất trời: “Những đường….đất rung”
13


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

+ Đẹp nhất là hình ảnh quân đội nhân dân Việt Nam: hiện lên với sức mạnh hùng hậu
(điệp điệp, trùng trùng) và vẻ đẹp lãng mạn( nhấp nhô đầu súng lấp lánh những ánh

sao). Câu thơ vừa có giá trị tạo hình vừa diễn tả khí thế, niềm vui của quân đội ta đang
trên đà thắng lợi.
+ Hình ảnh của Dân công với “Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”. Tác giả đã thần
thoại hóa sức mạnh của con người, bước chân của họ là bước chân của người khổng lồ,
đội đá vá trời, rung chuyển càn khôn, bước chân của những con người đã làm nên
chiến thắng kì diệu.
- Mở ra viễn cảnh tương lai tươi sáng: “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
…… ……………… đèo De, núi Hồng”
Câu thơ diển tả cảm hứng tự hào, lạc quan tin tưởng về một tương lai tươi sáng. Dù
hôm nay và cả nghìn đêm đã qua, dân tọc ta đã chìm trong khói lửa đau thương, tăm tối,
mịt mù của chiến tranh, của đói nghèo, nhưng ngày mai chúng ta sẽ chiến thắng, chúng ta
sẽ được độc lập, tự do, no ấm…
- Nhà thơ nhắc đến những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi của trăm miền gắn với
những chiến công lừng lẫy cuả Việt Bắc đã đi vào lịch sử của dân tộc( Hòa Bình, Tây Bắc,
Điện Biên…)
- Nghệ thuật:
+ Đoạn đầu: âm điệu thơ êm ả ngọt ngào
+ Đoạn sau: giọng thơ trở nên mạnh mẽ, dồn dập như âm hưởng bước chân hành quân
của quân và dân ta…

ĐẤT NƯỚC
(Trích) - Nguyễn Khoa Điềm
I. Xuất xứ
- “Mặt đường khát vọng » là tập trường ca được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến
khu Trị-Thiên năm 1971. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng
tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, hướng về nhân dân, đất
nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hoà nhịp
với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc
- Đoạn "Đất Nước" trích phần đầu chương V của trường ca "Mặt đường khát vọng".

II. Đề tham khảo :
Đề 1: Phân tích đoạn thơ sau:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…Làm nên Đất Nước muôn đời”
14


Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

facebook.com/hocvancophuong

(Trích Chương V – Trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa
Điềm)
GỢI Ý
1. Khái quát:
- Đoạn thơ “Đất Nước” trích phần đầu chương V của bản trường ca “Mặt đường khát
vọng”. Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các vùng thành thị miền Nam tạm
chiếm, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, Đất Nước, ý thức
được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường hòa nhịp với cuộc chiến đấu của
toàn dân tộc. Trường ca được hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm
1974.
- “Đất Nước” là một đoạn thơ trữ tình - chính luận. Nguyễn Khoa Điềm trình bày những
cảm xúc và suy tưởng về Đất Nước dưới dạng một lời tâm tình, trò chuyện đằm thắm giữa
“anh” và “em”. Từ tư tưởng cốt lõi “Đất Nước của Nhân dân” nhà thơ có những phát hiện
mới mẻ, đặc sắc về Đất Nước.
- Mỗi một thời đại có một cách hiểu, một quan niệm riêng về Đất Nước. Thời trung đại,
quan niệm Đất Nước gắn liền với công lao của các triều đại. Còn ở thời hiện đại, chúng ta
thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, thấy rằng Đất Nước là của nhân dân. Điều này
được các nhà văn Việt Nam ý thức sâu sắc hơn ai hết khi dân tộc ta tiến hành cuộc chiến
tranh nhân dân vĩ đại chống Mĩ cứu nước. Tư tưởng xuyên suốt chương V của “Mặt

đường khát vọng” chính là tư tưởng ấy:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại”

2. Phân tích:
a. Đất Nước là những gì gắn bó, gần gũi với đời sống của mỗi con người.
- Hình tượng thơ của Nguyễn Khoa Điềm óng ánh một màu sắc đặc biệt của chất liệu văn
hóa dân gian. Âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, ca dao,
dân ca đã tạo nên một “khí quyển” dân gian độc đáo, đầy quyến rũ của đoạn thơ. Khí
quyển ấy tạo nên một không gian nghệ thuật gần gũi đến bất ngờ:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”
+Đất Nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, được tạo dựng, bồi đắp qua nhiều thế hệ,
được truyền nối từ đời này qua đời khác. Vì vậy: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”.
+ Mỗi người sinh ra, ý niệm về Đất Nước đã thấm đẫm trong môi trường gia đình, qua thế
giới tinh thần mà người đó sống. Đất Nước có khi bắt đầu từ những câu chuyện kể của
mẹ: “Ngày xửa ngày xưa …”, là nhịp điệu ngàn đời của lời kể cổ tích, có khả năng ngân
vang trong tiềm thức của người Việt. Người đọc lặng đi trước cách định nghĩa về Đất
Nước thật bất ngờ của Nguyễn Khoa Điềm.
- Hình ảnh “miếng trầu bây giờ bà ăn” thật độc đáo, sâu sắc:
15


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
+ Câu thơ gợi lên một tập tục đã ăn sâu vào truyền thống của dân tộc: tục ăn trầu; nó gợi
ra câu thành ngữ quen thuộc: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”; nó gợi ra không gian tình

nghĩa của sự tích “Trầu cau” …
+ Hình ảnh “miếng trầu bây giờ bà ăn” còn là biểu tượng thiêng liêng: mỗi miếng trầu đều
gánh trong nó một phần Đất Nước, mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay đều có bốn ngàn năm
tuổi. Quá khứ luôn có mặt với hiện tại, lịch sử vẫn hiện diện với hôm nay. Câu thơ là sự
phát hiện bất ngờ của nhà thơ: Đất Nước được chắt chiu, giữ gìn trong cả những sự vật
bình thường, nhỏ bé.
- Sự nghiệp mở mang - gây dựng luôn gắn liền với sự nghiệp hi sinh và bảo vệ bờ cõi:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
- Đất Nước gắn bó, hiện diện trong những gì thân thuộc, bình dị của cuộc sống hàng ngày,
trong mỗi gia đình:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Ci ko, ci cột thnh tn
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ Đó là hình ảnh người mẹ “tóc bới sau đầu, tần tảo, đảm đang”. Đây là hình ảnh gợi lại
cội nguồn của dân tộc, gợi đến một nét đặc thù của văn hóa Việt Nam – gắn với cách bới
tóc thùy mị của người phụ nữ.
+ Đất Nước được tạo dựng trên nền tảng thủy chung của tình chồng vợ: “Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn”. Trong cay đắng, gian nan của cuộc sống vất vả, nhọc
nhằn cha mẹ càng gắn bó, khăng khít chia ngọt sẻ bùi. Ý thơ làm ta liên tưởng đến âm
điệu tình nghĩa của bài ca dao:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
b. Đất Nước được cảm nhận theo chiều rộng của không gian, chiều dài của thời gian
và chiều sâu của lịch sử:
- Đất Nước được cảm nhận theo chiều rộng của không gian:
+ Đất và Nước là hai yếu tố chỉ vật chất, hai yếu tố khởi nguyên của thế giới, tạo thành khái
niệm chỉ Giang Sơn Tổ Quốc. Đất Nước là không gian gần gũi gắn bó với anh và em (Đất là
nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm); là không gian của tình yêu đôi lứa (“… là nơi ta hò
hẹn, … là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”).

+ Ở đâu trên đất nước cũng gắn với những câu chuyện kể, truyền thuyết, những câu ca đã
đi vào thế giới tinh thần của con người: “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn
núi bạc – Nước là nơi con cá ngư ông móng ước biển khơi”.
 Đất Nước vừa mang ý nghĩa cụ thể, gắn bó, gần gũi với từng cá nhân, vừa mang ý
nghĩa khái quát là lãnh thổ chủ, quyền của quốc gia.
- Đất Nước được cảm nhận theo chiều dài của thời gian và chiều sâu của lịch sử:
16


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

+ Truyền thuyết Tiên - Rồng, Lạc Long Quân - Âu Cơ là truyền thuyết về cội nguồn của người
Việt. Trong truyền thuyết này cũng như trong lịch sử phát triển “đằng đẵng” và “mênh mông”,
mở mang bờ cõi và “đoàn tụ” đã làm nên đặc trưng của dân tộc Việt.
“Thời gian đằng đẵng
Khơng gian mnh mơng
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
+ Mỗi con người Việt Nam, bằng máu xương, mồ hôi, công sức của mình, đã chiến đấu và
lao động để mở mang và hoàn thiện đất nước, để truyền lại cho con cháu một Đất Nước
trọn vẹn. Những giá trị tinh thần bền vững của đất nước gắn liền với quá khứ và - hiện tại
- tương lai được nuôi dưỡng qua các thế hệ, nên mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn
và truyền lại cho con cháu mai sau những truyền thống tốt đẹp của cha ông:
“Những ai đã khuất
Những ai by giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dị con chu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhờ ngày giỗ Tổ”

c. Đất Nước là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc:
- Đất Nước có trong mỗi chúng ta:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
+ Xưng hô “anh - em”  Lời thơ trở thành một lời trò chuyện, tâm tình đằm thắm giữa
Nguyễn Khoa Điềm và thanh niên đô thị miền Nam.
+ Mỗi cá nhân sinh ra và lớn lên đều mang trong mình một phần Đất Nước. Trong “anh và
em” có dòng máu của Lạc Long Quân - Âu Cơ, có truyền thống của “dân mình biết trồng
tre mà đánh giặc, có tình nghĩa thủy chung của cha và mẹ …”
 Hai câu thơ vừa không lời nhắc nhở, vừa là sự khẳng định một cách trang trọng trách
nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc.
- Đất Nước là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung:
+ Đất Nước có trong tình yêu đôi lứa:
“Khi hai đứa cầm tay nhau
17


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”
 Ngay từ những dòng thơ đầu tiên của bài “Đất Nước”, hình ảnh Đất Nước đã hòa
quyện, gắn bó với hình ảnh gia đình thân thuộc: miếng trầu của bà; búi tóc, câu chuyện kể

của mẹ … Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, gia đình là những tế bào nhỏ bé làm
nên sự gắn kết của cả một cộng đồng. “Anh và em cầm tay nhau” – Đất Nước sẽ “hài hòa
nồng thắm” trong tình yêu đôi lứa, trong hạnh phúc gia đình. Hai câu thơ là sự phát hiện
giản dị nhưng cảm động về sự hòa hợp giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu đất nước
và tình yêu dân tộc.
- Đất Nước có trong tình yêu cộng đồng:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn to lớn”
+ Ý thơ mở rộng từ cái “tôi” đến cái “chúng ta”: từ hình ảnh “hai đứa cầm tay nhau” đến
chúng ta cầm tay mọi người” – Đất Nước cũng từ “hài hòa nồng thắm” chuyển thành “vẹn
tròn to lớn”. Đó chính là sự gắn bó giữa cá nhân và cộng đồng.
+ Tình yêu đôi lứa được mở rộng đến tình yêu đồng bào, làm nên sức mạnh đoàn kết dân tộc,
tạo nên thế đứng kiêu hùng của dân tộc trong suốt 4 ngàn năm lịch sử.
- Hình ảnh Đất Nước trong tương lai:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa.
Đến những ngày tháng mơ mộng”
 Đất Nước sau bao biến động thăng trầm của lịch sử đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, đó
là sự kế tục của các thế hệ nối tiếp nhau. Cụm từ “tháng ngày mơ mộng” đã phác họa vẻ
đẹp của Đất Nước trong tương lai. Nhà thơ bộc lộ niềm tin vào thế hệ sau có đủ bản lĩnh
và trí tuệ để đưa Đất Nước bay cao và bay xa.
- Trách nhiệm của cá nhân đối với đất nước:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bĩ v san sẻ
Phải biết hĩa thn cho dng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
+ Lời thơ như thủ thỉ, tâm tình: “em ơi em” cũng là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu lắng
về mối quan hệ giữa cá nhân và Đất Nước. Đất Nước là “máu xương”, là sự hi sinh âm
thầm của biết bao thế hệ đi trước, họ đã “sống và chết”, “giản dị và bình tâm” để làm nên
Đất Nước..

+ Hàng loạt những động từ “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” nhằm nhắn nhủ thế hệ trẻ phải
gần gũi di sản của cha ông, phải cống hiến tâm huyết, tài năng và cả đời sống của bản thân
để xây dựng đất nước. Từ “hóa thân” giàu ý nghĩa hơn từ “hi sinh”, biểu hiện sự dâng
hiến, hòa nhập, sống còn cùng Đất Nước.

18


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

Đề 2: Phân tích đoạn trích “Đất Nước” (Trích Chương V – Trường ca “Mặt đường
khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm) để làm rõ tư tưởng cốt lõi “Đất Nước của Nhân
dân”.
GỢI Ý
1.Khái quát: (Đề 1)
2. Phân tích:
a. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được N.K.Đ thể hiện trước hết bằng một chất
liệu phù hợp: chất liệu văn hóa dân gian:
* Cả bài thơ đã được sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hóa lâu
đời của người VN. Hàng loạt các câu chuyện kể, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca; hàng
loạt các phong tục tập quán, các địa danh xuất hiện trong các câu thơ.
* Những chất liệu dân gian được nhào nặn bằng một cảm xúc mới, bằng ánh sáng của
thời đại mới, những câu thơ vừa hiện đại vừa thấm đẫm chất dân gian truyền thống:
- Những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca đã hóa thân thành các câu thơ của N.K.Đ:
+ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
+ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ “ĐN là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
-> Chúng ta thấy ngay trong diện mạo của các câu thơ là câu thành ngữ: “Một nắng hai

sương”, câu ca dao: “Tay nâng đĩa muối chén gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên
nhau” và bài ca dao nổi tiếng: “Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất – Khăn thương
nhớ ai, khăn vắt lên vai…”
- Có những câu thơ rất giản dị nhưng được nhào nặn, tái tạo từ nhiều nguồn chất liệu khác
nhau: “ĐN bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
+ Câu thơ gợi lên một tập tục đã ăn sâu vào truyền thống của dân tộc (tục ăn trầu), gợi lên
câu thành ngữ quen thuộc “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, gợi không gian tình nghĩa của
“Sự tích trầu cau”…
+ Hình ảnh “miếng trầu bây giờ bà ăn” còn là một biểu tượng thiêng liêng: Mỗi miếng
trầu đều gánh trong nó một phần ĐN; mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay đều đã có 4000 năm
tuổi. Quá khứ luôn có mặt với hiện tại, lịch sử vẫn hiện diện với hôm nay
-> ĐN được chắt chiu, gìn giữ trong cả những sự vật nhỏ bé, bình dị.
=> Văn hóa dân gian đã khơi dòng cảm hứng, chảy từ hình tượng đến từng câu chữ của
đoạn trích “Đất Nước”.
b. Đất nước được cảm nhận theo chiều rộng của không gian, chiều dài thời gian và
chiều sâu của lịch sử:
* Đất nước được cảm nhận theo chiều rộng của không gian :
- Đất và Nước là 2 yếu tố chỉ vật chất, 2 yếu tố khởi nguyên của thế giới, tạo thành 1 khái
niệm chỉ giang sơn tổ quốc. ĐN là không gian gần gũi, gắn bó giữa anh và em, là không
gian của tình yêu đôi lứa, tình yêu ĐN và tình yêu đôi lứa đã hài hòa làm một:
“ Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
19


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lp Vn cụ Phng: 0949175244

N l ni ta hũ hn

N l ni em ỏnh ri chic khn trong ni nh thm
- T duy ca N.K. m rng bao quỏt s sinh thnh, trng thnh, m mang b cừi:
t l ni con chim phng hong bay v hũn nỳi bc
Nc l ni con cỏ ng ụng múng nc bin khi
Thụứi gian ủaống ủaỹng
Khụng gian mờnh mụng
t Nc l ni dõn mỡnh on t
t l ni Chim v
Nc l ni Rng
Lc Long Quõn v u C
ra ng bo ta trong bc trng
-> Truyn thuyt Tiờn Rng, Lc Long Quõn u C l truyn thuyt v ci ngun ca
ngi Vit. Nhc n truyn thuyt ny, nh th va th hin nim t ho v ngun gc
cao quớ ca dõn tc, va gi c hn sụng nỳi mt cỏch thiờng liờng v trang trng.
- Song song vi quỏ trỡnh hỡnh thnh a bn c trỳ ca ngi Vit sut my ngn nm l
s sinh sụi ca cỏc a danh. Mi a danh khụng phi l nhng dũng tờn vụ ngha. ng
sau mi tờn t, tờn rng, tờn nỳi, tờn sụng l mi cuc i; mi cuc i l mt huyn
thoi iu ú cú ngha chớnh nhõn dõn ó gõy dng, m mang, gỡn gi nờn t nc
ny:
V õu trờn khp rung ng gũ bói
Chng mang mt dỏng hỡnh, mt ao c, mt li sng ụng cha
ễi t Nc sau bn ngn nm i õu ta cng thy
Nhng cuc i ó húa nỳi sụng ta
* N c cm nhõn theo chiu di lch s v b dy vn húa:
- im v lch s, N.K. khụng nhc n cỏc triu i ni ting, nhng anh hựng ó lu
danh. Nh th thy lch s 4000 nm ca dõn tc l mt cuc chy tip sc khụng mt mi
ca hng ngn th h. H l nhng ngi vụ danh, l Nhõn dõn ó húa thõn mỡnh cho
dỏng hỡnh x s:
Cú bit bao ngi con gỏi, con trai
Trong bn nghỡn lp ngi ging ta la tui

H ó sng v cht
Gin d v bỡnh tõm
Khụng ai nh mt t tờn
20


Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

facebook.com/hocvancophuong

Nhưng họ đã làm ra ĐN”
- Nhân dân _ những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” đã gìn giữ hồn Việt qua những
việc cụ thể:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để ĐN này là ĐN của Nhân dân
ĐN của Nhân dân, ĐN của ca dao thần thoại”
- Điểm hội tụ và đỉnh cao cuả cảm xúc trữ tình là tư tưởng “Đ/Nước của Nhân dân, Đ/N
của ca dao thần thoại”- nhà thơ khẳng định: chính nhân dân là người đã làm ra đất nước,
và đồng thời sử dụng ý và hình ảnh để gợi nhớ về ca dao để nói lên phẩm chất đẹp đẽ, anh
hùng của nhân dân, đất nước mình.
=> Bằng tấm lòng trân trọng tất ca những gì mà tổ tiên đã chắt chiu, gìn giữ, N.K.Đ đã
sáng tạo những câu thơ làm rung động tâm hồn của người Việt. Đó là sản phẩm của một tư
duy sắc sảo, nhưng trước hết là sản phẩm của một trái tim yêu nước thiết tha.
c. Nghệ thuật:

- Đây là đoạn thơ trữ tình – chính luận; kết hợp thành công xúc cảm và suy nghĩ, trữ tình –
chính luận.
- N.K.Đ đã sử dụng rộng rãi và sáng tạo các chất liệu của văn hóa dân gian _ điều đó đã
tạo ra cho đoạn thơ 1 không gian nghệ thuật đặc sắc: gợi mở 1 thế giới nghệ thuật quen
thuộc, gần gũi mà bay bổng của văn hóa dân gian, kết tinh tâm hồn và trí tuệ của nhân dân.
- Hai chữ ĐN và Nhân dân được viết hoa trang trọng và diệp lại nhiều lần vang vọng khắp
đoạn trích như một khúc nhạc thiêng về sự sinh thành và trường tồn của ĐN.
SÓNG
Xuân Quỳnh
Đề bài: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh
GỢI Ý
21


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

1. Khái quát:
a. Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:
“Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của Xuân Quỳnh ở Thái Bình. In
trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
b. Ý nghĩa hình tượng sóng:
- Hình tượng trung tâm, nổi trội, bao trùm cả bài thơ là hình tượng “sóng”:
+ Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của XQ cũng như mọi sáng tạo nghệ tuật của bài thơ đều
gắn liền với hình tượng “sóng”. Bài thơ là những con sóng tâm tình của người phụ nữ
được khơi dậy khi đứng trước biển khơi mênh mông.
+ Sóng là hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của XQ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm
một, vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào
sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình

tượng “sóng”, XQ đã tìm được cách thể hiện thật xác đáng tâm trạng của người phụ nữ
đang yêu.
- Hình tượng “sóng” được gợi ra trong bài thơ bằng cả âm điệu: bài thơ có một âm hưởng
dạt dào, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc sâu lắng thì thầm… Âm hưởng ấy còn được
tạo nên bởi khổ thơ 5 chữ, những câu thơ liền mạch như những đợt sóng miên man, vô
tận, như một tâm trạng chất chứa những khát khao.
2. Phân tích:
a. Khổ 1 + 2: Trạng thái tâm lí đặc biệt của người phụ nữ đang yêu
- Khổ thơ mở đầu bằng một phát hiện về sóng:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
+ Nữ sĩ phát hiện ra hai sự đối lập trong con sóng muôn đời: Dữ dội, ồn ào, mạnh mẽ,
cuồng nhiệt và dịu êm, lặng lẽ, sâu lắng, dịu dàng.
+ XQ thấy sóng mang trong mình tâm trạng, tính cách của người phụ nữ đang yêu, có sự
hài hòa của các đối cực: vừa dịu êm, lặng lẽ nhất lại vừa dữ dội, ồn ào nhất.
-> Hai câu thơ mở đầu là lời tự thú, tự bạch táo bạo mà êm đềm. Táo bạo vì nó nhận ra sự
mãnh liệt. Êm đềm vì sau những “dữ dội”, “ồn ào” tình yêu của người phụ nữ vẫn nghiêng
đổ về phía cuối câu thơ để dịu dàng và sâu lắng.
- Mỗi con sóng lại mang trong mình một khát vọng lớn. Sóng luôn khao khát tự nhận
thức, tự khám phá, tìm kiếm sự vô biên của tình yêu trong trái tim mình. Vì thế sóng trở
nên quyết liệt, khi “không hiểu nổi mình” … “sóng tìm ra tận bể”, từ bỏ những nhỏ hẹp,
chật chội để tìm đến với sự bao dung, rộng lớn.
- Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với biển, XQ liên tưởng tới sự bất diệt của
khát vọng tình yêu. Biển ngàn đời cồn cào, xáo động như tình yêu muôn đời vẫn “bồi
hồi” vỗ sóng “trong ngực trẻ”
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
b. Khổ 3 + 4: Nhu cầu phân tích, lí giải tình yêu

22


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

- Sóng từ đối tượng cảm nhận được chuyển thành đối tượng để suy tư. Từ cái nền mênh
mông của thiên nhiên “muôn trùng sóng bể”, dòng suy tư của người phụ nữ cuộn lên như
con sóng khôn cùng. Những câu hỏi trở thành cuộc đối thoại lớn với vũ trụ về tình yêu:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Tự nơi nào sóng lên”
- Xúc cảm tình yêu là xúc cảm mạnh nhất trong trái tim con người. Vì vậy, bao đời nay
tình yêu vẫn là câu hỏi lớn. XQ muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng để tìm lời giải đáp
cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
-> Thiên nhiên bí ẩn còn có thể lí giải, nhưng không thể dùng lí trí tỉnh táo để xác định
thời điểm chính xác bắt đầu một mối tình. Lời thú nhận của XQ thật hồn nhiên và chân
thành, nó bộc lộ phần nữ tính mềm mại, đằm thắm trong trái tim người phụ nữ muốn sống
và yêu nồng nhiệt, thiết tha.
c. Khổ 5 + 6: Nỗi nhớ tình yêu
- Tình yêu đi liền với nỗi nhớ. Nỗi nhớ cũng chính là điểm da diết, khắc khoải nhất của
tình yêu. Tâm hồn người con gái đang yêu soi vào sóng, nhờ sóng diễn tả nỗi nhớ vô tận
của lòng mình:
“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nghĩ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
+ Khổ thơ khác biệt (6 câu) là ẩn dụ cho chiều dài mênh mang của nỗi nhớ
+ Hai cặp hình ảnh so sánh độc đáo: Sóng vỗ bờ cả ngày lẫn đêm, em nhớ anh cả lúc thức
lẫn lúc ngủ.
+ Thời gian sinh hoạt còn có giới hạn, thời gian tình yêu thống trị cả tiềm thức lẫn giấc
mơ. Chỉ có trái tim yêu chân thành, mãnh liệt mới khiến tình yêu chiếm lĩnh cả thời gian
và không gian, cả ý thức và tiềm thức như thế.
- Cuộc đời như đại dương mênh mông, vô cùng vô tận. Con sóng thì nhỏ bé. Nhưng giữa
cái mênh mang của vũ trụ, sóng mới bộc lộ đầy đủ những khát khao cháy bỏng, những
đam mê nồng nhiệt mà vẫn quá đỗi dịu dàng, đằm thắm. Đất trời có bốn phương nam –
bắc – tây – đông, nhưng trong vũ trụ tình yêu của người phụ nữ chỉ có một phương duy
nhất “phương anh”
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
23


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

d. Khổ 7 + 8 + 9: Khát vọng tình yêu vĩnh hằng
- Từ nỗi nhớ lúc “dữ dội - ồn ào”, lúc “êm đềm – lặng lẽ”, ý thơ dồn thành khát vọng sống
mãnh liệt của sóng. Sóng tìm đến cái đích của tình yêu trong một niềm tin mạnh mẽ:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
+ XQ mượn quy luật của sóng biển, mây trời để diễn tả qui luật của lòng người. Là một
phụ nữ nhạy cảm và đa đoan, XQ ý thức rất đời: cuộc sống là “dài, rộng”, là “muôn vời
cách trở”
+ Càng thấp thỏm, lo âu, XQ càng cháy bỏng một niềm tin tha thiết, cảm động: tình yêu sẽ
vượt qua mọi trở ngại để tới đích, như những con sóng “con nào chẳng tới bờ” và “mây
vẫn bay về xa”
- Lời thơ cứ thế triền miên cùng sóng. Cuối cùng sóng hiện ra trong khát khao hạnh phúc
mãnh liệt nhất: khát khao tình yêu vĩnh hằng, bất tử:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
+ Đứng trước biển, đối diện với cái mênh mông rộng lớn của thời gian và không gian XQ
ý thức được sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc.
+ Nhà thơ muốn được có mặt mãi trên cõi đời để được sống và bất tử trong tình yêu. Khát
vọng hóa thân và phân thân trong sóng thật mạnh mẽ. Hai chữ “tan ra” vừa cháy bỏng
nồng nhiệt, vừa thăm thẳm nỗi niềm phụ nữ_ cái thăm thẳm của hai khát vọng hòa làm
một: yêu hết mình và dâng hiến hết mình. Đó cũng chính là vẻ đẹp thánh thiện của người
phụ nữ trong tình yêu.

VỢ CHỒNG A PHỦ
Trích

(Tô Hoài)
I.Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ:
- Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trích từ tập “Truyện Tây Bắc” được sáng tác năm
1952 ,là kết quả chuyến đi của Tô Hoài cùng với Bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Tám
tháng sống gắn bó với đồng bào các dân tộc miền núi đã tạo cảm hứng cho ông sáng
tác thành công tác phẩm này.
- Tập “Truyên Tây Bắc” được tặng giải nhất của hội văn nghệ Việt nam 1954-1955
24


facebook.com/hocvancophuong

Tham gia lớp Văn cô Phương: 0949175244

II. Tóm tắt truyện:
III. Phân tích giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ”
Gợi ý:
1)Giá trị hiện thực:
a)Tác phẩm phản ánh nỗi khổ cực của người dân lao động nghèo miền núi Tây
bắc đặc biệt là số phận bất hạnh của người phụ nữ
IV. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở
Hồng Ngài
Gợi ý:
1.MB:
2. TB:
a. Giới thiệu sơ lược về nhân vật Mị trong tác phẩm.
b. Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân:
- Trước đêm tình mùa xuân, do bị đày đọa, Mị trở thành người phụ nữ vô hồn, mất cả cảm
giác về thời gian lẫn không gian. Kiếp sống của cô chẳng khác nào con trâu, con ngựa

trong nhà thống lí Pá Tra. Tuy nhiên sức sống trong tâm hồn cô không hoàn toàn lụi tắt,
chẳng qua vì hoàn cảnh bị vùi dập quá phũ phàng. Nó sẽ trỗi dậy khi có điều kiện.
- Sự tác động của bối cảnh bên ngoài đã đem đến cho Mị cơ hội ấy. Mùa xuân năm ấy ở
Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao:
„Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch đã đốt
những lều canh nương để sưởi lửa…Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ
gianh vàng ửng…Trong các làng Mèo, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá,
xòe như con bướm sặc sỡ…Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trước sân nhà. Ngoài đầu
núi,đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi…” Chính không gian rộn rã sắc màu cùng tiếng
sáo tha thiết đã đánh thức cô Mị ngày xưa. Tiếng sáo như chạm vào nỗi nhớ, Mị nghe
tiếng sáo vọng lại, thấy lòng “thiết tha, bổi hổi”, cô nhẩm thầm bài hát quen thuộc. Có thể
thấy, giờ đây, tâm hồn Mị bắt đầu hồi sinh.
- Mị đã thức tỉnh và muốn thoát khỏi thực tại, cô tìm đến rượu. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ
uống ừng ực từng bát”. Cô như muốn uống phần đời cay đắng đã qua, uống cả những khát
khao chưa tới. Uống rượu, Mị sống lại cả một thời xuân sắc. Đó là thời con gái trẻ trung
và kiêu hãnh. Ai cũng có một thời như thế và Mị thấy nao nao tiếc nuối.
Ngà ngà say, tai Mị rập rờn tiếng sáo. Lúc ấy Mị thực sự đã sống dậy với tuổi trẻ và tình
yêu. “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê,
ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” và cô ý thức rằng mình hãy còn trẻ lắm.
- Sự đối lập giữa hoàn cảnh đêm xuân, giữa thế giới tâm hồn được đánh thức với cuộc
sống thực tại: Khi say, Mị nhớ và sống lại với ngày xưa, nhưng thực ra, cô vẫn đang ở nhà
của thống lí Pá Tra, vẫn đang sống kiếp đọa đày với A Sử. Cô ý thức rất rõ sự thật nghiệt
ngã này, và chính lúc này đây cô ước ao được giải thoát khỏi kiếp sống tủi nhục đó. Mị
nghĩ đến việc kết liễu đời mình như ngày mới về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị “ ước gì
có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa.
Càng nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”.
25



×