Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

1 số câu hỏi ôn tập luật thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.58 KB, 8 trang )

1. Các biện pháp SPS phải tuân thủ các nguyên tắc gì? Doanh nghiệp Việt Nam phải
đối phó với các biện pháp SPS của các nước nhập khẩu như thế nào?
a) Hiệp định SPS quy định các nước thành viên khi ban hành và áp dụng các biện pháp
này phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Chỉ được áp dụng ở mức cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ con người, động
vật, thực vật và phải căn cứ vào các nguyên tắc khoa học (trừ một số ngoại lệ, ví dụ dịch
bệnh khẩn cấp);
- Không tạo ra sự phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không có căn cứ hoặc gây ra
cản trở trá hình đối với thương mại;
- Phải dựa vào các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế, nếu có;
- Khuyến khích việc hài hoà hoá các biện pháp SPS giữa các nước.
Một biện pháp SPS không tuân thủ một trong các nguyên tắc trên có thể là vi phạm WTO
và có thể bị buộc phải huỷ bỏ. Vì vậy, doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý đến các nguyên tắc
này để nhận biết và kịp thời phát hiện các trường hợp biện pháp SPS vi phạm WTO để có
hình thức tự khiếu nại, khiếu kiện hoặc thông báo cho Chính phủ, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình.
b) Một số biện pháp SPS ở các thị trường được áp dụng một cách ổn định, thường xuyên và
liên tục (không phải biện pháp bất thường và không mang tính trừng phạt). Hàng hoá từ tất cả
các nguồn đều phải đáp ứng các điều kiện này. Vì vậy, về nguyên tắc, đối với doanh nghiệp
Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa, không có biện pháp phòng tránh hay đối phó mà chỉ có
biện pháp duy nhất là tuân thủ. Doanh nghiệp có thể thiết lập các biện pháp, quy trình tuân
thủ mang tính ổn định (ví dụ thủ tục khử trùng, kiểm soát sâu bệnh…) để hàng hoá đáp ứng
được các yêu cầu này.
Một số biện pháp SPS được áp dụng bất thường do sự xuất hiện của các dịch bệnh hay rủi ro
nào đó từ nguồn động thực vật. Do đó, doanh nghiệp cần thường xuyên lưu ý đến các biện
pháp SPS ở từng thị trường xuất khẩu trong từng thời kỳ để có biện pháp tuân thủ thích hợp,
tránh việc hàng hoá không được thông quan vì các lý do vệ sinh dịch tễ, gây thiệt hại cho
doanh nghiệp.


2. WTO quy định những nguyên tắc gì về các biện pháp kỹ thuật? Tại sao WTO


không tạo ra những biện pháp kỹ thuật thống nhất chung cho hàng hoá của tất cả
các nước thành viên?
a) Theo Hiệp định TBT, khi ban hành các quy định về kỹ thuật đối với hàng hoá, mỗi nước
thành viên WTO đều phải đảm bảo rằng việc áp dụng các quy định này là:


Không phân biệt đối xử;



Tránh tạo ra rào cản không cần thiết đối với thương mại quốc tế (nếu có thể dùng
các biện pháp khác ít hạn chế thương mại hơn);



Hài hoà hoá;



Có tính đến các tiêu chuẩn quốc tế chung;



Đảm bảo nguyên tắc tương đương và công nhận lẫn nhau (với các nước khác);



Minh bạch;
Đây là những công cụ quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng để bước đầu nhận biết một
biện pháp kỹ thuật có tuân thủ WTO hay không để từ đó có biện pháp khiếu nại, khiếu kiện

hợp lý nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình
b) Các biện pháp kỹ thuật thể hiện những mục tiêu khác nhau của mỗi nước (bảo vệ lợi ích
công cộng, cam kết xã hội, thúc đẩy thương mại…) và cũng phản ánh những đặc trưng khác
nhau của mỗi nước (đặc biệt về điều kiện địa lý, trình độ phát triển, nhu cầu thương mại và tài
chính…). Vì thế, cho đến nay các nước thành viên WTO chưa thể thống nhất về một bộ các
biện

pháp

kỹ

thuật

chung

cho

bất

kỳ

loại

hàng

hoá

nào.

Cũng vì lý do này mà Hiệp định TBT không phải là tập hợp các biện pháp kỹ thuật áp dụng

trực tiếp, bắt buộc chung ở tất cả các nước thành viên cho từng loại hàng hoá mà chỉ đưa ra
các nguyên tắc chung mà các nước phải tuân thủ khi thông qua và thực thi các biện pháp kỹ
thuật

đối

với

hàng

hoá.

Tuy nhiên, Hiệp định TBT cũng nhấn mạnh yêu cầu “hài hòa hoá” các biện pháp kỹ thuật
giữa các nước theo hướng:


Khuyến khích các nước thành viên tham gia vào quá trình hài hoà hoá các tiêu
chuẩn và sử dụng các tiêu chuẩn đã được chấp thuận chung làm cơ sở cho các biện pháp
kỹ thuật nội địa của mình;




Khuyến khích các nước nhập khẩu thừa nhận kết quả kiểm định sự phù hợp với tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật áp dụng tại nước xuất khẩu.
Việc hài hoà hoá các biện pháp kỹ thuật này được WTO khuyến khích bởi nó sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc lưu thông hàng hoá của doanh nghiệp và người sản xuất; người tiêu dùng
cũng được lợi từ sự thống nhất này
3. “Vụ kiện” chống bán phá giá là gì? Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá ?
Doanh nghiệp Việt Nam gặp bất lợi gì trong các vụ kiện chống bán phá giá?

Những yếu tố cơ bản của vụ kiện chống bán phá giá ?
a) Đây thực chất là một quy trình Kiện - Điều tra - Kết luận - Áp dụng biện pháp chống bán
phá giá (nếu có) mà nước nhập khẩu tiến hành đối với một loại hàng hoá nhập khẩu từ một
nước nhất định khi có những nghi ngờ rằng loại hàng hoá đó bị bán phá giá vào nước nhập
khẩu gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu
Mặc dù thường được gọi là “vụ kiện” (theo cách gọi ở Việt Nam), đây không phải thủ tục tố
tụng tại Toà án mà là một thủ tục hành chính và do cơ quan hành chính nước nhập khẩu thực
hiện. Thủ tục này nhằm giải quyết một tranh chấp thương mại giữa một bên là ngành sản xuất
nội địa và một bên là các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài; nó không liên quan đến quan
hệ cấp chính phủ giữa hai nước xuất khẩu và nhập khẩu.
Vì trình tự, thủ tục và các vấn đề liên quan được thực hiện gần giống như trình tự tố tụng xử
lý một vụ kiện tại toà nên thủ tục này còn được xem là “thủ tục bán tư pháp”. Ngoài ra, khi
kết thúc vụ kiện, nếu không đồng ý với quyết định cuối cùng của cơ quan hành chính, các bên
có thể kiện ra Toà án (lúc này, vụ việc xử lý tại toà án thực sự là một thủ tục tố tụng tư pháp).
b) Thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi xác định được đủ ba điều kiện sau đây:
+ Hàng nhập khẩu bị bán phá giá;
+ Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể;
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói trên.
c) Bản thân việc bị kiện chống bán phá giá đã là một bất lợi (bởi khả năng bị kết luận có bán
phá giá và bị áp thuế thường là rất lớn).


Doanh nghiệp Việt Nam nếu bị kiện sẽ bất lợi hơn bình thường bởi trong cam kết gia nhập
WTO, Việt Nam chấp nhận bị xem là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm kể từ ngày gia
nhập (tức là đến hết năm 2018).
Với cam kết này, các nguyên tắc chuẩn của WTO khi tính toán giá thông thường của hàng
hoá bị điều tra (có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định biên độ phá giá) có thể sẽ không
được áp dụng. Việc sử dụng phương pháp thay thế (dựa trên giá và chi phí của doanh nghiệp
ở một nước thứ ba thay vì sử dụng giá và chi phí của chính doanh nghiệp Việt Nam) thường
không phản ánh đúng giá thực tế của doanh nghiệp. Hệ quả là biên độ phá giá có nhiều khả

năng cao hơn biên phá giá tính toán theo cách thông thường; mức thuế chống bán phá giá từ
đó cũng có thể bị đẩy cao hơn.
d) Những yếu tố cơ bản của một “vụ kiện chống bán phá giá”


Đối tượng của vụ kiện là một loại hàng hoá nhất định nhập khẩu từ một hoặc một số
nước xuất khẩu;



“Nguyên đơn” của vụ kiện là ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu sản xuất ra
sản phẩm tương tự với sản phẩm bị cho là bán phá giá gây thiệt hại;



“Bị đơn” của vụ kiện là tất cả các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất và xuất khẩu
loại hàng hoá/sản phẩm là đối tượng của đơn kiện;



Cơ quan xử lý vụ kiện là một hoặc một số cơ quan hành chính được nước nhập
khẩu trao quyền điều tra chống bán phá giá và quyết định việc áp dụng biện pháp chống
bán phá giá.
4. “Vụ kiện” chống trợ cấp là gì? Điều kiện áp dụng thuế chống trợ cấp là gì? DN
VN gặp bất lợi gì trong các vụ kiện chống trợ cấp ?
a) Đây thực chất là một quy trình Kiện - Điều tra - Kết luận - Áp dụng biện pháp chống
trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) mà nước nhập khẩu tiến hành đối với một loại
hàng hoá nhập khẩu từ một nước nhất định khi có những nghi ngờ rằng hàng hoá được trợ
cấp(trừ trợ cấp đèn xanh) và gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự
của nước nhập khẩu.



Mặc dù thường được gọi là “vụ kiện” (theo cách gọi ở Việt Nam), đây không phải thủ tục
tố tụng tại Toà án mà là một thủ tục hành chính và do cơ quan hành chính nước nhập khẩu
thực hiện. Thủ tục này liên quan đến một bên là ngành sản xuất nội địa và một bên là các
nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài. Khác với thủ tục kiện chống bán phá giá, kiện chống
trợ cấp liên quan đến cả Chính phủ nước xuất khẩu (vì liên quan đến khoản trợ cấp của
Chính phủ).
Thủ tục, trình tự kiện chống trợ cấp gần tương tự với thủ tục, trình tự kiện chống bán phá
giá. Cần lưu ý là thủ tục này được quy định gần giống thủ tục tố tụng tại toà án (nên
thường được gọi là “vụ kiện”). Khi cơ quan hành chính ra quyết định cuối cùng về việc áp
dụng hay không áp dụng biện pháp chống trợ cấp, các bên không đồng ý với quyết định
này có thể kiện cơ quan này ra Toà án có thẩm quyền của nước nhập khẩu.
b) Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài được trợ cấp là nước nhập khẩu có
thể áp dụng thuế chống trợ cấp đối với hàng hoá đó.
Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp chống trợ cấp (mà chủ yếu là thuế
chống trợ cấp) chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau
khi đã tiến hành điều tra chống trợ cấp, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả
03 điều kiện sau:
• Hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp (với biên độ trợ cấp - tức là trị giá phần trợ cấp trên
trị giá hàng hoá liên quan - không thấp hơn 1%);
• Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe
doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong nước
(gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);
• Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu được trợ cấp và thiệt hại nói trên.
c) Bản thân việc bị kiện chống trợ cấp đã là một bất lợi (bởi việc kiện tụng thường tốn
nhiều thời gian và tiền của, khả năng bị áp thuế cũng tương đối cao).
Doanh nghiệp Việt Nam nếu bị kiện sẽ bất lợi hơn bình thường bởi trong cam kết gia nhập
WTO, Việt Nam phải chấp nhận bị xem là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm kể từ
ngày gia nhập (tức là đến hết năm 2018). Cụ thể, theo cam kết này, việc tính toán mức trợ

cấp trong các vụ điều tra chống trợ cấp đối với hàng hoá Việt Nam sẽ được thực hiện như
sau:


• Trong trường hợp bình thường: nước điều tra sẽ tuân thủ các quy định tại Hiệp định
SCM để tính toán mức độ và đo lường tác động của trợ cấp;
• Trong trường hợp khó khăn đặc biệt cản trở việc áp dụng các quy định tại Hiệp định
SCM: nước điều tra có thể sử dụng các phương pháp khác để thực hiện các tính toán này.
5. Điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ là gì? Tại sao nói tự vệ là công cụ phải trả
tiền ?
a) Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra
vàchứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
• Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
• Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt
hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng; và
• Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe
doạ thiệt hại nói trên.
Điều kiện chung: Việc tăng đột biến lượng nhập khẩu gây thiệt hại nói trên phải là hiện
tượng mà nước nhập khẩu không thể lường trước được khi đưa ra cam kết trong khuôn
khổ WTO.
Song song với các điều kiện chung này, một số nước khi gia nhập WTO phải đưa ra những
cam kết riêng liên quan đến biện pháp tự vệ. Trường hợp của Việt Nam, không có ràng
buộc hay bảo lưu nào lớn về các biện pháp tự vệ này, do đó việc áp dụng biện pháp tự vệ ở
Việt Nam đối với hàng hóa nước ngoài, nếu có, sẽ tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO
về vấn đề này
b) Được thừa nhận trong thương mại quốc tế nhưng lại đi ngược lại mục tiêu “tự do hoá
thương mại”, biện pháp tự vệ là một công cụ “phải trả tiền”. Điều này có nghĩa là các
nước được phép áp dụng nó bảo vệ ngành sản xuất của nước mình nhưng phải “trả giá”
cho những thiệt hại mà biện pháp này gây ra cho các nhà sản xuất nước ngoài (như một
hình thức cân bằng cam kết thương mại với nước khác).

Cụ thể, nước áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thường thương mại cho các nước có hàng
hoá bị áp dụng biện pháp tự vệ theo các điều kiện nhất định. Nếu nước này không tuân
thủ, WTO cho phép các nước liên quan được áp dụng biện pháp trả đũa.


6. Tại sao nông sản lại là loại hàng hoá “nhạy cảm” trong thương mại? Quy định của

hiệp định nông nghiệp về các loại sản phẩm, các nguyên tắc mở cửa thị trường, các biện
pháp bảo hộ đối với hàng nông sản, trợ cấp, các ưu tiên cho các nước đang pt ?
a) Có rất nhiều lý do về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội khiến chính sách đối với thương
mại hàng nông sản trở nên đặc biệt “bảo thủ” so với đối với các loại hàng hoá công nghiệp,
trong đó lý do chủ yếu được nêu ra là:
+ Thương mại hàng nông sản đụng chạm đến lợi ích của một bộ phận dân cư vốn có
thu nhập không cao ở cả các nước phát triển và các nước đang phát triển;
+ Mỗi nước đều có nhu cầu đảm bảo nguồn cung lương thực ổn định trong hoàn
cảnh thế giới thường xuyên có biến động về thu hoạch và các nguy cơ nạn đói
rình rập
b) Các quy định của HDNN :
- Sản phẩm nông nghiệp : Trong WTO, hàng hoá được chia làm hai (02) nhóm chính: nông

sản và phi nông sản. Nông sản được xác định trong Hiệp định Nông nghiệp là tất cả các sản
phẩm liệt kê từ Chương I đến XXIV (trừ cá và sản phẩm cá) và một số sản phẩm thuộc các
chương khác trong Hệ thống thuế mã HS (Hệ thống hài hoà hoá mã số thuế). Với cách hiểu
này, nông sản bao gồm một phạm vi khá rộng các loại hàng hoá có nguồn gốc từ hoạt động
nông nghiệp như
- Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa gạo, lúa mỳ, bột mỳ, sữa, động vật sống, cà phê,
hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi…;
- Các sản phẩm phái sinh như bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt…;
- Các sản phẩm được chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như bánh kẹo, sản phẩm từ sữa, xúc
xích, nước ngọt, rượu, bia, thuốc lá, bông xơ, da động vật thô…

- Nguyên tắc mở cửa thị trường :
+ Thuế quan hoá các biện pháp phi thuế;
+ Bãi bỏ các hàng rào phi thuế (trừ một số trường hợp nhất định);
+ Tăng thuế quan có điều kiện (chỉ áp dụng đối với các nước đang phát triển và
chậm phát triển);


+ Giảm dần thuế quan theo lộ trình (tính riêng mức giảm và lộ trình giảm cho từng
nhóm nước đang phát triển, phát triển, chuyển đổi);
+ Đảm bảo việc tiếp cận thị trường tối thiểu (quy định mức hạn ngạch nhập khẩu tối
thiểu mà nước nhập khẩu phải cho phép đối với những loại nông sản mà trước đó
hầu như đóng cửa với hàng hoá nước ngoài);
+ Các biện pháp tự vệ đặc biệt.
- Các biện pháp bảo hộ :
Cụ thể, theo Hiệp định Nông nghiệp thì ngoài các vấn đề thương mại, các quốc gia chỉ có thể
đưa ra các biện pháp bảo hộ nông sản dựa trên các lý do nhất định, bao gồm:
(i) Những vấn đề không liên quan đến thương mại (ví dụ như vấn đề an ninh lương thực quốc
gia);
(ii) Bảo vệ môi trường;
(iii) Các hình thức đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các nước đang phát triển;
(iv) Những tác động có thể xảy ra khi thực hiện chương trình cải cách mở cửa thị trường
nông sản theo quy định tại Hiệp định (đối với các nước chậm phát triển và nước thuần tuý
nhập khẩu lương thực)
- Ưu tiên cho các nước đang pt :
Hiệp định Nông nghiệp cho phép các thành viên là nước đang phát triển được hưởng những
“ưu tiên” sau đối với hàng nông sản:
- Mức độ buộc phải giảm thuế nhập khẩu và giảm các biện pháp trợ cấp ít hơn (chỉ bằng
khoảng 2/3 mức độ giảm áp dụng cho nước thành viên phát triển - thậm chí nhóm nước kém
phát triển nhất còn được miễn nghĩa vụ giảm thuế và giảm trợ cấp này);
- Thời hạn (lộ trình) thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế và trợ cấp dài hơn.




×