Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sự phát triển lý luận về nhà nước vô sản trong nên dân chủ xã hội chủ nghĩa qua các tác phẩm kinh điển của c mác ăngghen, lê nin và hồ chí minh,liên hệ với nền dân chủ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.14 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà tư tưởng tiến bộ của xã hội loài
người đã gắng sức một cách khó nhọc nhằm giải quyết vấn đề thủ tiêu sự
bất bình đẳng trong xã hội. Mỗi một giai đoạn lịch sử của xã hội, các nhà tư
tưởng đều để lại những học thuyết, những dấu vết nào đó của những tìm tòi
lý luận trong lĩnh vực tư tưởng xã hội.
Chỉ đến những năm đầu thế kỷ XIX, từ những thành tựu khoa học của
nhân loại, từ thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, Mác - Ăngghen
mới tìm thấy chìa khoá để mở cánh cửa giải phóng con người là giai cấp
công nhân phải giành lấy chính quyền, xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Nhưng nó vẫn ở một góc độ, khía cạnh nhất định và chưa được hoàn
thiện. Nó chỉ được hoàn thiện và trớ thành thực tiễn khi V.I.Lênin xây dựng
những hệ thống quan điểm, tư tưởng về nhà nước xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nhà nước đó, đưa nó trở thành thực tiễn ở nước Nga - Xôviết. Đây
chính là công lao to lớn, vĩ đại của Lênin.
Trước sự khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa và sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều người đã biểu lộ sự dao
động và hoài nghi về một nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Bọn chủ nghĩa cơ hội và xét lại cùng các thế lực phản động
chống cộng được dịp tấn công một cách điên cuồng và quyết liệt vào chủ
nghĩa xã hội, phủ định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ định
vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Và ở Việt Nam cũng vậy, cũng không
nằm ngoài mưu đồ đó của bọn chúng. Nhưng với sự sáng suốt của đảng
cộng sản Việt Nam được soi sáng bằng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã
lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân cả nước tiếp tục làm nên những
kỳ tích mới. Trong sự nghiệp xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa thì công

1



nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ngày càng trở nên quan trọng và có ý
nghĩa quyết định tới sự thành công và chiểu hướng phát triển của đất nước.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là điều kiện để phát huy tính sáng tạo và
quyền dân chủ của mỗi con người, là điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội. Do
vậy, vấn đề nhà nước xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước đó được đặt
ra một cách cấp thiết cần phải được nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn.
Vì lẽ đó, tôi dã lựa chọn đề tài: “Sự phát triển lý luận về nhà
nước vô sản trong nên dân chủ xã hội chủ nghĩa qua
các tác phẩm kinh điển của C.Mác- Ăngghen, Lê Nin
và Hồ Chí Minh,liên hệ với nền dân chủ ở Việt Nam.” làm
tiểu luận môn học của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong hệ thống các tác phẩm đồ sộ của các nhà tư tưởng để lại cho
chúng ta thì đã có rất nhiều tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản về
xây dựng một xã hội tốt đẹp, đặc biệt là vấn đề xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Đây là một vấn để lớn nhưng với điều kiện và thời gian và tài
liệu hạn hẹp cùng với vấn đề mang tính lịch sử sâu sắc. Nên trong phạm vi
một tiểu luận, tôi chỉ đi vào nghiên cứu sự phát triển lý luận về nhà nước vô
sản trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa qua các tác phẩm “tuyên ngôn
của đảng cộng sản”, “nội chiến ở pháp”, “nhà nước và cách
mạng”, “thà ít mà tốt”, “đường cách mệnh”.
3. Tình hình nghiên cứu
Là phạm trù trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học, do vậy vấn đề
nhà nước xã hội chủ nghĩa đã thu hút được nhiều nhà khoa học nghiên cứu
và phân tích, giới thiệu trong các tác phẩm đã được in thành sách hay đăng
trên các tạp chí… Nhiều tác giả, nhà nghiên cứu đã quan tâm nghiên cứu đề
cập đến vấn đề này ở nhiều phương diện khác nhau, song tất cả chỉ mới thu
được những thành công nhất định. Mặc dù vậy tôi vẫn muốn chọn đề tài
2



này làm tiểu luận, để khai thác sâu hơn khía cạnh của vấn đề và hy vọng sẽ
tìm ra những nét mới trong nội dung tư tưởng của Lênin về chuyên chính
vô sản.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của tôi là tìm hiểu và làm rõ những nội dung lý
luận về quy luật hoạt động của nhà nước vô sản trong nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa - Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng phương pháp duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử đồng thời sử dụng các phương pháp như:
logic, lịch sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu tài liệu…
6. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liêu tham khảo, tiểu
luận có kết cấu gồm 2 chương và 6 tiết:

3


CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC VÔ SẢN VÀ CHUYÊN
CHÍNH VÔ SẢN QUA CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA
C.MÁC-ĂNGGHEN, LÊNIN VÀ HỒ CHÍ MINH
1.1.

Lý luận của C.Mác về nhà nước chuyên chính vô sản.

Tư tưởng về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản là một trong
những nội dung cơ bản và quan trọng của “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản”. Bằng thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng khi

nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, Mác và Ăngghen đã phát hiện ra quy
luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, về vai trò sứ mệnh lịch sử
của cách mạng vô sản, về con đường cách mạng vô sản và nhiệm vụ
chuyên chính vô sản …
Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới.
Nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch
sử. Tính chất đặc biệt của nó trước hết là ở chỗ nó chỉ tồn
tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, nó là kiểu
nhà nước cuối cùng trong lịch sử của xã hội loài người.
C.Mác khẳng định: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội
cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã
hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời
kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy là không thể
là cái gì khác hơn là “nền chuyên chính cách mạng của giai
cấp vô sản”
Tính chất đặc biệt của nhà nước vô sản còn thể hiện ở
chỗ chức năng cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nó không phải
là chức năng bạo lực mà là chức năng tổ chức xây dựng
kinh tế - xã hội. Khi đề cập đến điều này V.I.Lênin cho rằng:
“Chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn
bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ

4


bản của nó là tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới – xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Cũng vì những tính chất đặc biệt như vậy của nhà nước
vô sản mà những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
đã khẳng định rằng: “ nhà nước vô sản là một kiểu nhà

nước đặc biệt trong lịch sử”; đó là: “nhà nước không còn là
nguyên nghĩa, là nhà nước “nửa nhà nước”. Sau khi những
cơ kinh tế, xã hội của sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước
mất đi thì nhà nước sẽ không còn. Sự mất đi của nhà nước
vô sản không phải bằng con đường “thủ tiêu”, “xóa bỏ” mà
bằng con đường “tự tiêu vong”. Sự tiêu vong của nhà nước
vô sản là một quá trình rất lâu dài.
Tính chất đặc biệt của nhà nước còn được thể hiện ở cơ
sở quyền lực của nó – đó là nền tảng liên minh công – nông
làm nòng cốt cho sự liên minh với mọi tầng lớp những người
lao động khác trong xã hội.
Chuyên chính vô sản là sự thống trị chính trị của giai
cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra
và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Chuyên chính vô sản là phương thức, là phương tiện, là
hình thức để bảo vệ sự thống trị của giai cấp công nhân.
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền thi giai cấp vô sản
phải làm vững công cụ chuyên chính, kiên quyết trấn áp
những thế lực đi ngược lợi ích của nhân dân để bảo vệ
thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Do đó tổ chức, xây dựng là chức năng cơ bản nhất
của chuyên chính vô sản.

5


Nhà nước chuyên chính vô sản là chính quyền của dân,
là nhà nước của dân, do dân, vì dân, do đó, chế độ dân chủ
vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ đó.
Đó là nên dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội, nó lấy dân chủ trên lĩnh vực kinh tế làm chủ
yếu.
Nhà nước vô sản là tổ chức, thông qua Đảng của giai
cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình với toàn
xã hội. Không có sự lãnh đạo của ĐCS, nhà nước không giữ
được bản chất giai cấp công nhân của mình. Nhà nước
chuyên chính vô sản đầu tiên là Công Xã Pari năm 1872.
Sự cần thiết xác lập chuyên chính vô sản để tiến tới
chủ nghĩa cộng sản. Giai cấp vô sản phải tìm mọi cách thu
hút lực lượng đông đảo về phía mình. Ở đây, chuyên chính
vô sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để đảm bảo cho sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân.
1.2.

Lý luận nhà nước vô sản của Lênin qua tác phẩm “nhà

nước và cách mạng”,”thà ít mà tốt”
a). lý luận nhà nước trong tác phẩm nhà nước và cách mạng
Theo Lênin, vấn đề Nhà nước bao giờ cũng là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng. Đúng như Mác đã tổng kết cuộc cách mạng Pháp 1848 1851 trong tác phẩm Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapác đã
viết: Các chính Đảng lần lượt nối gót nhau đấu tranh giành chính quyền,
đều coi việc đoạt lấy tòa lâu đài Nhà nước đồ sộ kia là chiến lợi phẩm chủ
yếu của kẻ chiến thắng.
- Khi giai cấp vô sản giành được chính quyền thì sức mạnh của đảng
được thực hiện thông qua nhà nước, đảng sẽ lãnh đạo được toàn xã hội.

6


- Lênin dự đoán được cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười

Nga nhất định sẽ thành công, chính quyền Xô viết sẽ về tay công nông. Để
giúp giai cấp vô sản hiểu về nhà nước, biết cách quản lý nhà nước của
mình, Người viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng.
Vì vậy, vấn đề nhà nước được đặt ra một cách cấp bách. Tác phẩm
Nhà nước và cách mạng chính là sự chuẩn bị lý luận về nhà nước và cách
mạng cho giai cấp vô sản giành chính quyền và nắm lấy chính quyền, là
cương lĩnh xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản, vũ trang về mặt lý luận
cho giai cấp vô sản và quần chúng cách mạng Nga, làm cho những hoạt
động khởi nghĩa vũ trang có sự chỉ đạo lý luận mácxít.
Lênin đã kế thừa và phát triển một cách xuất sắc học thuyết của Mác Ăngghen về chuyên chính vô sản. Nhà nước và cách mạng là tác phẩm thể
hiện xuất sắc về học thuyết này.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa (chuyên chính vô sản) là Nhà nước “thể
hiện lợi ích và ý chí của toàn thể nhân dân và là công cụ xây dựng chủ
nghĩa cộng sản. Nhà nước đã ra đời do việc xã hội phân hoá thành các giai
cấp và do giai cấp thống trị cần khuất phục quần chúng nhân dân. Nó là sản
phẩm và là biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà
được. Chức năng cơ bản của Nhà nước đó trước đây là trấn áp và hiện nay
ở các nước tư bản chủ nghĩa vẫn là đàn áp. Trong tiến trình cách mạng xã
hội chủ nghĩa, bộ máy Nhà nước bóc lột bị phá hủy và thay thế bởi Nhà
nước chuyên chính vô sản. Nhà nước toàn dân ra đời trong giai đoạn chủ
nghĩa xã hội phát triển và đóng vai trò kế tục Nhà nước chuyên chính vô
sản sau khi Nhà nước này đã hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử của mình
và xã hội đã bước vào xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
b). Nội dung cải tiến bộ máy nhà nước trong tác phẩm “ Thà ít mà tốt”
của V.I.Lênin.
- Cải tiến về chủ trương, đường lối, chính sách của đảng.

7



Theo Lênin đánh giá quan điểm Nhà nước sau năm năm
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Nhà nước Nga
Xôviết có tầm ảnh hưởng lớn đến các nước và các dân tộc
trên thế giới bị áp bức, bóc lột một cách sâu sắc và rõ rệt,
V.I.Lê nin khẳng định ý nghĩa trọng đại của nhà nước Xôviết.
Cải tiến bộ máy nhà nước là cải cách thể chế, thủ tục hành
chính, tinh giản biên chế, thực hành một nền công vụ có
hiệu năng bởi một đội ngũ công chức tinh thông nghề
nghiệp, biết làm việc trên tinh thần phục vụ nhân dân đi
liền với chống tệ nạn quan liêu, ăn hối lộ tham nhũng là vấn
đề đã được Lênin nhấn mạnh nhiều lần.
Từ sau năm năm nhà nước Xôviết đã tạo ra một xã hội
mới, một kỉ nguyên mới V.I.Lênin viết: “Trong hàng mấy
trăm năm nay, người ta đã xây dựng nên những nhà nước
theo kiểu tư sản, và đây là lần tiên, chúng ta đã tìm ra một
hình thức nhà nước không phải tư sản…Dẫu cho bộ máy nhà
nước của chúng ta còn kém cỏi, nhưng nó đã được sáng tạo
ra”. Trong lúc bấy giờ mặc dù đất nước bị trì trệ, lạc hậu về
kinh tế, đồng thời V.I.Lênin không xem thường mặt yếu kém
của bộ máy Xôviết sau năm năm xây dựng và những
nguyên nhân của những yếu kém đó. Những hạn chế đó là:
Quan liêu, thủ cựu, bảo thủ muốn giữ nguyên cái cũ không
muốn đổi mới cái gì cả.
- Cải tiến tổ chức bộ máy nhà nước.
Theo V.I.Lênin trong báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Trung Ương Đảng Cộng sản Bônsêvích ngày 27 tháng
3 năm 1922, Lênin đã chỉ rõ: “Trong hàng mấy trăm năm
nay người ta đã xây dựng lên những nhà nước theo kiểu tư

8



sản và đây là lần đầu tiên, chúng ta đã tìm ra một hình thức
nhà nước không phải tư sản… Dẫu cho bộ máy nhà nước
của chúng ta còn kém cỏi, nhưng nó đã được sáng tạo ra,
đó là một phát minh lịch sử vĩ đại nhất, một nhà nước kiểu
vô sản đã được sáng tạo ra” Tiến hành xây dựng cải cách bộ
máy nhà nước, vấn đề đầu tiên Lênin đề cập và chọn là cải
tổ Bộ dân ủy thanh tra công nông, và theo Lê nin đây là
công cụ quản lí nhà nước, do đó phải là một cơ quan gương
mẫu. V.I.Lênin nói: “Nếu chúng ta thật muốn, trong vài năm
nữa, đi dến chỗ tạo nên được một cơ quan, một là sẽ gương
mẫu, hai là sẽ được mọi người tín nhiệm tuyệt đối, ba sẽ là
chỉ cho tất cả và cho từng người thấy rằng chúng ta đã thực
tế cáng đáng được công tác của cái cơ quan công tác ấy, là
Ban kiểm tra Trung Ương”. Và V.I.Lênin đưa ra quy tắc để
cải tổ bộ máy là: Thà ít mà tốt. Thà ít một năm hay thậm chí
ba năm còn hơn là hấp tấp vội vàng mà không có chút hy
vọng nào đào tạo được một nhân lực tốt, pahri lựa chọn một
cách cẩn thận những cán bộ của ủy ban kiểm tra công
nông, tuyển những cán bộ có kinh nghiệm nhất trong các cơ
quan, sau đó tiếp tục đào tạo. Theo V.I.Lênin “Phải vĩnh viễn
vứt bỏ ngay tất cả những tiêu chuẩn chung về số lượng
nhân viên của các cơ quan thuộc bộ ấy. Chúng ta phải lựa
chọn đặc biệt cẩn thận những cán bộ của Bộ dân ủy thanh
tra công nông, căn cứ vào một sự kiểm tra nghiêm ngặt
nhất, chứ không khác được”. Nhà nước mà V.I.Lênin muốn
xây dựng và thực hiện nó thành công phải được xây dựng
trên cơ sở vững chắc của khối liên minh công – nông. Liên
minh công nông phải có cái mới về số lượng và chất lượng.


9


Nhân dân phải được hợp thành một giai cấp nông dân tập
thể. Liên minh công nông là liên minh chính trị đảm bảo cho
bộ máy nhà nước nhân dân được phát huy quyền làm chủ
của mình.
V.I.Lênin viết “Tôi thiết nghĩ rằng đã đến lúc chúng ta
phải đốn một cách đúng mức, một cách hết sức nghiêm túc
bộ máy nhà nươc của ta, đã đến lúc hầu như sự hấp tấp sẽ
gây ra tai hại lớn nhất trong công tác đó”. Để thực hiện cải
tiến bộ máy nhà nước thành công đưa đất nước tiến lên
theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước
Xôviết đã lựa chọn.
V.I.Lênin chỉ ra cần phải tập trung chọn vào bộ máy nhà
nước những cán bộ có kinh nghiệm ở các cơ quan cũng như
trong số những sinh viên các trường Đại học Xôviết, lựa
chọn cán bộ phải theo phương châm: Thà ít mà tốt. Có thể ít
về số lượng nhưng chất lượng phải cao. Phải đổi mới thành
phần bộ máy ấy bằng những lực lượng ưu tú của Đảng trong
giai cấp công nhân và giới trí thức “Nếu trên kia tôi đã viết
rằng chúng ta phải học tập và học tập, trong những viên
nghiên cứu cao cấp về tổ chức lao động,v.v., thì như thế
không hề có nghĩa là tôi quan niệm việc học tập ấy theo lối
nhà trường, hay là tôi chỉ nghĩ đến việc học tập ở nhà
trường. Tôi mong rằng không một người cách mạng chân
chính nào sẽ nghi ngờ rằng trong trường hợp này tôi đã từ
chối hiểu “ học tập” là một cái trò nửa thú vị một mánh lới,
một thủ thuật hay một cái gì cũng đại loại như thế”

- Cải cách hành chính hành chính nhà nước.

10


Để xây dựng một bộ máy nhà nước đủ mạnh, đáp ứng
nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới đòi hỏi chủ trương,
đường lối, phải đổi mới. Bên cạnh đó quyết định là nền cải
tiến thể chế hành chính hành nước. Trong số những cơ quan
nhà nước mà chúng ta đã đặt ra như những việc nghiên cứu
khoa học những viện nghiên cứu cao cấp về lãnh đạo cần
phải chọn lấy một số tối thiểu, kiểm tra xem những cơ quan
đó có được tổ chức với tất cả sự nghiêm chỉnh cần thiết
không, rồi cho những cơ quan đó tiếp tục công việc sao cho
công việc ấy thật sự phù hợp với trình độ khoa học hiện đại
và khiến cho chúng ta được hưởng những lợi ích của tất cả
những thành tựu của khoa học đó “làm được như thế thì sẽ
không phải là một ảo tưởng nếu hy vọng rằng trong vài năm
nữa, chúng ta sẽ có một cơ quan đủ khả năng làm tròn
nhiệm vụ của nó, nghĩa là đủ khả năng tiến hành cải tiến bộ
máy nhà nước ta một cách có hệ thống, không mắc sai lầm,
không được sự tín nhiệm

của giai cấp công nhân, Đảng

cộng sản Nga và của toàn thể nhà nước cộng hòa của
chúng ta”. Thể chế nhà nước Xôviết là một trong những
hình thức được sử dụng để tổ chức và thực hiện chính quyền
của giai cấp vô sản Nga và các nước xã hội chủ nghĩa khác
ở vúng Cápcado và vùng Bantích lúc bấy giờ.

1.3.

Lý luận và ý nghĩa của “Đường cách mệnh”

của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Lý luận của tác phẩm không sách vở mà vạch ra lý luận cách mạng Việt
Nam thiết thực, tri thức lý luận cách mạng Việt Nam đã được hiện diện
trong tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt Nam, dễ hiểu, dễ tiếp thu,

11


kết hợp rất tài tình phương pháp lịch sử và lôgích. Dùng lịch sử để nói lý
luận, từ Cách mạng Pháp đến Cách mạng Nga và kết luận ở Cách mạng
Nga, rồi lấy lý luận soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có cách
mạng vô sản mới giải phóng được dân tộc.
Tác phẩm cũng là một hình mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam của tác giả. Ví dụ: Lênin cho rằng, cách mạng
thuộc địa chỉ có thể giành được thắng lợi khi có sự giúp đỡ của cách mạng
chính quốc, khi cách mạng vô sản chính quốc đã giành thắng lợi, nhưng tác
phẩm phát hiện thêm rằng, cách mạng thuộc địa có thể thành công trước
cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động tích cực đối với cách mạng
chính quốc.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin bàn nhiều về vấn đề giải phóng dân tộc. Tác
phẩm chỉ rõ dân tộc và giai cấp kết hợp với nhau, giải phóng dân tộc bằng
con đường cách mạng vô sản.
Tác phẩm Đường cách mệnh đã thể hiện thiên tài lý luận cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm có giá trị thực tiễn lớn lao, tạo ra sự chuyển
biến căn bản, nhanh chóng trong nhận thức và hành động cách mạng của

cán bộ và đông đảo quần chúng, chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Đảng.
Như vậy, trước khi Đảng ra đời, ở Việt Nam đã có sự thống nhất về
tư tưởng chính trị và tổ chức. Đó là điều kiện trực tiếp giữ vững sự thống
nhất trong Đảng ngay từ khi mới thành lập cũng như sau này. Tác phẩm
Đường cách mệnh là một kho tàng tri thức lý luận cách mạng Việt Nam, là
sự thể hiện tư tưởng cơ bản của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Giá trị của tác phẩm
càng được khẳng định khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam tuyên bố rằng, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
Về kẻ thù của dân tộc cách mạng và giai cấp cách mạng đều là thực
dân Pháp. Việc xác định đúng kẻ thù có ý nghĩa rất quan trọng, cách mạng
12


có thắng lợi được hay không chính là ở việc xác định kẻ thù đúng hay sai.
Thực dân Pháp từ khi vào Việt Nam, chúng không những cướp đi độc lập
tự do của dân tộc, áp bức nhân dân ta mà chúng còn làm cho dân ta mất đi
tinh thần đấu tranh. Trong tác phẩm, ta thấy rõ Bác nêu ra tội ác của tư bản
Pháp và giáo hội, chúng đã cướp đoạt hầu hết ruộng đất của nhân dân ta. Vì
vậy, phải chĩa mũi nhọn đấu tranh vào thực dân Pháp.
Về mục tiêu của cách mạng, trong tác phẩm xác định đó là độc lập,
tự do. Tác phẩm đã rất nhiều lần kêu gọi nhân dân thức tỉnh để làm cách
mạng nhằm giành lấy độc lập tự do cho dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
Về lực lượng cách mạng, Bác xác định đó là nhân dân được giác
ngộ. Trong tác phẩm, Người xác định một cách đúng đắn các lực lượng của
cách mạng Việt Nam, dân chúng công nông là gốc cách mệnh. Đây chính là
sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc xác định lực lượng cách
mạng. Chủ nghĩa Mác xác định hai lực lượng chủ yếu trong cuộc cách
mạng này đó là công nhân và nông dân, ở Việt Nam, công nhân và nông

dân là hai giai cấp chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hội nên đó
là hai giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, họ là lực lượng chính
của cuộc cách mạng. Trong đó, công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng,
do những đặc điểm riêng của giai cấp này quy định. Giai cấp nông dân
chiếm tới hơn 90% dân số, họ là lực lượng đông đảo, nhưng do bị thực dân
Pháp cướp hết ruộng đất nên đời sống của họ vô cùng khổ cực, họ có chung
kẻ thù với giai cấp công nhân nên họ là một lực lượng quan trọng của cách
mạng.
Khi thực dân Pháp vào Việt Nam, chúng không chỉ bóc lột công
nhân, nông dân mà các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam cũng
đều bị chúng chèn ép, bóc lột, đời sống của những giai cấp, tầng lớp này
cũng rất khó khăn, vì vậy họ cũng có lòng căm thù thực dân Pháp. Trong

13


tác phẩm, Bác cũng đã nêu dẫn chứng cụ thể của việc không đoàn kết công
nông dẫn tới thất bại.
Trong tác phẩm, không hề thấy Bác đề cập tới giai cấp địa chủ phong
kiến ở Việt Nam, Bác không xếp họ vào hạng kẻ thù cần phải đánh bại.
Như đã biết, trong xã hội Việt Nam, giai cấp địa chủ phong kiến mặc dù có
một bộ phận đi theo đế quốc, làm tay sai cho thực dân Pháp, nhưng một
phần không nhỏ trong giai cấp này vẫn còn tinh thần yêu nước, tham gia
tích cực vào các phong trào chống thực dân Pháp, vì vậy việc Nguyễn Ái
Quốc không xác định giai cấp địa chủ, phong kiến vào hàng ngũ kẻ thù cần
phải đánh trong tác phẩm này là có nguyên do. Việc xác định lực lượng như
vậy cho thấy chiến lược đoàn kết dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Bởi lẽ,
Người nhận thức rất rõ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn
kết được càng nhiều lực lượng tham gia vào cuộc cách mạng này thì khả
năng chiến thắng càng lớn.

Có thể thấy rằng, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra được những vấn đề lý
luận về Đảng của giai cấp công nhân, Người đã giải đáp được câu hỏi đặt
ra cho cách mạng Việt Nam từ trước tới giờ, đó là về lực lượng lãnh đạo
cách mạng.
1.4.

Mối quan hệ của chuyên chính vô sản và dân chủ xã hội

chủ nghĩa
Lenin đã làm rõ mối quan hệ giữa chuyên chính vô sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa khi khẳng định nhà nước không phải lực lượng đặc biệt để
trấn áp nhân dân lao động mà đó chính là nhà nước của nhân dân lao động
dùng để trấn áp thiểu số bóc lột và mở rộng dân chủ cho nhân dân trên mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Nghĩa là nhà nước và dân chủ có mối liên
hệ với nhau. Nhà nước chuyên chính vô sản và dân chủ vô sản là cao nhất
trong lịch sử.
Phê phán những luận điệu của chủ nghĩa cơ hội về vấn đề dân chủ,
Lenin đã làm rõ bản chất của dân chủ tư sản và tính tất yếu phải thay thế
14


nền dân chủ ấy bằng sự tiêu vong tất yếu, bằng chế độ dân chủ rộng rãi cho
tuyệt đại đa số nhân dân cũng như luận giải cho sự tiêu vong tất yếu của
chế độ dân chủ xã hội khi nó đạt đến sự hoàn mỹ trong chủ nghĩa cộng sản
chủ nghĩa.
Lênin đòi hỏi những người cộng sản phải phân biệt sự khác nhau về
nguyên tắc giữa hai giai đoạn đấu tranh vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội,
mặc dù giữa chúng có sự giao kết với nhau. Trên thực tế, mối liên hệ giữa
hai giai đoạn đó là một tiến trình thống nhất và tất yếu: giai đoạn đấu tranh
vì dân chủ chuẩn bị cho giai đoạn đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, giai đoạn

đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội là sự kế tục và hoàn tất giai đoạn đấu tranh vì
dân chủ. Lênin chỉ rõ: “Thắng lợi hoàn toàn của cách mạng hiện tại sẽ đánh
dấu bước kết thúc của cách mạng dân chủ và mở đầu một cuộc đấu tranh
kiên quyết cho cách mạng xã hội chủ nghĩa… Cách mạng dân chủ càng
được thực hiện đầy đủ bao nhiêu thì cuộc đấu tranh mới ấy càng diễn ra
sớm, rộng hơn, rõ rệt và kiên quyết bấy nhiêu”. Theo Lênin, giai câ vô sản
không thể đạt tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội nếu ấp không thực hiện hoàn
toàn và triệt để chế độ dân chủ, nếu không đem những yêu sách dân chủ
được đề ra một cách kiên quyết nhất gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh
cách mạng. Người chỉ rõ: “Không thể thực hiện được chủ nghĩa xã hội
bằng cách nào khác ngoài cách thông qua chuyên chính vô sản, nền chuyên
chính này kết hợp dùng bạo lực để chống lại giai cấp tư sản… với việc làm
cho toàn thể quần chúng nhân dân tham giathực sự bình đẳng và thực sự
rộng rãi vào mọi công việc của nhà nước và vào mọi vấn đề phức tạp trong
việc thủ tiêu chủ nghĩa tư bản”. Như vậy, theo Lênin, quần chúng nhân dân
chỉ có thể hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng và giải quyết được triệt để
những yêu cầu dân chủ chính đáng của mình khi đi theo con đường dẫn đến
chủ nghĩa xã hội do giai cấp vô sản lãnh đạo. Khẳng định mối liên hệ biện
chứng và tất yếu giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

15


CHƯƠNG II. THỰC TIỄN NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Bản chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
dạng nhà nước xã hội chủ nghĩa, bản chất của nhà nước do
cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa
quyết định. Cơ sở kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là

quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, sản phẩm lao động xã hội và sự hợp
tác, giúp đỡ thân thiện giữa những người lao động. Cơ sở xã
hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa là toàn thể nhân dân lao
động mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, là tổ chức quyền lực chính trị của
giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tất cả
các chính sách, pháp luật của nhà nước đều được xây dựng
và thực hiện xuất phát từ lợi ích của con người, cho con
người và vì con người.
Bản chất bao trùm nhất chi phối mọi lĩnh vực của đời
sống Nhà nước Việt Nam hiện nay từ tổ chức đến hành động
thực tiễn là tính nhân dân của Nhà nước. Điều 2 Hiến pháp
năm 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức”. Bản chất nhà nước của dân, do dân và
vì dân được cụ thể bằng những đặc trưng sau:
- Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực:

16


Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập – nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Nay là nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực của Nhà nước không thuộc
về một cá nhân, một nhóm người nào mà thuộc về toàn thể
nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà
nước và thực hiện nó bằng nhiều hình thức khác nhau, trong
đó hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử lập
ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình “Nhân dân sử
dụng dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí
và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân” (Điều 6 Hiến pháp năm 1992).
Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước thông
qua các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước hoặc trực tiếp đưa ra những kiến nghị của
mình với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.2. Nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay.
 Những thành tựu đạt được.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
nhà nước dân chủ thật sự và rộng rãi:
Lịch sử hình thành và phát triển của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có thể nhận thấy rõ trong quá trình
hình thành và phát triển của một chế độ dân chủ mới. Bản
chất dân chủ của Nhà nước ta thể hiện toàn diện trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà nước thực hiện chủ
trương tự do, bình đẳng về kinh tế, tạo ra những điều kiện
làm cho nền kinh tế đất nước có tính năng động, xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát

17



triển của lực lượng sản xuất. Trong điều kiện quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở
hữu và nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa
dạng, đan xen, hỗn hợp. Các thành phần kinh tế kinh doanh
theo đúng pháp luật đều là những bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành
mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước
đang ngày càng phát huy vai trò của đạo trong nền kinh tế,
là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp
nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất
lượng, hiệu quả kinh tế-xã hội và chấp hành pháp luật. Bảo
đảm lợi ích kinh tế của người lao động được coi là động lực,
là mục tiêu của dân chủ.
Trong lĩnh vực chính trị: Nhà nước ta đã tạo ra cơ sở
pháp lý vững chắc, quy định những quyền tự do dân chủ
trong sinh hoạt chính trị. Nhà nước xác lập và thực hiện cơ
chế dân chủ đại diện thông qua chế độ bầu cử và bãi miễn
đại biểu nhân dân trong các cơ quan dân cử. Đồng thời, Nhà
nước thiết lập và thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp, tạo
điều kiện cho nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà
nước, quản lý xã hội, tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghị,
thảo luận một cách dân chủ, bình đẳng vào các vấn đề

thuộc đường lối, chủ trương, chính sách các dự thảo luật

18


pháp quan trọng làm cho nhân dân thực sự là chủ thể của
những chủ trương, chính sách văn bản pháp luật đó.
Trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và xã hội: Nhà
nước thực hiện chủ trương tự do tư tưởng và giải phóng tinh
thần, phát huy mọi khả năng của con người; quy định toàn
diện các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, học tập,
tự do tín ngưỡng,…. bảo đảm mọi người được hưởng những
quyền đó. Tự do tư tưởng, văn hóa và xã hội trên cơ sở chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống
trên đất nước Việt Nam:
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến
lược cơ bản, lâu dài đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện
nay của cách mạng Việt Nam. Nhà nước ta luôn coi vấn đề
dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là nguyên tắc cơ bản để
thiết lập chế độ dân chủ, phát huy quyền lực nhân dân, bảo
đảm công bằng xã hội, đồng thời tạo ra sức mạnh của một
nhà nước thống nhất. Chính sách dân tộc của nước ta thể
hiện như sau:
Thứ nhất, Nhà nước xây dựng cơ sở pháp lý vững vàng
cho việc thiết lập và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo
điều kiện cho mỗi dân tộc đều có thể tham gia vào việc
thiết lập, củng cố và phát huy sức mạnh của nhà nước.
Thứ hai, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân

tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân các
cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Thứ ba, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển,
cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công

19


nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển kinh tếxã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết tập trung
vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
nghèo; khai thác có hiệu quả các tiềm năng thế mạnh của
từng vùng đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; phát huy
nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc
đồng thời tăng cường sự quan tâm, hợ trợ của Trung ương
và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Thứ tư, chú ý tới điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng
dân tộc, mỗi địa phương, tôn trọng các giá trị văn hóa tinh
thần, truyền thống của mỗi dân tộc, xây dựng bản sắc riêng
của Nhà nước Việt Nam với đầy đủ tính phong phú mà vẫn
đảm bảo sự nhất quán và thống nhất.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thể hiện tính xã hội rộng rãi: Nhà nước ta luôn coi việc
giải quyết những vấn đề thuộc các chính sách xã hội là một
trong những hoạt động quan trọng trong lĩnh vực đối nội.
Nhà nước ta luôn quan tâm đặc biệt và toàn diện đến việc
giải quyết những vấn đề xã hội như: xóa đói giảm nghèo,
chăm sóc sức khỏe nhân dân, đầu tư phòng chống thiên tai,
xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm,

chống thất nghiệp,…. nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội
văn minh, đảm bảo công bằng xã hội.
- Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa
bình, hợp tác, hữu nghị: Thực hiện nhất quán chính sách
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ kinh tế. Chủ động tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh

20


vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực.
 Những hạn chế còn tồn tại.
Việc thực hiện pháp luật dân chủ hiện nay vẫn còn
nhiều bất cập, chưa thực sự phát huy được tác dụng và hiệu
quả, nhất là ở cơ sở - nơi gần dân nhất và trực tiếp giải
quyết những công việc liên quan đến nhân dân.
Tình trạng vi phạm dân chủ vẫn chưa được giải quyết dứt
điểm, quyền làm chủ của nhân dân chưa được coi trọng
đúng mức, còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực;
tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền
hà cho dân chưa được đẩy lùi; một bộ phận cán bộ công
chức bị thoái hoá, biến chất, chưa thực sự là công bộc của
nhân dân; không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình
thức, dân chủ không đi liền với kỷ luật và pháp luật; cơ chế
và pháp luật đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân chưa được cụ thể hóa đầy đủ, đó là những điều đảng và

nhà nước ta đang phấn đấu khắc phục nhằm đưa nước ta
thực sự trở thành một nước dân chủ, văn minh và thịnh
vượng.

21


KẾT LUẬN
Thực tiễn đời sống chính trị, xã hội ngày nay đã có những biến chuyển
to lớn. Các thế lực chủ nghĩa tư bản vẫn đang ngày đêm ráo riết tấn công
vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tấn công vào những giá trị nền tảng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Trước thực tế đó, tấm gương mẫu mực của người chiến
sĩ cộng sản trung kiên trong việc bảo vệ những giá trị đúng đắn, khoa học
của chủ nghĩa Mác của Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh lại càng có ý nghĩa
thiết thực.
Vận dụng những tư tưởng đó của C. Mác- Ăngghen và Lênin, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm tới việc xây dựng và củng cố nhà
nước . Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta không chỉ đổi mới về
kinh tế mà còn đông thời từng bước đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính
trị. Đại hội đã khẳng định những quan điểm về xây dựng nhà nước: nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân; lấy
liên minh giai cấp công - nông - trí thức làm nển tảng, do Đảng cộng sản
lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp
để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động
của nhà nước thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, trong đó có cải cách bộ
máy nhà nước nhằm làm cho bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều nghị quyết, nhiều chủ trương, chính
sách và biện pháp nhằm tăng cường bản chất cách mạng của nhà nước, làm

cho nhà nước ta thật sự là trụ cột của hệ thống chính trị, thực sự là nhà
nước của dân, do dân, vì dân, Vấn đề đặt ra hiện nay là nghiêm túc thực
hiện những điều mà các nghị quyết của Đảng đã đề ra: Chỉnh đốn Đảng,
xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, cải cách nền hành chính nhà nước, kiên quyết chặn đứng tệ nạn quan
liêu, tham nhũng, tranh ginhf quyền lực địa vị. Chỉ có nhiệm vụ mới củng
cố được khối đại đoàn kết: Đoàn kết Đảng, đoàn kết toàn dân tộc, chung
22


sức chung lòng, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì tự do hạnh phúc
của toàn dân, vì độc lập của toàn dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

23


Tài liệu tham khảo
1.

“ Nhà nước và cách mạng”, Lênin toàn tập, tập 33, Nxb Tiến

bộ, Matxcova, 1976 ;
2. Giới thiệu tác phẩm “Nhà nước và Cách mạng” của tác giả GS. TS
Hoàng Chí Bảo và ThS. Lê Quang Hoà.
3. C.Mác vàĂngghen toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 1995 (tập 21).
4.
“Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xôviết”, Lênin
toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1976;
5.

“Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”,
Lênin toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1976;
6.
“Thà ít mà tốt”, Lênin toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ,
Matxcova, 1976.
7.
Giáo trình “Nhà nước và pháp luật”, Nxb Chính trị Quốc gia,
2006
8.
9.
10.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, T 2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, T 4
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng. toàn tập,

Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2002, T 20
11.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng. toàn tập,
Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2005, T 39

24



×